Tôi đang sống ở Boston. Không biết
vì lý do gì, lịch sử của thành phố này lại có rất nhiều liên hệ, có khi gắn bó
và cũng có lúc oan khiên với lịch sử Việt Nam. Và biểu tượng lâu đời nhất của
mối quan hệ Việt Mỹ đầy biến cố là USS Constitution, chiếc hạm được ủy nhiệm
đầu tiên của hải quân Mỹ, bây giờ là một viện bảo tàng nổi nằm ở góc vịnh
Boston.
Hơn hai trăm năm, trước khi có USS
Nimitz, USS George Washington, USS Constitution, hạ thủy 1798 và được trang bị
54 khẩu đại bác, là niềm kiêu hãnh của hải quân Mỹ. Và cũng chính chiến hạm này
đã bắn vào Đà Nẵng năm 1845.
Câu chuyện bắt đầu vào tháng 5-1845,
USS Constitution trên chuyến hải hành thiện chí, đã ghé Đà Nẵng để xin cung cấp
thức ăn, nước uống và xin phép chôn cất một thủy thủ vừa qua đời. Tuy nhiên,
khi biết Việt Nam đang giam giữ Giám mục Dominique LeFevre, một nhà truyền giáo
Pháp đang bị cầm tù, Đại Úy Hạm Trưởng John Percival yêu cầu Việt Nam trao trả
tự do cho giám mục. Phía Việt Nam từ chối. Hạm trưởng Percival tức giận và chỉ
huy một đội quân võ trang đổ bộ xuống Ðà Nẵng. Ông tống đạt thư đòi Việt Nam
phải trao trả tự do cho Giám Mục LeFevre, đồng thời, cũng để chứng tỏ quyết tâm
của mình, hạm trưởng đã hạ lệnh bắt ba viên quan Việt Nam trú phòng Ðà Nẵng làm
tù binh. Phía Việt Nam cũng nhất định không trả tự do cho giám mục. Không làm
gì được, cuối cùng, Hạm trưởng Percival đành thả tù binh và ra đi. Trước khi
nhổ neo, ông ra lịnh cho giàn trọng pháo của USS Constitution nã vào biển Đà
Nẵng một loạt để bày tỏ thái độ bất bình.
Không chỉ mỗi Việt Nam bị hiếp đáp,
thị uy, nhưng cùng một khoảng thời gian đó, 1852, Hạm trưởng Matthew Perry,
trên những chiến hạm tương tự như USS Constitution bây giờ, cũng đã đe dọa chủ
quyền nước Nhật. Hạm trưởng Matthew Perry chưa bắn viên đạn nào, chỉ phô trương
lực lượng thôi nhưng đã làm nước Nhật suy nghĩ.
Trong khi đó, các vua triều Nguyễn
vẫn an nhiên. Những viên đại bác từ USS Constitution bắn vào Đà Nẵng không làm
lung lay bức tường thành hủ nho, phong kiến, lạc hậu trong ý thức của các vua
nhà Nguyễn.
“Bế môn tỏa cảng” chưa hẳn là một
sai lầm. Nếu đóng cửa để suy nghĩ, để gặm nhắm cái nhục, để uống cái đau của
một nước yếu, để trau giồi, học hỏi, canh tân và rồi vươn lên thì cũng không
đáng trách. Các vua triều Nguyễn không được như thế. Chính sách “bế môn tỏa
cảng” thời nhà Nguyễn là bản sao chính sách “bế môn tỏa cảng” của nhà Thanh dẫn
đến việc Trung Hoa bị ngoại bang chia năm xẻ bảy sau đó.
Mặc cho dông bão phương tây đang ùn
ùn kéo tới, vua tôi nhà Nguyễn vẫn cứ tiếp tục miệt mài đèn sách trong kho kinh
sử Trung Hoa, vẫn Tứ Thư Ngũ Kinh, vẫn trọng đạo Thánh Hiền, vẫn hãnh diện vì
“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường.”
Học ngày đó là học để ra làm quan,
để làm thơ chứ không phải để giúp dân, cứu nước. Trong Việt Nam Sử Lược sử gia
Trần Trọng Kim viết về giáo dục dưới triều Nguyễn: “Bao nhiêu công phu của
người đi học chú trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng
những lời thể chú của tiền nho trong những sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước
Tàu.”
Và ông kết luận: “Bởi vậy ai hay
kinh nghĩa đã nghĩ mình hơn người, ai tài thi phú đã tưởng mình giỏi nghề trị
nước. Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ như
rơm rác, coi mình như thần thánh”.
Câu “Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà
lại tự phụ và kiêu căng, cho thiên hạ như rơm rác, coi mình như thần thánh” đọc
lên nghe cay đắng nhưng thực tế làm sao.
Trần Trọng Kim viết câu này cách đây
gần một trăm năm nhưng nếu ai chỉ mới đọc lần đầu có thể hiểu lầm vừa được viết
từ Hà Nội tối hôm qua.
Phong trào giải thể chế độ thực dân
được phát động sau thế chiến thứ nhất và trở thành một cao trào bùng nổ khắp
các quốc gia Á Phi cùng với việc ra đời của Liên Hiệp Quốc sau thế chiến thứ
hai.
Phần lớn các quốc gia bị trị lần
lượt giành được tự do. Dọc bờ sông Nile cho đến vùng Địa Trung Hải, các dân tộc
Phi châu từng bước xây dựng lại đất nước họ. Tại Á Châu, các quốc gia thuộc địa
như Ấn Độ, Mã Lai, Singapore, Nam Dương, hay vừa hình thành sau thế chiến thứ
hai như Đài Loan, Nam Hàn tập trung nỗ lực vào việc tái thiết và canh tân đất
nước để đuổi kịp đà tiến nhân loại. Hành trình dân chủ hóa tại các quốc gia này
gặp rất nhiều hy sinh, thử thách, có khi phải nhuộm bằng máu, nhưng đó cũng là
một mục tiêu đích thực và không thể nào thay thế mà đất nước họ phải đạt đến.
Giống như các nước Phi châu xa xôi
và Á châu gần gũi, lẽ ra Việt Nam cũng có cơ hội giành độc lập và bắt tay xây
dựng đất nước. Việt Nam, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, một lực
lượng lao động cần cù, một dân số không quá đông hay quá ít, một ý chí quật
cường hun đúc từ lịch sử bốn ngàn năm, nếu không phải là con rồng, con phượng
của Á Châu thì cũng không đến nỗi thua kém Thái Lan, Philippines, Ấn Độ, Mã
Lai, Singapore, Nam Dương.
Không.
Trong lúc những quốc gia cùng số
phận đã vượt qua, đã vươn lên, Việt Nam vẫn máu đổ thịt rơi, hàng triệu người
dân Việt Nam vô tội vẫn tiếp tục ngã xuống mỗi ngày trên đồng ruộng Việt Nam.
Tại sao?
Bởi vì khác với các phong trào giành
độc lập tại các nước Á Phi, Việt Nam có đảng Cộng Sản.
Toàn bộ chính sách của Mỹ từ 1946
đến thời kỳ Liên Xô sụp đổ đều hướng đến một mục tiêu duy nhất là ngăn chặn sự
bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản (containment). Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế, chính trị, quân sự của mỗi quốc gia, việc áp dụng chính sách ngăn
chặn diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau.
Đối với Việt Nam, để đương đầu với
một đội quân hùng mạnh của đảng Cộng Sản Việt Nam đang “thừa thắng xông lên”
sau trận Điện Biên Phủ, với sự yểm trợ vũ khí dồi dào của các quốc gia khối
Cộng Sản đứng đầu là Liên Xô và Trung Cộng, trong lúc tại miền Nam một quân đội
quốc gia non trẻ đang mới hình thành, Mỹ đã chọn giải pháp trực tiếp can thiệp
bằng quân sự.
Một trăm hai mươi năm, sau khi USS
Constitution đến Đà Nẵng, mùa hè 1965, các chiến hạm Mỹ từng đoàn cập bến.
Những đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ. Ngày đó, người Mỹ chưa biết
nhiều về con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Thật ra họ cũng không cần biết.
Việt Nam chỉ là điểm nhỏ trên bản đồ chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Và để thực hiện chính sách ngăn chặn
Cộng Sản, Mỹ mang máy móc sang Đức, mang sách vở sang Nhật trong khi mang bom
đạn sang Việt Nam.
Thế nhưng, cuộc chiến chưa tàn mà
người Mỹ đã bỏ đi khi chính sách toàn cầu thay đổi. Họ ra đi vội vàng như đã đến
lúc mặc cho cây dân chủ ở miền Nam phải chết non khi vừa bén rễ, mặc cho hàng
triệu người lính miền Nam hết súng, hết đạn, đưa lưng trần chịu pháo, mặc cho
hàng triệu đồng bào miền Trung, miền Tây Nguyên phải tay bồng bế con thơ, lưng
cõng cha mẹ già, bỏ làng mạc ruộng vườn chạy trốn trong lúc T54, T76 đang rượt
đuổi theo sau.
Trong ly rượu chúc mừng chiến thắng
ở Moscova, ở Trung Nam Hải, có nước mắt của những đứa bé Việt Nam không cha, có
máu của những bà mẹ Việt Nam bất hạnh nhỏ xuống khắp ba miền.
Mỗi khi nhìn USS Constitution tôi
lại nghĩ đến những quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Trong suốt hơn mười năm làm
việc ở trung tâm thành phố Boston, tôi đi ngang qua đó nhiều lần và thậm chí có
dịch một bài báo của tờ Boston Globe về chuyện người lính hải quân Mỹ đầu tiên
thuộc USS Constitution được mai táng tại Đà Nẵng, nhưng chưa bao giờ đặt chân
lên chiếc tàu chiến đó.
Ghét Mỹ chăng? Không. “Quốc gia chỉ
có quyền lợi chứ không có kẻ thù”, câu nói quen thuộc đó đã được Ngoại Trưởng
Mỹ Hillary Clinton lập lại khi bắt tay lãnh tụ độc tài Moammar Gaddafi tháng 9,
2009. Và hôm nay cũng chính bà Hillary Clinton tuyên bố Moammar Gaddafi phải
chịu trách nhiệm cho những vi phạm nhân quyền tại Libya mặc dù nhân quyền tại
Libya bị chà đạp hơn 40 năm chứ không phải chỉ vài tuần qua.
Nhìn số phận của các dân tộc Libya,
Ai Cập, không thể không nghĩ đến số phận hẩm hiu suốt mấy trăm năm của dân tộc
mình.
Thật vậy. Nếu có một dân tộc phải
được xếp vào danh sách những dân tộc chịu đựng dưới chính sách đô hộ hà khắc,
đồng hóa bất nhân và diệt vong tàn bạo nhất trong bàn tay của các đế quốc ngoại
bang xâm lược thì bên cạnh một Do Thái với hai ngàn năm lưu vong và những lò
thiêu sống của Hitler, một Armenia bị diệt chủng dưới gót giày của đế quốc
Ottoman, phải có một Việt Nam trong một ngàn năm nô lệ dưới các triều đại Tần,
Hán, Ngô, Tấn, Tùy, Đường, Minh.
Thật vậy. Nếu có một dân tộc là nạn
nhân của chế độ thực dân tàn bạo với tất cả cực hình tàn khốc, thì bên cạnh một
Congo trước những thanh gươm bén của vua Bỉ Leopold, một Triều Tiên dưới chính
sách đồng hóa của Nhật, phải có một Việt Nạm dướt gót giày Thực Dân Pháp gần
suốt một trăm năm. Thực dân đến Việt Nam không phải để gieo rắc tinh thần tự do
được dấy lên từ cách mạng 1789 mà để cướp đoạt tài nguyên và bóc lột tận cùng
sức lao động của nhân dân Việt Nam.
Phải chi ông bà chúng ta ngày đó
biết thức thời mở cửa, tiếp nhận nhiều nguồn khác nhau để hóa giải ngoại lực,
từng bước hiện đại hóa đất nước để tăng cường nội lực thì có thể đã thoát nạn
thực dân, Cộng Sản và Việt Nam đâu đến nỗi này.
Dù sao, lịch sử là một dòng sông
không ngừng chảy. Có lúc phải vượt qua những mỏm đá cheo leo nhưng cũng có khi
êm đềm phẳng lặng. Không ai có thể thay đổi quá khứ nhưng có thể học từ những
sai lầm, những thiếu sót để làm đẹp tương lai.
Nhân loại chỉ mới qua khỏi thập niên
đầu của thế kỷ nhưng đã bước một bước thật dài trong khoa học kỹ thuật và đời
sống xã hội. Thời đại hôm nay là thời đại dân chủ. Từ anh chăn cừu trên thảo
nguyên Mông Cổ cho đến người thợ mỏ Phi châu đều đã có quyền chọn lựa người
lãnh đạo của mình.
Hành trình phát triển của loài người
có tính quy luật, từ thấp đến cao, từ lạc hậu đến văn minh, từ thu hẹp đến rộng
mở. Trong quá trình đó, nhân loại đã trải qua nhiều thảm họa nhưng cũng đã
chứng minh khả năng của con người có thể vượt qua thảm họa bằng con đường dân
chủ.
Năm 1974, chỉ có 41 nước trong số
150 quốc gia trên thế giới theo chế độ dân chủ. Năm 1990, ba phần năm tổng số
quốc gia trên thế giới theo chế độ dân chủ. Và hôm nay, dân chủ, tuy mức độ còn
khác nhau nhưng đang là thực tế tại hầu hết quốc gia, ngoại trừ một rất số nhỏ,
trong đó có Việt Nam.
Người Việt có quyền tin rằng tuổi
trẻ Việt Nam chứ không ai khác sẽ là những người mang giọt nước tự do trong
lành tưới lên cánh đồng khô cháy Việt Nam. Những thế hệ trẻ của Việt Nam thế hệ
đầu thiên niên kỷ đang đứng trước nhiều thử thách nhưng cũng nhiều triển vọng.
Nhưng không. Tuy có nhiều tiếng nói bất đồng vang lên và nhiều nhóm trẻ đang
hoạt động trên khắp các nẻo đường đất nước cũng như trong internet, Việt Nam
vẫn chưa có một phong trào tầm vóc đủ lớn như Tunisia hay Ai Cập. Sức đẩy từ
phía dân tộc vẫn chưa đủ mạnh để đưa cuộc cách mạng dân chủ đến nhanh hơn và
tiết kiệm được nhiều hơn những hy sinh chịu đựng của đồng bào.
Tại sao? Có nhiều lý do, nhưng trong
bài này, tôi muốn nói đến một lý do tư tưởng, rằng suốt bao năm qua giới lãnh
đạo đảng Cộng Sản Việt Nam đã áp dụng một chính sách “bế môn tỏa cảng” tư duy
tinh vi và hệ thống.
Đọc bài báo Kết nạp Đảng tại Harvard
đăng trên hầu hết các báo trong nước để thấy cái tác hại của chính sách “bế môn
tỏa cảng” tư duy trong nhận thức của hai trí thức trẻ Trần Phương Ngọc Thảo và
Lê Anh Vinh.
Vua quan thời nhà Nguyễn miệt mài
trong Tứ Thư Ngũ Kinh nho giáo thì giới trí thức trẻ ngày nay bị đầu độc bằng
chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng Hồ Chính Minh phản văn minh, phản khoa khọc và
phản tiến bộ.
Chính sách “bế môn tỏa cảng” tư duy
đã làm các em tin một cách chân thành rằng khác với các đảng Cộng Sản Liên Xô,
Đông Đức, Ba Lan, đảng Cộng Sản Việt Nam do dân mà ra, từ dân mà có, đảng Cộng
Sản Việt Nam là dân tộc Việt Nam là một, và do đó, đảng lãnh đạo dân tộc Việt
Nam là chuyện tự nhiên như thời tiết.
Đảng Cộng Sản và dân tộc Việt Nam
chẳng những chưa bao giờ là một mà từ trong bản chất đã có tính mâu thuẫn triệt
tiêu nhau.
Như lịch sử đã chứng minh, chính
sách của đảng, dù có lúc cực kỳ chuyên chính và cũng có khi tương đối nới lỏng
để làm nhẹ áp lực quần chúng, mục tiêu cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam và đặt
dân tộc Việt Nam dưới quyền cai trị tuyệt đối của đảng luôn nhất quán sau 11 kỳ
đại hội và 13 lượt tổng bí thư.
Có người cho rằng, đảng Cộng Sản
ngày nay không còn là một đảng theo quan điểm Mác Lê đúng nghĩa nữa mà thực tế
chỉ là một đảng cướp. Đừng quên, đảng cướp cũng cần phải có một cơ sở lý luận,
bởi vì khác với con vật, con người có ý thức và sống bằng một niềm tin. Kim
Nhật Thành có Chủ Nghĩa Độc Lập Tự Cường (Juche), Moammar Gadhafi có Chủ Nghĩa
Xã Hội Hồi Giáo (Green book), ngay cả nhà độc tài tàn ác nhất Phi châu là
Thượng sĩ Mobutu Sese Seko cũng dựng nên một lý tưởng quốc gia mà ông ta gọi là
Nhận Thức Đúng (Authentication).
Dưới thời nhà Nguyễn, từ vua quan
đến dân chúng, nói cho cùng cũng chỉ là nạn nhân của một nhận thức bảo thủ sai
lầm kế thừa suốt thời kỳ phong kiến, chính sách “bế môn tỏa cảng” tư duy của
đảng ngày nay là một chủ trương, một chính sách nhằm che đậy mọi ánh sáng văn
minh từ bên ngoài rọi vào cùng lúc xây dựng một thiên đường hoang tưởng bên
trong.
Những lãnh đạo đảng đang hô hào lý
tưởng Cộng Sản tại Việt Nam hôm nay, thật ra, đã từ lâu không còn tin vào miệng
lưỡi của chính mình, nhưng những thuốc độc bọc đường đó đã tàn phá bao nhiêu
thế hệ trẻ Việt Nam.
Các em Trần Phương Ngọc Thảo và Lê
Anh Vinh như được nhắc trong bài báo, là tài nguyên của đất nước chứ không phải
của đảng Cộng Sản.
Như những trí thức trẻ, các em chắc
đang mơ một ngày không xa Việt Nam sẽ thành một Singapore hay một Nam Hàn. Tuy
nhiên, khi trở về sống, làm việc và va chạm với thực tế chính trị tại Việt Nam,
các em sẽ hiểu ra, ngày nào Việt Nam còn bị cai trị dưới một chế độ độc tài
toàn trị, ngày đó giấc mơ ra biển lớn của các em sẽ không bao giờ thành hiện
thực.
Không ai có thể lấy tay che mặt
trời. Chính sách “bế môn tỏa cảng” tư duy tinh vi nhưng không thể bưng bít sự
thật mãi mãi và bưng bít được mọi người. Vẫn có rất nhiều tuổi trẻ Việt Nam
đang dấn thân trên nhiều ngã đường đất nước. Họ đang bị trấn áp, đe dọa, tù đày
nhưng không bỏ cuộc. Từ trong những nhọc nhằn mà họ đang chịu đựng có một niềm
hãnh diện dâng lên vì được sống trong thời đại mà những nỗ lực của họ sẽ mở ra
trang sử mới cho dân tộc.
Lật đổ một nhà độc tài khác với thay
đổi một cơ chế độc tài. Đảng Cộng Sản bám sâu vào đất nước mấy mươi năm, tác
hại không chỉ về kinh tế chính trị mà trầm trọng hơn về nhận thức, tư tưởng và
văn hóa. Trường Chinh đã viết trong Luận cương văn hóa 1943: “Phải hoàn thành
cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”.Cách mạng dân chủ
hôm nay, do đó, phải bắt đầu từ việc tháo gỡ các nhận thức sai lầm về lịch sử,
xóa bỏ văn hóa Cộng Sản để mở đường cho cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và
triệt để.
Đường cách mạng dân chủ Việt Nam có
thể còn nhiều chông gai, sỏi đá, đòi hỏi nhiều thời gian và kiên nhẫn trong mỗi
chúng ta, nhưng là một con đường vinh quang, đích thực, một bước phát triển
không thể nào đảo ngược của dân tộc và loài người.
Trần Trung Đạo