1.
Từ cái may mắn đầu đời thật tuyệt diệu là được sinh ra ở vùng đất
biển Nha Trang, tôi đã hồn nhiên thích biển, một mực khoái biển ngay
từ tuổi ấu thơ. Rồi sau này, vào năm ra trường đi dạy học, may mắn
nữa là tôi lại được bổ nhiệm về Vũng Tàu, cũng miền biển!
Lúc đó đang mùa nghỉ hè, mà vào niên khóa sắp khai giảng, Bộ
giáo dục sẽ bắt đầu cho dạy môn sinh hoạt học đường ở bậc trung
học. Khóa tập huấn đầu tiên về môn nhiệm ý mới mẻ này được tổ
chức ở Vũng Tàu, kéo dài sáu tuần, quy tụ khoảng 30 nam, nữ giáo
viên thuộc các trường công ở Sài Gòn và các tỉnh lân cận, tất nhiên
có cả các trường của đất “chủ nhà”. Ông hiệu trưởng trường tôi, sau
khi tiếp nhận tờ sự vụ lịnh trình diện của tôi, đã hỏi han sơ sịa
vài câu về gia đình, thân thế của “kẻ mới đến”, rồi đúng kiểu
có-mặt-đặt-tên, ông mau mắn giao luôn công tác đầu tiên cho hắn: đi dự
khóa tập huấn môn học mới.
Trại tập huấn của chúng tôi là toàn bộ khu vận động trường Lam Sơn,
cách bãi Trước chỉ chừng nửa cây số. Trong lễ khai giảng, tôi nhận ra
là đa số thầy, cô giáo dự trại đều còn trẻ, số đông là trên dưới
30. Tôi hiểu trại viên khóa tập huấn này cần trẻ như thế vì theo giáo trình
môn sinh hoạt học đường, những bài học chính đầy tính năng động và cần
thể lực, như: các môn thể dục thể thao, trò chơi vận động tập thể,
múa hát cộng đồng, kỹ năng sinh hoạt ngoài trời: cắm trại, lửa
trại, thám du, mưu sinh nơi hoang dã… Nhưng tôi nhận ra ngay là có hai
trại viên quá trẻ, phải nói là hai cô bé mới đúng, lại đứng riêng
ra, phía sau hàng các cô giáo. Dò hỏi mới biết đó là hai cô cháu
gái của thầy Cương, trại phó nội vụ. Vừa đậu tú tài xong, hai cô nữ
sinh chuẩn bị ‘lên sinh viên’ này được ông chú dắt theo, cho làm trại
viên ‘bán chính thức’. Hai cô ả cũng thường sinh hoạt chung với đoàn
nhưng đi chơi là chính, chẳng phải học hành, ghi chép gì cả.
Thế rồi, rõ ràng những buổi học ngoài trời, trong sân Lam Sơn hay
ở các bãi biển, rừng dương…, tức được phơi mình trong nắng, gió, cát,
nước biển… mới lý thú hơn nhiều so với những buổi nghe lý thuyết
trong phòng học hay hội trường. Từ những thầy, cô đã có tuổi, vốn
chậm chạp, e dè với màu nước da nhợt nhạt của mình, cho đến mấy anh
thầy trẻ măng, háo hức kiểu ‘mới ra trường’ như tôi, tất cả đều dần
dần thay đổi thấy rõ. Khi những ngại ngùng ban đầu – ngại nắng, sợ
gió, ớn bụi… – giảm hẳn đi hay không còn nữa, mọi người vui vẻ, ồn
ào chạy nhảy trên cát, ngụp lặn dưới nước, nằm dài ra thảm cỏ. Vài
lúc tác phong nghiêm trang, đạo mạo cố hữu của nhà giáo đã tạm đi
chơi đâu mất, nhiều thầy, cô tự do thả lỏng mình vào những trò đùa
nghịch tếu táo, có khi rơi cả kính, cũng như chọc phá nhau lì lợm,
ồn ả – y như bọn nhóc học trò của mình.
Vui nhộn nhất lúc nào cũng là đám thầy giáo trẻ tức bọn chúng
tôi. Y như trong lớp học nào cũng có một “xóm nhà lá” quy tụ bọn
học trò hay nghịch phá, lớp tập huấn này cũng có “xóm nhà lá”
được dẫn dắt bởi tên quậy nhất là Côn, dạy ở trường trung
học Long Khánh. Anh thầy toán này có nước da đen như “anh Bảy Chà”
trên ống kem đánh răng Hynos thời đó và chuyên chọc cười thiên hạ qua biệt
tài kể chuyện tiếu lâm. Rồi Tâm – chẳng bao lâu đã có ngay biệt danh
Tâm lùn,để phân biệt với một thầy lớn tuổi cùng tên – dạy ở Dĩ
An, mới hôm qua còn nghiêm trang, mực thước, mặc sơ-mi luôn cài kín cổ
thì hôm nay đã hót như khướu, chuyên rủ cả bọn ra quán cà
phê cóc để… tán dóc đủ thứ chuyện. Hay Thảo, dạy môn hóa ở một
trường vùng quê Long An của anh. Phải nói là thầy Thảo đẹp trai, kiểu
“trai miệt vườn” để răng vàng sáng giới và thu hút mọi người với
ngón đờn ghi-ta thiệt điệu nghệ tài tử, cả tân nhạc lẫn cổ nhạc.
Thảo có kể cho anh em nghe chuyện một ông phụ huynh chủ xe đò, mê mẩn
ngón đờn vọng cổ của anh thầy nên mua cho thầy một chiếc nhẫn 5 phân
vàng, đồng thời may cho một bộ sơ-mi, quần Tây thiệt gồ ghề để
đến dự đám giỗ nhà ông chủ xe và tất nhiên, thầy sẽ biểu diễn đàn,
ca tại đây.
2.
Sáng nay, ở khu bãi Trước, cả đoàn được huấn luyện viên của Hội Lực
Sĩ Con Kiến Càng ở Sài Gòn ra dạy các kiểu bơi, sau đó là
sinh hoạt tự do. Ba anh thầy trẻ “xóm nhà lá” đang làm bộ lòng vòng
bơi tới bơi lui, thiệt ra là để bám sát một chiếc phao đang bềnh bồng
trôi mà hai cô trại viên “bán chính thức” đang bám vào.
Còn tôi, làm sao mà không khỏi chú ý đến hai cô bé xinh xắn kia,
nhưng tôi chỉ bơi ở xa xa và lặng lẽ nhìn lại thôi. Vẫn còn trong tôi
những mặc cảm từ cuộc sống nghèo khó, cô độc vừa qua. Tôi đã phải
xa gia đình cha mẹ, phải ở trọ trên một căn gác chật hẹp, bẩn thỉu,
vừa học vừa kiếm việc làm thêm với chiếc xe đạp cà-tàng, vậy mà
cho đến ngày tốt nghiệp cứ thường xuyên thiếu cơm ăn, áo mặc, sách
vở… Khó khăn như thế nên cho đến nay, dù tương lai gần sẽ dễ thở hơn
do lương bổng ổn định từ nghề đi dạy, bạn gái và
hàng hiệu vẫn là hai thứ xa lạ và xa xỉ đối với tôi.
Cứ thầm tự so sánh mình – một cách bi quan về mọi phương diện trong/ngoài
– với các anh thầy trẻ kia, nên lâu lắm tôi mới đánh bạo mở
miệng hỏi Côn về hai cô bé. Thì ra đó là Hồng, để tóc à la
garconne, cởi mở, dễ bắt chuyện. Còn lại là Nghi Dung, tóc hơi dài,
luôn trầm lặng, ít nói.
Cuối cùng thì tôi cũng lấy hết can đãm mà nhập cuộc. Nhân lúc
Nghi Dung buông phao bơi đi, tôi bơi theo thật nhanh. Hụp xuống lặn một
quãng, trồi lên là tôi đã ở bên cạnh cô bé. Tôi mở lời:
“Em bơi giỏi há? Nhưng cẩn thận, đừng ra xa một mình. Em là Dung
phải không, tôi là Hòa, mình làm quen nha?”
Cô bé cười, gật đầu, có vẻ ngỡ ngàng:
“Dạ… đúng, em là Dung, Nghi Dung. Mà làm sao em bơi bằng thầy được?
Vừa rồi thầy ở đâu mà thoáng một cái bơi ra đây liền lẹ vậy? Lúc
nãy em không thấy có thầy ở gần phao tụi em…”
Mở đầu có vẻ thuận lợi. Tôi phấn khích nên tìm ra được ngay ý
tưởng tạm xem là hay hay để nói tiếp:
“Tên Nghi Dung là một cái tên thật đẹp. À vừa rồi em không thấy tôi
là vì tôi không thích đám đông cho lắm, dù ở đây ai cũng vui vẻ, dễ
mến.”
“Dạ em cũng vậy, không thích chỗ ồn ào nên em bơi ra đây. Mấy thầy
kia cứ theo hỏi đủ thứ chuyện!”
Dù dung nhan đang hơi lôi thôi vì tóc ướt sũng, dính bết
vào đầu và trán nhưng Nghi Dung vẫn rất duyên dáng, thụy mị. Cô bé
nói, cười vừa hồn nhiên, tươi tắn vừa dí dỏm, thông minh. Mãi lén
nhìn ngắm người ta nên tôi bí đề tài, đành hỏi han một chút
về chuyện học hành rồi rủ cô bé bơi trở lại chỗ… đông người –
chiếc phao có mấy anh thầy trẻ vây quanh.
Đêm hôm đó, tôi quá hân hoan để bỏ giấc ngủ mà nằm mơ mộng. Cái
tuổi 18 của Nghi Dung không quá cách biệt với tuổi tôi 21. Thuận lợi
nữa là ngoài kiểu xưng hô “thầy”, “em” theo hoàn cảnh hiện thời, tôi
và cô bé không có quan hệ thầy trò.
Mặt khác, tôi sẽ cẩn thận và tự kềm chế, không đeo bám công khai,
lộ liễu, nhưng luôn luôn ở tư thế sẵn sàng, nghĩa là có cơ hội là
áp dụng ngay những lời dạy quý báu của một đàn anh về nghệ thuật,
bí quyết lấy cảm tình con gái. Có một bí quyết tuyệt vời là: “Như
trong một ngày trôi qua, con gái đã nghe không biết bao nhiêu là lời tán
tỉnh, trong đó có những câu rất hay ho của những tay giỏi ăn nói hơn
mình. Do đó, mình phải ráng có vài câu – ít nhất là một câu nhưng
phải thật hay – gây được ấn tượng thật tốt đẹp trong lòng con gái.
Có như vậy thì vào cuối ngày, khi con gái ngồi một mình nhớ lại để
chấm điểm, vô số những lời tán tỉnh của mấy tên khác sẽ bị quên
sạch vì đã có câu tán của mình, do gây ấn tượng nhất nên duy nhất
còn đọng lại trong tâm tưởng của con gái, tức là mình sẽ được nhớ
tới chứ hổng phải tên nào khác.”
Tôi thao thức, lo lắng vì không mơ hồ gì nữa, ngay giây phút đầu
tiên tôi đã thương Nghi Dung.
Kiếm chỗ vắng mà ngồi thừ ra suy nghĩ, tôi cầu Trời khấn Phật cho từ
ngày mai, ngày nào những lời chân tình của tôi cũng được Nghi Dung
“chấm điểm” cao nhất, do tạo được ấn tượng tốt đẹp nhất đối với cô
bé, để tôi được ghi vào bộ nhớ của người ta, chứ tôi không biết
cách xạo sự ngọt ngào, bay bướm như mấy anh thầy trẻ kia –
toàn những địch thủ dẻo miệng đáng gờm.
Trại tập huấn tổ chức đêm lửa trại đầu tiên. Đúng là một cơ hội
bằng vàng cho tôi, vì vào dịp này, trại viên phải luân phiên
ra trả bài bằng thực tế về các kỹ năng quản lửa, quản
trò, quản ca… thì tôi đã nổi bật, nhờ hồi xưa đã có thời gian làm
huynh trưởng hướng đạo sinh. Đặc biệt là tuy thời gian chuẩn bị chơi
lửa trại khá ít nhưng tôi vẫn kịp đưa vào chương trình văn nghệ đêm
ấy vở kịch vui, tựa là “Gia đình bác Tám”, do tôi đã
dựng nhái theo một chương trình rất nổi tiếng về nông thôn
trên đài phát thanh đô thành và cũng từng trình diễn rất thành công
trong một hội Tết sinh viên. Nay tôi vừa vào vai chính là bác Tám, vừa
làm đạo diễn tập cho Côn, Thảo “xóm nhà lá” và một cô giáo trẻ
chịu nhận vai một thôn nữ trong vở kịch.
Nghi Dung đã nức nở khen:
“Hay thiệt, thầy Hòa coi bộ hiền hiền, ít nói vậy mà tếu quá đi.
Thầy giả giọng ồm ồm của bác Tám nghe y hệt giọng một ông già vui
tính, dễ mến. Mà thầy Hòa ơi, quê thầy ở đâu mà nói giọng…”
Tôi đáp nhanh, không khỏi tự mãn về gốc gác của mình:
“Tôi chỉ giả giọng ông già miệt vườn Nam bộ cho vui thôi, chứ quê
tôi là Nha Trang, xứ biển em à. Nên tôi rất yêu biển. Còn quê em?”
“Dạ ở Sài Gòn. Em cũng thích biển nhưng chỉ những lúc biển thật
vắng như chỉ có mình mình thôi.”
Vậy là hai đứa vừa thố lộ những sở thích, tâm ý sâu kín
của riêng mình cho nhau nghe. Cũng lúc này, trái tim tôi vừa biết yêu
đã đảo nhịp liên hồi, hết hát ca, bay bỗng rồi lại bồi hồi, thổn
thức. Tôi vừa mới gặp Nghi Dung đó lại thấy nhớ cô bé rồi. Bao giờ
vẻ mặt, giọng nói, cử chỉ của cô bé cũng đầy dịu ngọt, thiết tha
lưu lại trong trí tưởng của tôi. Mà sao những han hỏi, ánh mắt,
nụ cười của người mình yêu dành cho mình bao giờ cũng ít ỏi đến
thế? Trong thương yêu bao giờ cũng có những nỗi khổ tâm kỳ lạ
với sự mâu thuẫn không-chịu-nổi là cứ lo lắng và hờn trách nhưng
lại càng nhớ thương nồng nàn hơn.
Dù sao, như đã nói, tôi luôn cố gắng tự kềm chế, tự chế diễu
những khi biết chỉ là mình tự kiếm cớ gì đó để đi tìm gặp Nghi
Dung thêm lần nữa trong ngày. Chắc chắn là đang có những đôi mắt
nghiêm nghị theo dõi mối quan hệ đã trở nên quá thân mật, gần gũi
giữa tôi và cô bé.
Riêng về ba thầy giáo trẻ thì không rõ vì lý do gì, Tâm đã bỏ
cuộc. Còn lại là Thảo và Côn thì chỉ tập trung theo nhỏ Hồng. May
mắn cho cả bọn chúng tôi là anh Cương – vừa là đồng nghiệp vừa là
phụ huynh! – vẫn phóng khoáng, khi gặp gỡ, chè chén riêng tư vẫn vui
vẻ xưng hô “tao”, “tụi bây” với chúng tôi như bình thường. Nhất định
là anh Cương đã dễ dàng nhận ra cái trò chộn rộn lộ liễu của bọn
tôi đối với hai cô cháu gái, nhưng anh chưa hay không lên tiếng ngăn cấm
bọn tôi, có lẽ là do bậc đàn anh từng trải đời này đã rộng lượng
thông cảm “tuổi trẻ mà!”?
3.
Thời gian qua thật nhanh, thấm thoát mà khóa tập huấn sắp bế giảng.
Chúng tôi vẫn thường đến cả năm bãi tắm của Vũng Tàu, đi thăm cả
Long Hải và Cần Giờ. Biển có mặt ở khắp nơi – vị chứng nhân
đôn hậu như mẹ hiền.
Sóng biển cứ rạt rào đêm ngày như ru tình tôi lớn dậy. Gió biển
cứ thổi tóc Nghi Dung bay bay, có lúc vờn nhẹ vào tôi, ve vuốt tình
tôi.
Rồi tôi khổ sở, thương nhớ quay quắt khi Nghi Dung chợt biến mất
hết một ngày một đêm. Cô bé về Sài Gòn gấp vì chuyện gì? Lúc cô
bé trở lại Vũng Tàu thì nhằm vào buổi sáng chúng tôi làm bài thu
hoạch cuối khóa. Tôi đang ngồi ở cuối phòng, sắp kết thúc bài thu
hoạch thì chợt có một mảnh giấy vo viên rơi trên mặt bàn. Nghi Dung
và nhỏ Hồng đang đứng ở hành lang, vừa ném giấy qua cửa sổ mà
miệng cười, tay ngoắt. Tôi mừng rơn, vội vã ra khỏi phòng. Nghi Dung
nói ngắn gọn là hai cô bé sẽ đi trước và chờ tôi ở bãi Dâu…
Bãi biển vào lúc rất vắng người, tôi rất sung sướng về cái hẹn
riêng tư này – nhỏ Hồng vừa ý tứ rời đi, nói là kiếm dừa uống –
nhưng cũng làm bộ trách cô bé:
“Hẹn tôi ra đây mần chi vậy? Trưa quá rồi, mà một rưỡi chiều cả
trại phải tập dợt gấp rút ở sân cờ cho lễ mãn khóa vì sẽ có quan
lớn trên Bộ xuống dự…”
Nghi Dung bạo dạn xỉ ngón tay vào ngực tôi:
“Thì chỉ vì em muốn gặp riêng thầy thôi mà. Biển đang thật vắng,
đúng ý của em, mình tha hồ nói chuyện thoải mái, phải hôn thầy? Lễ
mãn khóa thì nhằm nhò gì đâu thầy?”
Tôi trợn mắt:
“Nhằm nhò gì đâu hả? Nhà trường cử tôi đi học thì phải học cho
đàng hoàng, nghiêm chỉnh chứ, không thì hiệu trưởng chửi, phạt chết.
Đúng là em nói giọng… học trò, không biết trời cao đất dày gì
cả!”
Nói thì có vẻ dõng dạc, hùng dũng như vậy nhưng thật ra tôi đang
rất yếu đuối, ngớ ngẩn nhìn người mình yêu sau một ngày-đêm xa cách.
Và tôi lập tức muốn ngã quị khi Nghi Dung dịu dàng nhìn tôi, nói
nhỏ:
“Thì em đã nói là em muốn gặp riêng thầy thôi mà. Về Sài Gòn, em
cảm thấy… nhớ nhớ thầy.”
Niềm vui ngút ngàn đẩy nhịp tim tôi nhảy đến mức cuồng loạn. Tôi
liều lĩnh nắm bàn tay cô bé:
“Thì em đừng gọi tôi là thầy nữa. Gọi anh là anh đi Dung nhé? Anh
cũng nhớ em nhiều lắm, dù chỉ một ngày qua. Anh đã nhớ em từ lâu
lắm rồi, em có biết không?”
Nghi Dung không rút tay lại, chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt thật ngoan
hiền rồi hơi cúi mặt, chúm miệng nói nhỏ với cái giọng vừa ngộ
nghĩnh vừa dễ thương của con gái Nam bộ:
“Thiệt hôn?”
“Thiệt mà. Anh đang có hơi lo về buổi tập lễ mãn khóa, nhưng kệ!
Từ lâu anh đã mơ ước được ở cạnh em thật riêng tư như lúc này. À em
về Sài Gòn gấp như vậy, có gì vui không Dung?”
“Dạ vì ba em sắp xuất ngoại, đi làm ăn bên Hồng Kông nên em phải về
gặp ba để bàn với ba về ngành em theo trên đại học.”
“Em chọn ngành nào vậy?”
“Cũng Văn khoa như anh, nhưng cũng chưa chắc chắn lắm anh à!”
Bị lôi cuốn vào chuyện của Nghi Dung, tôi chỉ vừa thay đổi được
cách xưng hô thôi, trong khi tôi còn có ý muốn cháy bỏng nữa trước vẻ
yêu kiều lạ thường của người mình yêu. Cái óc tính toán đáng xấu
hỗ của tôi đang bảo người ta đang vui, đang dễ dãi kìa, nói đại
đi! Thôi thì… Tôi xiết nhẹ bàn tay Nghi Dung:
“Dung ơi, anh muốn nói…”
Chợt cô bé không còn ánh mặt tươi vui nữa:
“Anh Hòa, xin anh đừng nói. Em biết anh muốn nói gì với em rồi,
nhưng xin anh… Không biết sao, em sợ…”
Tôi hoảng hốt, tự cực lực lên án mình cái tội dại dột tính “nói
đại” vừa rồi. Tôi nài nỉ:
“Em sợ điều gì mới được? Dù mình gặp nhau chưa lâu nhưng anh không
hề lầm lẫn về tình cảm trong lòng mình đâu em. Dung ơi, em không tin anh
sao?”
Đôi mắt Nghi Dung đã ngấn lệ, giọng cô bé ray rứt như van nài ngược
lại:
“Dạ em tin anh chứ, nhưng xin anh đừng nói ra. Lần trước em đã từ
chối anh, không cho biết địa chỉ nhà em cũng là vì em sợ… Sợ ngay từ
lúc em bắt đầu cảm thấy mến anh, Hòa ơi! Em sợ chuyện tình cảm của
tụi mình không có tương lai đâu anh.”
Nói xong, Nghi Dung nhẹ nhàng rút tay ra khỏi bàn tay đờ đẫn của
tôi. Cô bé đứng dậy, bước đi vài bước trên bãi cát rồi dừng lại,
khoanh tay, nhìn mông lung ra biển.
Trong những chuyện tình có duyên may, khi người con gái chạy đi chỗ
khác là chỉ vì thẹn thùng, không muốn chàng trai nhìn thấy ánh mắt
thuận nhận của mình. Còn trong chuyện tình của tôi lúc này, người
yêu bước đi là đã mang theo mọi mơ ước, hạnh phúc, cả tuổi thanh xuân
của tôi. Tôi đang chìm vào cực cùng của khổ đau, hụt với.
Ngày cuối cùng ở trại, trong lễ mãn khóa, Nghi Dung tránh mặt tôi
nên tôi tìm cách dò hỏi nơi nhỏ Hồng. Thì ra, từ lâu rồi, gia đình
Nghi Dung chỉ còn chờ ngày tan vỡ vì ông bố có vợ nhỏ và bà mẹ quyết
định ly dị. Cô bé tắt mất nụ cười hồn nhiên, hóa thành một cô gái
trầm lặng, u sầu. Đối với cô bé bị biết quá sớm mùi vị thảm kịch trong cuộc
sống gia đình, trong thương yêu và hạnh phúc này, chuyện vui đậu tú tài, lên
đại học thật quá bé nhỏ bên cạnh nỗi hoang mang, chán đời vì không biết trong
tương lai mình sẽ ra sao, đi về đâu nữa, vì dù chọn đi theo mẹ hay đi theo cha
cũng đều cay đắng, đau buồn… Trong chuyến đi chơi vùng biển vừa qua, cô bé
tỏ ra có lãng quên, nguôi ngoai chút đỉnh. Nhưng khổ nổi, ngày Nghi Dung
về Sài Gòn gấp là ngày bà mẹ chính thức ra tòa nộp đơn xin ly dị, không
ai van nài, ngăn cản được. Đã tan nát cõi lòng, lại gặp lúc tôi ngờ
nghệch định tỏ tình nên cô bé tội nghiệp đành ngăn tôi lại, nói vội,
nói đại một lý do nghe thật đơn giản nhưng vô cùng mơ hồ, rằng “chuyện
tình cảm của tụi mình không có tương lai”, mà không chia xẻ với
tôi về tấn thảm kịch gia đình cô bé phải riêng mang.
Từ dạo đó, tôi yêu biển với cõi lòng đầy u uất. Sóng biển ngàn
năm cứ vỗ mãi vào những gộp đá trơ lì. Gió biển đêm ngày cứ thổi
mãi trên bãi cát nín câm. Với biển, tâm hồn tôi mãi cưu mang những kỷ
niệm thật buồn về một chuyện tình không may…
Phạm Nga
(Tháng 10-2017, bão biển vào Nha Trang)