Thi phẩm của Trân Sa
đời
ta đâu phải là cây mục
trôi
với rong và rã với rêu
đời
ta đâu phải là ga xép
đứng
chờ đỗ lại một tàu xiêu.
Bài trên có tựa là “Tĩnh”. Còn dưới đây,
thơ mang tên “Động”. Sắp chung một trang, được viết vào năm 1983.
đôi
khi gió bão qua ngang núi
chim
bay cuồng nơi ẩn trú đâu
đôi
khi cỏ dại gai đầy lối
ngựa
ngửng đầu ngơ ngác ngó quanh.
Biên giới giữa Tĩnh và Động, cái sự lọt
vào, thứ trạng thái nhập nhằng ấy dường như không hiện diện trong thơ Trân Sa.
Cô mềm lòng khi đứng bên này đường và cô cứng rắn khi đặt chân sang tới lề bên
kia. Con người Trân Sa chẳng chấp nhận cái nửa vời. Nắng chan hoà trên từng câu
thơ, đôi khi chữ chết chìm dưới một bầu trời sũng nước. Tôi đọc, không nhìn ra
cái ui ui của thứ thời tiết tức giông nắng trốn. Ra ngô ra khoai, chẳng ỡm ờ!
Từ chỗ tôi ở đến thành phố Trân Sa trú ngụ
cách nhau 6 giờ lái xe. Mưa ở Montréal mà nắng vàng ngập phố Toronto. Cách trở
bao nhiêu cây số mà trái khoáy vậy? Tôi mua vé xe lửa (không tàu xiêu) và lần
khác thì leo lên xe đò băng đồng vượt suối. Chúng tôi gặp nhau đúng ba lần (sự
bất quá tam). Vậy thì cuộc hội ngộ còn lại là do “người về từ Toronto” tạo nên.
Ba lần, trải dài qua tháng năm của thời điểm 1989 và 1990. Ôi, mới đó mà đã
sang một thế kỷ rồi ư?
Trân Sa hơi gầy, hình như ngày cũ ở Nha
Trang. Trân Sa nói giọng Huế chưa phai nhạt nước sông Hương, trầm, hơi khản tiếng;
thứ chất giọng mà tôi nghĩ những người hát nhạc Jazz đều sở hữu. Tóc cắt ngắn,
thật ngắn. Mang gương cận thị. Thích uống cà phê đen đậm đặc và ngồi bên nhau
chừng hơn nửa giờ, hai đứa đã đốt khói bay 20 điếu thuốc trong chiều tà. Nhìn
Trân Sa, tôi dấu ý nghĩ là cô đã vô tình chở trí nhớ tôi về lại Huế năm xưa, hồi
tôi gặp nhà văn Trùng Dương theo nhật báo Sóng Thần đi viết bài tận vùng địa đầu
giới tuyến. Ngồi với anh Đinh Cường trong Đại Nội có thể đón nhận cơn địa chấn
lan về do hoả tiễn lẫn đại pháo chăm trút xuống cổ thành Quảng Trị. Có chút gì
đọng trên gương mặt Trân Sa làm gợi tới Trùng Dương? Cái kính to trên gương mặt
gầy tóc ngắn? Những cọng khói ẻo lả từ tay bay lên? Và văn chương. Và lên đường.
Và nhập cuộc. (Có thời Trân Sa làm chủ biên tờ Trăm Con, đăng tải thơ văn nhiều
bài đặc sắc nhưng chẳng thọ lâu do bởi những ngộ nhận, ngay tại Toronto).
Chúng tôi ngó phố phường, miệng mồm thì bận
cà phê thuốc lá, nói chung là vụng về không biết tìm cách trao đổi lời qua tiếng
lại. Mà nghĩ cũng chẳng cần thiết bởi vì cả Trân Sa và tôi dạo đó đều viết rất
hăng. Mê muội gửi bài tới các tạp chí văn học. Đã đọc của nhau và vai đâu vai như
giờ này cũng do chữ nghĩa tác thành để làm nên cuộc xúi dại, hơi ngây ngô, hơi
khờ khạo. Ngoài thơ, những truyện ngắn của Trân Sa tựu trung đều là những hạt
cát quý, lấp lánh (chẳng rành Hán Nôm nhưng tôi vẫn diễn dịch tên Trân Sa ra thế).
Ý tưởng lạ, cách dựng truyện và không khí trong đó luôn để lại một thứ gì gần với
xót xa. Một dụng công cố sắp xếp lại những đổ vỡ. Hạnh phúc vốn từ đau đớn mà
phát sinh. Truyện ngắn “Giữa Những Hàng Ghế Trống” là một ví dụ. “Về Già Tôi Sẽ
Đi Tu” là một chứng minh khác.
Tôi nghĩ, ngồi bên nhau mà người ta ít nói,
gần như câm lặng, cũng nên được xem là họ đã hiểu lòng nhau. Nếu cho đó là nguỵ
biện, thì có thể thưa rằng, e chúng đang bận suy tưởng, mỗi người tự truy đuổi
riêng một nỗi niềm để về nhà dựng được một áng văn ghi dấu, đãi đằng nhau.
Chỉ ba lần, nhìn sâu vào mắt nói trong vô
ngôn, rồi Trân Sa thầm lặng bỏ đi, biền biệt, mất dấu. Hỏi thăm bạn bè ở dưới
đó, không một ai hay. Chưa già, chắc chắn là Trân Sa chẳng “Tôi sẽ đi tu”. Chợt
nhớ lại bài thơ “Bơ Vơ” của người đang lẩn trốn vào bóng tối:
Phật ở
bên tay trái
Chúa ở
bên tay phải
Đối
diện: một rừng người
Phía
sau lưng: vực thẳm
Ngó
xuống: toàn hư vô
Bàn
chân tôi đứng lại
Giữa
vô cùng bơ vơ
Xác
thân chỉ tồn tại
Những
nhịp sầu rất thơ.
Nhớ luôn cả bài “Bạn Xưa”:
trong
giấc mơ người ám ảnh tôi
sáng
hôm nay trời đất buồn rầu
tôi
thay áo bước vào đời sống
quá
khứ nặng bàn chân thế sao
tôi ở
đây hồn ở đâu đâu
một
cánh hoa lạc loài trong đầu
đem gửi
tặng người qua trí tưởng
thấy
môi ai cười khô héo thôi.
Tới ngang đây, tôi đành “nhớ” thêm các bài
thơ khác của Trân Sa. Tôi mượn Trân Sa để gửi theo chút tâm tình mà mình chẳng
đủ lời để thổ lộ. Tôi vẫn tự nhận tôi mãi kém thua bạn tôi. Và về già có thể
tôi sẽ đi tu, tại gia. Ngồi diện bích, hồi tưởng: Chúng tôi đã có một thời như
thế. Hồn nhiên trong sự già cỗi. Dấn thân trong hoạn nạn. Mê muội trong phụ rẫy.
Tàn hơi trong lãng công. Chỉ còn nỗi nhớ trong thất lạc. Và chỉ còn thơ văn làm
bồi đắp thứ tình bạn không tuổi tác. Một buổi điểm tâm Xanh.
Tuy chênh lệch đôi ba tuổi, nhưng Trân Sa
tìm đến thơ văn trước tôi một chặng đường dài. Có bài làm năm 1973, 1975, lai
rai về sau… Nhưng tôi yêu thơ Trân Sa ở thời điểm mà tôi vừa đến góp chung một
tiếng nói. Chẳng hạn như bài “Đối Thoại Trong Một Cuốn Tiểu Thuyết” được viết
vào tháng 11, năm 1988:
Họ
nói về những bầy chim gẫy cánh giữa trời
về những
con người chôn mặt mình trong đất
về cuộc
đời giữa những còn và mất
về
tương lai trống không và hiện tại chôn vùi
Họ
nói về một vầng trăng chết đuối ngoài khơi
về một
tình yêu không còn trong trí nhớ
về
cái chết và về niềm hãi sợ
về
hoang đảo cô liêu chỉ có một người
Họ
quên nói với nhau về những tiếng cười
về những
ban đêm không thể còn bóng tối
về
không-một-trái-tim-nào-có-tội
về
không-ai-là-dã-nhân khi còn biết thương đời
Họ bận
rộn nhỏ lên nhau giọt lệ ngậm ngùi
nên
quên nói với nhau những lời hy vọng
Họ mải
miết với quá nhiều phủ nhận
nên
không còn gì ở giữa những đôi môi.
MỘT
tâm
hoa nở rộ khắp mùa
thương
em búp nhỏ bao giờ ra bông
tay
ai khuấy nước trên sông
thương
em gợn sóng tan vào hư vô
a ha
địa ngục tang bồng
ta
quăng cực lạc nhập vòng tử sinh
bước
chân lạc lõng u minh
môi
cười bình lặng tỉnh điên cũng là
bao
giờ em hiểu ra ta
ý
thân nhất thể ta là chính em.
(4/88)
LẠNH
tôi
đã đi rồi tôi đến đâu
không
về. nhất định chẳng về đâu
trời
ơi. sao đất vô cùng lạnh
dưới
một dòng sông gãy nhịp cầu.
(1987)
NHỚ
đã ra
đi
đã
qua đường
tình
xưa
còn động
vết
thương ngọt ngào
đã
quay lưng
đã
tay chào
hôm
nay
còn
nhớ
hôm
nào,
rưng
rưng.
(6/86)
NGƯỜI
đêm
nâng
ly café
thấy
Nét Đẹp Em Người Da Đen
buổi
sáng
châm
điếu thuốc
hồng
Lửa Ấm Anh Người Da Đỏ
trưa
một
ly sữa nhỏ
mát
rượi Diễm Phúc Người Da Trắng
chiều
tĩnh
lặng
Tôi
Người Da Vàng trực nhận mối tương quan
đầy
thân ái
nhân
loại bao la
dưỡng
sinh và huỷ phá
Tôi
xin yêu Người
Da
Đen Da Đỏ Da Trắng Da Vàng
Tôi
xin vô cùng yêu Anh yêu Em yêu Tôi
Dù
sao.
(1984)
NỖI NHỚ
yêu từ
cái thuở
trăng
còn Rằm
thuở
Hoa
đơm nụ
mới
đầu
năm
bao
nhiêu
Thu rụng
Đông
tàn úa
Xuân
Hạ
còn
nguyên
nỗi
nhớ
Xanh.
TÂM TRẠNG
có
khi rớt xuống huyệt
có
khi bay lên trời
có khi
đùa mải miết
có
khi sầu không nguôi
có
khi tôi yêu người
có
khi lòng lạnh nhạt
có
khi hát yêu đời
có
khi gần tự sát
có
khi ngồi nghĩ mãi
điều
vô lý đời mình
có
khi chợt kinh hãi
lặng
lẽ kiếp nhân sinh.
BAO DUNG
lặng
im mà ngó
mưa về
ngó
trời đất
sụp
gần kề
hai chân
lặng
im
rơi lệ
xuống
thầm
trái
tim nhẫn nhục
ôm chầm
bão giông
từ
đêm
địa
chấn tới gần
lặng
im nghe
tiếng
chim gầm mái hiên
lặng
im nghe
tiếng
khóc phiền
lặng
im nhìn
những
sắc hình
rụng
phơi
lặng
im
môi
hé
nửa vời
tiếng
bao dung
thoảng
giữa
trời bụi che.
MEN MÙA HẠ
chiều
mang tiếng nói đi theo gió
mang
theo ngọn nắng khuất về tây
có
chi trong nắng mà tôi nhớ?
một
giọng cười hay sợi tóc bay?
có
chi trong tiếng mà tôi nhớ?
một
chút ân cần một chút vui?
có
chi như mật trên môi đó
ngọt
với muôn người hay chỉ tôi?
có
chi như thể trong vườn lạ
nở một
nhành ôi đẹp bất thường
có
chi xanh mượt như cây lá
vẽ lại
trần gian vốn thật buồn
có
chi như thể hương mùa hạ
tiễn
một mùa đông đã quá dài
ô hay
cứ tưởng tim thành đá
lại đập
hồn nhiên mấy nhịp sai
cứ đến
rồi đi rồi trở lại
cứ
cho tôi nhớ hết đêm này
ngày
mai cứ nắng đừng mưa nhé
cứ vẫn
ngọt ngào như bữa nay
chiều
mang tiếng nói đi theo gió
mang
theo ngọn nắng khuất về tây
có
chi trong nhớ mà tôi ngỡ
men nồng
chưa chuốc vội vàng say…
Những bài thơ hiển thị ở trên, tôi nhặt ra
từ hai thi tập “nàng thơ” ký tặng năm xưa (đã qua thế kỷ rồi sao?): “Thơ Trân
Sa” (Tập Họp xuất bản năm 1989) và “Điểm Tâm Cho Người Tình” (Tân Thư xuất bản
năm 1990). Cả hai thi tập đều không ghi đôi dòng tiểu sử tác giả và những trang
thơ giờ này thảy đều úa màu. Thứ sắc màu vàng vọt có trong thơ Nguyễn Tất
Nhiên:
“Nắng
bờ sông như màu trang vở cũ
Thuở
học trò em làm khổ ai chưa?”
Tôi từng khổ và tôi đang hối hận. Giá mà
ngày ấy thực hiện được một buổi chuyện trò cùng bạn, để tìm hiểu do đâu, ngọn nắng
nào đã soi rọi vào, tác thành nên những hạt cát lấp lánh có tên gọi Trân Sa. Bởi
chăng chúng ta đều bị cuốn vào thứ đời sống hối hả chuyện mưu sinh. Không thể
cưỡng chống, chẳng thể nghe theo lời Bùi Giáng:
“Áo
cơm bỏ lại bên đời
Bỏ
tan lìa mộng bên lời tử sinh”.
Bạn còn đâu đó ở Toronto? Hay “khi về già
tôi sẽ trở lại chốn xưa”? Sài Gòn, Phan Thiết, Đà Lạt hay Nha Trang? Thành phố
mà nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng từng gọi: “Hang động của tuổi thơ”. Có lẽ bạn chẳng
hay biết “chuyện nhỏ” về tai ương mà tôi từng hứng trong mùa Đông khắc nghiệt
chốn này. Khi ấy, tôi gượng cơn đau, nhớ thơ bạn vụt hiện:
“đi
ngang bãi tuyết
thấy
đời dễ thương
ngã
trong đám tuyết
ôi lạnh
khôn cùng”.
Mùa đông lại sắp về, tôi chống gậy đi tới
quán cà phê cũ kỹ mà chúng ta từng ngồi hun khói. Tôi nhớ lại nhân dáng bạn,
khuôn mặt bạn, đang ngồi ghế đối diện. Ừ, nỗi nhớ hiện ra “giữa những hàng ghế
trống”. Tôi chép lại thơ bạn, một cách thiếu sót, cũng là một cách làm ấm lại.
Chúng ta, chẳng ai có cảm tình về một khoảng trống cả. Phương ấy, bạn còn khổ
tâm chêm đầy vơi những câu thơ? Và quan trọng hơn, bây chừ lòng bạn đang Tĩnh
hay đang Động?
“Chỉ
một chút
thoáng
động
trên
ngọn
cỏ ướt mưa
ngoài
ngắt xanh biển rộng
con
cá nằm
ngủ
trưa.
Hồ Đình Nghiêm
song
thập, 2017