Ông già ngồi dựa vào bức tường tróc vôi nham nhở. Một con mắt
đờ đẫn đùng đục trong ánh sáng đèn điện đỏ quạch, con mắt kia chỉ là một cái hố,
hai mép da dính nhau và không ngừng rỉ nước… Thỉnh thoảng ông già đưa tay lấy
mép cái khăn mặt bông vắt vai chấm chấm vào cái hố mắt tối om nhoèn nước ấy…
- Phải chi ngày đó…
Nghĩa nghe câu nói này đã nhiều lần kể từ hồi chiều,
khi anh vừa bước đến đây. Chỉ vậy nhưng lòng anh cứ xôn xao mỗi khi nghe câu
nói ấy. Nó vừa như một tiếng thở dài tiếc nuối vừa như sự níu kéo của một thời
quá vãng.
Thời gian lặng lẽ trôi nhanh. Thoáng cái đã ba mươi
sáu năm. Nhiều lúc Nghĩa cứ ngỡ như mình vẫn còn trẻ. Nhưng khi ra đường, nghe
nhiều người gọi mình bằng ông, anh đã giật mình. Lại nữa, đôi lúc cần nhớ đến một
điều gì đó thì vắt óc cũng không thể nhớ ra… Vậy là mình đã già thật rồi.
Phải chi ngày đó…
Nhưng chẳng lẽ anh bỏ dở cuộc tham quan ở Đà Nẵng để về
thăm lại nơi mình từng ở ngày xưa chỉ để nghe một câu tiếc nuối thẫn thờ đến vậy
sao?
Anh rất ngạc nhiên vì đã ba sáu năm qua mà ông già vẫn nhớ ngay tên anh khi anh
vừa bước đến mảnh vườn xưa.
Lúc ấy ông già tay đang cầm cái bát mẻ múc cám cho mấy
con ngan vươn cổ khạp khạp đòi ăn. Nghe tiếng chó sủa nhanh nhách, ông già ngẩng
lên, rồi nghiêng nghiêng khuôn mặt hom hem, cằm điểm mấy sợi râu lưa thưa, một
mắt chăm chăm nhìn anh, giọng nói không hề có chút ngạc nhiên:
- Hai Nghĩa đó hả. Ừ… ngó thấy cũng già rồi… Đợi
chút…
Nhà vắng hoe. Bà già chắc đã mất. Còn cái người mà
Nghĩa đang muốn gặp hẳn đã đi lấy chồng. Cũng phải thôi. Ba mấy năm rồi.
Chắc cô cũng già rồi.
- Vô nhà nằm nghỉ đi. Tau nấu cơm. Tối con Út Sâm mới
về…
Út Sâm là là con gái rượu của ông già ngày đó. Khi Nghĩa đóng quân ở đây
cô mới chỉ mười bảy tuổi. Trên cô còn hai người anh nhưng đều chết ngay lúc mới
sinh. Thành thử cô là con độc nhất, đang học lớp mười một trường nữ sinh ở thị
xã thì giải phóng…
Sau giải phóng, đơn vị anh cắm chân tại xóm, và tổ ba
người của Nghĩa ngẫu nhiên tá túc ở nhà ông một mắt này. Nghe đâu ông ta trước
là lính Hải quân “quốc gia”, có tham gia hải chiến Hoàng Sa, bị thương vào mắt,
thành phế binh và đã xuất ngũ từ giữa năm bảy tư.
Sâm đẹp, khuôn mặt thanh tú, dáng người nhẹ nhõm và nước
da trắng hồng. Cô rất ít nói, thỉnh thoảng bị bọn Nghĩa trêu thì Sâm cứ cúi mặt
rồi lúng búng: “Nghe dị òm” ‘*’ nghe thật tội. Nhưng đôi mắt cô thì lại biết
nói thay lời. Nhiều khi đôi mắt ấy ngơ ngác đến tội nghiệp, cũng có những lúc
chúng trở nên chăm chú, nhưng thường thường chúng lạnh lùng.
Nhìn cô,Nghĩa cứ tưởng tượng đến chiếc bình thủy tinh
mỏng mảnh trong veo và rất dễ vỡ. Có thể do quen thấy các cô gái cùng đơn vị với
nước da ngăm ngăm, thân hình chắc nịch, cười nói oang oang nên khi gặp Út Sâm
thì
Nghĩa có cảm giác như vậy. Rồi như bị một lực hút, Nghĩa cứ tìm cách để có thể
ngắm cô làm việc, nghe cô nói và nhất là nhìn vào đôi mắt cô cho dù ánh mắt ấy
không khi nào hướng về phía anh, trừ khi có việc gì cần anh giúp, nhưng ngay cả
khi đó cũng chỉ là ánh mắt thản nhiên đến lạnh lùng.
Hình như Út Sâm không hề mặn mà với việc những người
lính phe chiến thắng đến tá túc tại nhà mình. Nghĩa thấy cô có vẻ cảnh giác trước
mọi cử chỉ hành động của bọn anh.
Đã có lúc anh định chuyển đến nhà khác nhưng không thể,
vì cấp trên đã chỉ định nơi nào thì phải ở nguyên ở đấy để tiện liên hệ, nhất
là thời điểm vừa giải phóng, không ít kẻ còn vương vấn với chế độ cũ đang
muốn trỗi dậy, chưa kể đơn vị anh lại đang san lấp mặt bằng để xây dựng doanh
trại.
Hai vợ chồng ông chủ nhà một mắt và cô con gái thường chụm đầu thì thầm trong
khi cô con gái cảnh giác quan sát xung quanh. Kệ! Việc ai người ấy làm, bọn anh
vẫn thực hiện chính sách dân vận bằng việc hằng ngày quét sân quét nhà, phát
quang bụi rậm, gánh nước đổ đầy cái chum ở cạnh bếp. Nhưng những việc ấy các anh
cũng chẳng mấy khi được làm vì Út Sâm cũng đã làm trước cả rồi.
Cho đến một hôm, Nghĩa đang kéo nước ở cái giếng cạnh
ngõ thì Biểu đến chơi. Vốn cùng quê, lại nhập ngũ cùng ngày nên Nghĩa tưởng hắn
đến thăm mình. Vừa gặp nhau Biểu đã hỏi:
- Đây phải nhà Huỳnh Thị Sâm?
Nghĩa bảo phải. Cái thằng quỷ này thính gớm. Vậy mà nó
đã làm quen được với cô gái. Để xem nó còn giở trò gì. Biểu hất hàm: “Đi vào
nhà với tao!”.
Nghĩa theo Biểu vào nhà. Anh giới thiệu với ông bà chủ đây là Biểu người
quen với cô Út. Vừa lúc ấy Út Sâm cũng bước vào. Cô ngơ ngác nhìn người lạ…
- Không, tôi không quen cô Sâm. Biểu nói ngay và móc
trong túi áo ngực ra một tờ giấy. Tình cờ khi đánh nhau ở Tiên Phước tôi có được
cái này. Hôm nay tôi đến để đáp lại nguyện vọng của cô ấy.
Hắn đưa tờ giấy cho ông bố và quay lại giật chiếc mũ cối
Nghĩa đang đội rồi ấn cái mũ vào tay Út Sâm: “Quà của cô đây!”.
Út Sâm thất thần như bị thôi miên, cô lúng túng cầm lấy
cái mũ cối. Rồi khuôn mặt hồng hào của cô tự nhiên trắng bệch và cả người đổ khuỵu
xuống. Nghĩa vội chạy lại đỡ cô gái, bà mẹ cũng chạy đến cùng dìu cô ngồi xuống
sàn nhà. Ông bố xem xong tờ giấy thì ngồi bất động, thả tay buông cho nó rơi xuống,
con mắt còn lại mở trừng trừng nhìn hun hút vào khoảng không vô định.
Lặng im đến nghẹt thở, chỉ có tiếng “cộc” khô và lạnh của cái mũ cối rơi
xuống nền gạch.
Nghĩa để bà mẹ ngồi cùng cô gái, anh đứng lên nhặt tờ
giấy. Thì ra là một bức thư. Thư của Út Sâm gửi một người lính Cộng hòa. Ẩn
trong nét chữ mềm mại là những tình cảm lâm ly và cuối thư là câu “chúc anh người
chiến sĩ tuyến đầu anh dũng chiến đấu, diệt thật nhiều giặc Cộng, ngày về làm
quà cho em gái hậu phương một chiếc mũ cối…”.
Thì ra vậy. Nhưng sao Biểu lại làm thế. Trả đũa để khẳng
định vị thế của kẻ chiến thắng ư? Không, nó là trò đùa của sự kiêu ngạo. Nghĩa
cúi xuống chụp mũ lên đầu và lao ra khỏi nhà. Anh đuổi kịp Biểu khi hắn vừa ra
đến ngõ. Biểu quay lại và nhận trọn một cái tát vào mặt. Hắn đưa tay xoa má,
không nói gì và quay người đi thẳng. Còn lại Nghĩa đứng như trời trồng, chợt thấy
bàn tay mình bỏng rát…
- Phải… chi… ngày… đó…
Giọng nói khàn khàn như hụt hơi ngắt quãng trong tiếng mọt nghiến gỗ kèn
kẹt. Nghĩa nhìn sang. Ông già ngồi ngoẹo đầu, con mắt còn lại đã nhắm, mắt kia
vẫn là cái hố tối om rỉ nước.
Buổi tối, chỉ với mấy con khô cá và một chai rượu, hai
người lặng im ngồi đối ẩm. Lặng im vì khi vừa nâng chén đầu tiên ông già đã rào
trước: “Uống đi! Đừng hỏi gì, mất ngon. Rồi khắc biết”. Giờ ông già chắc đã say
lắm rồi. Còn Nghĩa uống ít mà cũng thấy lơ mơ. Nhìn lên mái nhà và mọi thứ xung
quanh thấy đang chung chiêng dưới ánh điện nhập nhoạng.
Có tiếng bước chân và tiếng kẹt cửa. Nghĩa ngẩng lên
nhìn về phía đó. Cánh cửa mở. Út Sâm! Phải rồi. Đúng là Út Sâm. Vẫn khuôn mặt
thanh tú với nước da trắng mịn. Vẫn đôi mắt, khóe môi của ngày xưa. Nàng vẫn trẻ
trung bất chấp thời gian.
Sâm gật gật đầu vừa như chào Nghĩa vừa như bảo anh đi
ra ngoài. Chắc nàng sợ kinh động đến giấc ngủ của ông già.
Nghĩa đứng dậy và ra cửa. Trong ánh trăng sáng vằng vặc anh thấy Sâm đang
đứng giữa sân. Vẫn dáng người thanh mảnh trong bộ bà ba lụa trắng, Sâm cười cười
nhìn anh, tay nàng vẫy vẫy ra hiệu anh đi theo.
Nghĩa quay người khép cửa, ngoảnh lại thì Sâm đã ra tới
ngõ. Anh thong thả bước theo Sâm. Qua bờ tre đến khoảng ruộng mùa này đang khô
hạn chỉ trơ những gốc rạ. Đất cứng dưới chân giầy, anh bước thập thõm như người
ngủ mê.
Bây giờ hạn trắng đồng nhưng ngày ấy sao nước to thế. Sau giải phóng mấy
tháng thì có trận lụt ghê gớm. Nước mênh mang trên đồng chảy cuồn cuộn, đường
ngõ ngập đến thắt lưng. Gió thông thốc vần vũ trên đầu. Những mái nhà lợp tôn
không lấy gì làm kiên cố của người dân miền Trung bị nước làm lung lay và gió
phũ phàng xô đẩy đổ ụp hàng loạt.
Bộ đội được lệnh giúp dân chống lụt. Suốt cả ngày Nghĩa và đồng đội dầm
mình để đưa dân ngoài gò thấp giữa đồng sơ tán vào xóm anh đang ở. Khi hầu hết
dân đã vào vị trí an toàn thì bộ đội cũng gần kiệt sức. Người cuối cùng được
Nghĩa đưa ra khỏi nơi nguy hiểm là một bà già cô đơn sống ở cuối gò.
Anh cõng bà lội bì bõm trong nước lạnh hàng giờ. Rồi
cũng đặt được bà cụ lên hiên nhà Út Sâm. Nhìn cô cùng bố mẹ xăng xái săn sóc bà
cụ, Nghĩa thấy vui vui vì mình đã hoàn thành việc được giao.
Mệt quá rồi! Nghĩa ngồi phệt xuống hiên nhà, người anh
sũng nước. Có lẽ bây giờ mình phải đi thay quần áo rồi ngủ một giấc… Bà lão hấp
háy cặp mắt nhăn nheo nhìn Nghĩa, miệng phều phào: “Phước đức quá… Phước đức
quá. Thím thoát rồi. Chỉ tiếc… còn kẹt bao lúa… Hết lụt không cò lúa lấy chi mà
sống…”.
Nghĩa nhìn ra ngõ, nước vẫn dâng, gió vẫn cuồn cuộn. Anh phải lấy bao lúa
về cho cụ già. Nếu nhanh vẫn còn kịp.
Nghĩa lao ra khỏi nhà. Chợt nghe ầm một tiếng, anh tối
sầm mặt mũi. Một cành mít to ngoài ngõ bị gió vặn đứt rơi đúng vào đầu anh. Cái
mũ cối văng xuống nước, Nghĩa cũng đổ xuống nước, bất tỉnh.
Khi Nghĩa tỉnh lại, anh bắt gặp một khuôn mặt đang cúi
xuống, một đôi mắt đang lo lắng nhìn mình. Trong khóe mắt ấy lấp loáng những giọt
nước mắt. Một bàn tay mát lạnh đặt trên trán anh.
Sâm! Út Sâm. Nghĩa thì thào và cầm lấy cổ tay thiếu nữ áp vào ngực mình,
những ngón tay mềm chạm vào ngực mơn man. Cái cổ tay tròn kia vẫn ngoan ngoãn nằm
nguyên trong tay anh làm Nghĩa mạnh dạn hơn. Anh vươn tay kia choàng qua vai
người con gái để kéo khuôn mặt thanh tú ấy gần hơn nữa. Ánh mắt vẫn đau đáu và
nồng nàn nhìn vào mắt anh. Gần, rất gần. Lần đầu tiên trong đời môi anh
chạm môi thiếu nữ…
Trăng vẫn sáng, cả cánh đồng bây giờ nhuộm một màu
vàng. Gió phóng khoáng trên đồng nghe mát rượi. Nghĩa bước theo Sâm mà tự hỏi:
Sao nàng vẫn trẻ còn mình thì già cỗi. Phải chăng nàng được sống vô tư còn mình
thì trăm ngàn nỗi lo phải giải quyết để có thể tồn tại.
Tồn tại cũng khó lắm bởi những nỗi sợ liệu mình có dại
khờ hay ích kỷ quá không, liệu mình có vi phạm điều cấm kị tôn thờ nào đó hay
không…
Có những lúc anh tưởng mình không còn là mình. Suốt đời phải nhìn sắc mặt
mọi người và sống vì dư luận để rồi sau đó cái gì cũng sợ, luôn cố làm bất cứ
chuyện gì để vui lòng họ…
Cái dáng người đang thanh mảnh trong bộ bà ba trắng
tinh khiết kia đang ở phía trước. Gió thổi mạnh làm mái tóc dài của nàng bay
ngang nhuộm trăng lấp lóa, bộ bà ba trắng hất ngược về phía sau hiện rõ những
nét cong mềm mại của cơ thể.
Cả đời anh vẫn đi theo bóng dáng nàng để tiếc nuối dù anh đang sống với một
người vợ thành đạt. Tiếc nuối vì dị ứng với những tham vọng đầy hãnh tiến của vợ.
Tiếc nuối vì nhiều khi cảm giác mình chỉ là một kẻ thừa.
Ngay cả chuyến đi này anh cũng đi ké vào đoàn tham
quan của cơ quan vợ.
Vợ anh cặp kè với cấp trên trong suốt chuyến đi, còn anh thì
tự dưng thừa ra như một kẻ độc thân lạc lõng. Các thành viên trong đoàn dù
ngoài mặt ra vẻ tôn trọng phu quân của bà thủ trưởng nhưng trong đầu họ làm sao
biết được họ nghĩ gì.
Nhìn theo bóng thanh mảnh đằng trước, tự dưng anh thấy sợ cái dáng người
đẫy đà, cái khuôn mặt căng no mỡ màng, sợ cái nhếch mép cười nửa miệng của người
đàn bà đã từng gần gũi và từng có con với anh. Cả đám con cũng coi anh là lão
già gàn dở, suốt ngày chỉ ru rú sách vở, lúc nào cũng nơm nớp sợ không hoàn
thành nhiệm vụ, sợ không vừa lòng cấp trên, sợ không vừa lòng vợ con và bạn
bè…, đến mức phải cố chỉn chu mọi nhẽ, đến mức chả bao giờ dám nói tiếng to.
Chỉ có mẹ, người phụ nữ thành đạt, biết thời biết thế
để vươn lên, có đủ điều kiện trang bị cho con trở thành nổi bật trong đám bạn
bè.
Đằng trước, Sâm thỉnh thoảng ngoái lại như để biết chắc chắn Nghĩa vẫn
đang đi theo. Cả hai đã lặng im đi một đoạn khá xa trên cánh đồng. Nghĩa chợt sững
lại khi trước mặt là ngôi tháp Chăm cổ. Ngôi tháp đột ngột nhô lên như một trái
núi nhỏ sau con đường sắt chắn ngang tựa con đê trên cánh đồng.
Nghĩa đã hiểu: Sâm muốn đưa anh về cái chỗ mà hai đứa
đã gặp nhau lần cuối cách đây ba sáu năm trời. Mà sao lại trùng hợp kỳ lạ. Đài
thông báo hôm nay có nguyệt thực. Lần cuối hai đứa gặp nhau cũng vào đêm nguyệt
thực.
Phải rồi, hôm ấy có nguyệt thực. Hai đứa đã ngồi sát nhau trên đoạn tường đổ
phía ngoài tháp cổ. Trăng rải trên thân tháp ánh vàng rực rỡ. Những phù điêu vũ
nữ với cánh tay tròn đang múa được ánh sáng chiếu vào như mềm mại hơn, những bầu
ngực tròn, những thân thể uốn éo, những đôi chân trần nhún nhảy, tất cả được
ánh trăng viền quanh quanh khiến nó trở nên tròn căng đầy đặn… Tất cả như muốn
thoát ra khỏi những bức tường để phô diễn tận cùng những vũ điệu mê hồn.
Nếp sống kỷ luật quân đội chỉ cho anh tuần có một buổi
tối được gặp Sâm, vì bây giờ doanh trại đã hoàn thành, anh không tá túc ở
nhà nàng nữa. Yêu nhau được mấy tháng, nhiều lần Sâm hỏi yêu người ta từ khi
nào, Nghĩa thú nhận đã yêu Sâm từ ngày đầu gặp mặt. Khi hỏi Sâm yêu anh từ khi
nào thì nàng cười nhẹ: “Đã biết rồi mà còn hỏi, người chi kỳ dễ sợ…”.
Nhưng nàng thường hay nhắc cái ngày Biểu đưa bức thư đến nhà thì anh biết
ngay từ hôm ấy nàng đã có cảm tình với mình. Thực ra từ hồi yêu nhau tới giờ
Sâm nói rất ít. Chỉ có ánh mắt nồng nàn đăm đắm nhìn anh. Nhìn vào ánh mắt ấy
Nghĩa biết người con gái này đã nguyện gắn bó suốt đời với anh. Nhưng tương lai
tình yêu này sẽ đi đến đâu thì chính anh cũng không rõ. Nếu lấy Sâm thì Nghĩa sẽ
phải đưa Sâm về miền Bắc. Liệu gia đình hai bên có chấp nhận không. Hôm nay anh
sẽ nói với Sâm để cùng tìm cách…
Hôm qua Chủ nhiệm chính trị trung đoàn cho gọi anh lên. Ông bảo, trước
đây đồng chí được cấp trên đưa vào nguồn phát triển cán bộ. Nhưng qua theo dõi
thấy đồng chí thời gian gần đây có biểu hiện mất lập trường. Đồng chí yêu một
cô gái có tư tưởng phản động, con của một tên lính chế độ cũ. Rồi lại vì cô ta
mà đánh đồng đội. Như vậy quan điểm địch- ta rất mơ hồ. Thậm chí bao che cho kẻ
thù, để mất tình đồng đội.
Có hai hướng để đồng chí chọn lựa: hoặc đi học trường quân
chính đào tạo sỹ quan nhưng phải xác định lại lập trường, chấm dứt mọi quan hệ
với cô gái kia và gia đình cô ta, hoặc là ra quân.
Nghĩa đắn đo. Đây là tình yêu đầu đời của mình. Vả lại ai sống trong chế
độ nào thì phải theo chế độ ấy, huống chi Sâm chỉ là một nữ sinh bé nhỏ. Nàng
viết thư cũng là theo yêu cầu của nhà trường. Nhưng cái chính là hiện nàng đã
thay đổi. Nàng dám yêu một anh lính giải phóng là một thay đổi lớn…
Nhưng Nghĩa không thể cãi lại thủ trưởng, và điều này
anh sẽ giữ trong lòng chứ không thể đem nói với Sâm…
Sâm đã dừng lại ở chân tháp cổ. Nàng ngồi đúng vào chỗ
mà nàng và Nghĩa đã ngồi cách đây ba sáu năm.
Trăng vẫn sáng nhưng đã thấy có phần sậm đỏ và khuyết
đi một tí.
Bắt đầu nguyệt thực rồi, quả đất sắp sửa đè lên mặt trăng.
Nghĩa nhìn quanh nơi chân tháp, những bức phù điêu qua thời
gian vẫn gần như nguyên vẹn, vẫn căng tròn mềm mại nhún nhảy như sắp bay lên.
Còn trên nóc tháp lở lói, những cây bồ đề nhỏ cúi mình nhìn xuống hưởng ứng vũ
điệu bằng tiếng xạc xào của lá khua theo gió.
Anh ngồi xuống cạnh Sâm và nhận ra nàng đang tỏa ra
làn hơi mát lạnh dễ chịu. Nhưng điều đáng nói là nàng đang dịch ra xa để không
sát gần anh. Khi Nghĩa lại ngồi sát vào, nàng lại dịch ra. Hai, ba lần như vậy…
Đến khi không còn chỗ để dịch ra nữa thì nàng đứng xuống đất và nhìn thẳng vào
mắt anh.
Nghĩa nhìn thấy mắt nàng phản chiếu ánh trăng chợt lóe lên giận dữ rồi đột
ngột nhòa đi… Hình như nàng đang khóc…
Nghĩa lúng búng:
-Sao vậy Sâm… Lại đây ngồi với anh.
Sâm vẫn đứng yên. Nghĩa chợt hiểu. Nàng đang giận.
Cũng phải thôi. Chính tại nơi này anh đã làm nàng thất vọng. Chính nơi này anh
đã trốn chạy tình yêu…
Rồi Sâm đột ngột bỏ về.
Nghĩa ngồi ngẩn người ra một mình. Kỳ cục thật. Kéo nhau ra tận đây rồi
chẳng hề nói gì, lại bỏ về một mình.
Một đoàn tàu ầm ầm chạy qua. Khi toa cuối của đoàn tàu
đã qua, Nghĩa thấy Sâm đã đi được một đoạn khá xa.
Anh xin lỗi. Tại anh. Tại anh hết. Cái giây phút ngọt
ngào nhất, thăng hoa nhất anh đã bỏ lỡ…
Hôm ấy, tại nơi này Sâm đã trong vòng tay Nghĩa. Đầu
nàng đã ngả vào ngực anh, khuôn mặt nàng đầy trăng, mắt nàng lấp lánh ánh
trăng… Sâm say đắm nhìn vào gương mặt Nghĩa đang cúi xuống. Trăng rọi sáng vầng
trán anh, gió thổi tóc Sâm mơn man bên má. Môi chạm môi. Họ hôn nhau say đắm.
Nghĩa như mê đi trong vị ngọt ngào của đôi môi người yêu và cảm thấy vòng tay
nàng siết lấy anh chặt hơn chặt hơn nữa.
Sẽ đi đến tận cùng của tình yêu. Không việc gì phải băn
khoăn đắn đo nữa…
Nghĩa lập cập mở từng nút áo của Sâm… Trăng nhễ nhại… Bàn tay run run trên bầu
ngực tròn căng. Không gian chỉ có ánh trăng và tiếng rì rào xào xạc của những
lá cây trên ngọn tháp.
Anh cúi xuống gắn miệng vào bầu ngực trinh nữ, bàn tay
tiếp tục lần tìm. Vòng tay của người yêu cứ lỏng dần, lỏng dần buông thả…
Thoảng trong tiếng xạc xào của lá là tiếng kêu khe khẽ:
- Ui dà… Em đâu có tội tình chi mà…mà ông Việt cộng…
xét người… em…
Bàn tay đột ngột dừng lại. Nghĩa choáng váng.
“Phản động!”. Cấp trên nói đúng. Anh đã bị xúc phạm, bị mắc
mưu kẻ địch. Người Nghĩa rỗng tênh. Trời tối sẫm. Ngẩng đầu lên, thấy trăng chỉ
còn là một mảnh đỏ quạch.
Anh đẩy Sâm rời khỏi người mình và đứng thẳng dậy. Sâm
ngỡ ngàng ngồi dậy miệng lắp bắp “Răng rứa anh? Việc chi rứa anh?”…
Vậy là chả cần bàn bạc chia sẻ những băn khoăn như anh đã định trước lúc gặp cô
ta nữa. Nghĩa không ngoái đầu lại, cứ lầm lũi bước tới.
Trời tối đen. Nguyệt thực toàn phần. Bóng quả đất đã che kín
mặt trăng…
Nghĩa quyết định không gặp lại Sâm nữa. Những lần Sâm
tới đơn vị thăm, Nghĩa đều nhờ vệ binh trạm gác bảo là anh đi công tác. Thế
nhưng trong lòng anh không thể vơi nỗi nhớ, không thể vơi nỗi khát thèm được
nhìn thấy Sâm.
Có lần Nghĩa đã lén nhìn từ cửa sổ doanh trại, thấy Sâm tần ngần gửi túi quà đựng
mấy thứ cho anh và thẫn thờ gạt nước mắt, ra về, Nghĩa quặn lòng cố ghìm mình để
không chạy ra cổng lúc ấy. Anh biết chỉ cần một lần gặp lại thì không bao giờ
anh có thể xa Sâm được nữa.
Nửa tháng sau, Nghĩa cầm quyết định xuất ngũ, lẳng lặng
khoác ba lô về Bắc sau khi đã viết một bức thư ngắn gửi lại cho Sâm với lời hứa
sẽ quay trở lại…
***
Và bây giờ anh đã trở lại, sau ba sáu năm.
Ngày ấy anh đã bỏ chạy chỉ vì hiểu lầm một câu nói
đùa.
Phải, rất lâu sau này anh mới nhận ra đó chỉ là câu nói đùa.
Nhưng giờ mà nói ra chuyện ấy thì không ai tin được: làm sao có thể ngưng lại
giữa chừng rồi bỏ chạy khi lửa tình yêu đã lên đến đỉnh điểm?
Nhưng đúng là cái lý trí khô cứng phân định rạch ròi địch-ta ngày ấy là nỗi ám ảnh
thường xuyên đã chuyển thành nỗi sợ trong anh. Nỗi sợ sẽ đeo đẳng cả đời người,
để trở thành nếp sống.
Chuyện thực hiện lời hứa trong thư đã trở thành xa vời
vì ngày mới về nhà anh không dám nói chuyện với bố mẹ, sợ bố mẹ không đồng ý. Lấy
vợ có con rồi lại sợ tan vỡ gia đình, công việc ổn định lại sợ bị đánh giá vi
phạm đạo đức… Những nỗi sợ suốt hơn ba chục năm dài chẳng hề buông tha anh mà
luôn song hành cùng nỗi dằn vặt không thực hiện được lời hứa đối với Sâm.
Đến giờ thì Nghĩa tự thấy mình vừa hèn nhát vừa ích kỷ… Nếu không bị lạc
lõng vì sự ghẻ lạnh của người vợ trong lúc tham quan ở Đà Nẵng thì có lẽ đến hết
đời anh cũng chẳng có cơ hội quay về mảnh đất này để gặp lại người xưa.
Nhưng người bỏ về lúc này lại là Sâm. Nàng sợ gì chứ? Phải rồi,
nàng phải giữ hạnh phúc gia đình của mình. Nghĩa hào hển chạy theo cái bóng trắng
với suối tóc bay ngang nhập nhòa trên cánh đồng đang đỏ sẫm dần bởi nguyệt thực.
Khi trăng sáng trở lại thì không thấy Sâm đâu nữa.
……
Tiếng chuông điện thoại réo, Nghĩa mắt nhắm mắt mở uể
oải cầm lấy máy… Tiếng vợ chao chát làm anh tỉnh hẳn: “Đi với đứa nào đã thoả
thuê chưa? Rồi có về không? Bảy giờ rưỡi xe chạy. Nếu không về kịp thì mặc kệ
ông nhá!”.
Nghĩa chưa kịp trả lời thì có tiếng đàn ông trong máy
“Trông mặt vậy mà cũng quản chồng kỹ ra phết… Thôi chết, khéo lão nghe thấy” rồi
tiếng vợ anh: “Sợ gì! Có mà dám. Cái ngữ ấy thì tích sự gì…”.
Nghĩa chán nản bỏ máy xuống. Thôi, … cũng phải về.
Yên tâm vì tất cả đã an bài.
Ông già một mắt đang lúi húi bên bếp. Thấy Nghĩa xuống
giường, ông hất hàm:
- Thằng Hai định về luôn hả?
- Dạ! Cháu về luôn theo đoàn. Bảy rưỡi phải có mặt tại
Đà Nẵng. Mà Út Sâm mới lấy chồng gần đây phải không chú. Cô ấy được mấy con rồi?
Ông già nhướng con mắt còn lại rất ngạc nhiên:
- Ủa, vậy tối qua mi không gặp hắn hả?
- Dạ có. Nhưng chẳng nghe cô ấy nói gì.
Ông già thở dài:
- Nói chi được mà nói.
Đoạn ông già thong thả lại gian giữa kéo tấm rèm bàn thờ. Trên đó bên cạnh
hình bà già là hình Út Sâm. Hai bát hương đầy chân nhang quăn tít. Nghĩa sững sờ
gặp lại khuôn mặt của nàng hồi đêm.
- Hắn tin mi, tin cái lá thơ. Rồi hắn trông chờ. Lần lữa
cả chục năm ròng. Không thấy mi trở lại, hắn nản quá chừng à. Rồi nghe người ta
rủ, đi vượt biên, chết trên biển…
Nghĩa lạnh người.
Tối qua…Tối qua vậy là mơ hay thật?
Ông già cầm xuống từ trên bàn thờ một bọc ni lông, bảo
Nghĩa:
- Mi cầm lấy về làm kỷ niệm.
Nghĩa run run mở bọc giấy. Một chiếc mũ cối. Chiếc mũ bị thủng một chỗ ở
trên chóp, vải bọc mũ đã rách lỗ chỗ còn phần cốt đã mủn, động nhẹ là bục.
Nhưng dòng chữ trên mũ vẫn còn rõ ràng: Trần Trung Nghĩa E…F…QK5. Cái mũ cối
anh đã tưởng mất trong trận lụt ngày xưa.
Nghĩa ôm chiếc mũ vào ngực, gục đầu quỳ xuống trước
bàn thờ… Từ con mắt còn lại và cả từ cái hố mắt hỏng đang giàn giụa nước mắt,
ông già lẩm bẩm bằng cái giọng khàn khàn đứt quãng:
- Phải chi …ngày đó… Thôi! Út à! Thằng Hai nó đã quay
về… Siêu thoát nghe con…
* Dị òm: Xấu hổ quá (tiếng Quảng Nam)
Mai Tiến Nghị
Mai Tiến Nghị