Má về Việt Nam ăn Tết đã trở lại. Buổi sáng, Má mở va ly bắt đầu soạn ra
những món quà Tết. Cái va ly đầy ắp từng gói giấy báo to nhỏ. Mây lại sắp được
nghe chuyện đời khi những tờ giấy báo mở ra.
– Con nhỏ con của Cậu chết rồi.
– Chết?
– Ừ, hôm Tết mẹ hỏi sao không thấy nó tới, con Chi bảo nó chết rồi còn đâu.
Má ngừng tay soạn va ly. Chung quanh Má giấy báo bắt đầu vun lên bừa bãi.
Cái gì dễ vỡ là cuộn vào giấy báo, cho dù nó đã nằm trên kệ ngoài ga ra. Nhiều
lúc Mây nghĩ lôi cái đã yên vị ra sắp xếp loay hoay còn vỡ lẹ hơn, nhưng không
nên cãi cọ với Má.
– Chả biết nó bịnh gì mà cứ sốt liên miên, người cứ gầy dốc đi. Con Chi nói
vào nhà thương thăm nó đã vài lần, lần chót thấy nó tươi tỉnh ai cũng tưởng sẽ
về, nó cũng hớn hở. Vậy rồi nó chết. Mẹ nghi nó bị aids.
Mây vẫn ngồi im xoay mặt vào màn hình nơi bàn viết. Đằng sau lớp chữ khuôn mặt
con nhỏ từ từ hiện ra. Má đã ngưng hẳn việc soạn cái va ly đầy tú hụ na từ Việt
Nam qua.
– Còn đứa con của nó thì sao?
– Thì cô Mai phải nuôi chứ còn làm sao. Tội nghiệp, dạo sau nó lấy chồng rồi
thì đẹp lộng lẫy. Năm đó nó đến nhà chúc Tết mặc áo dài, môi son má phấn trông
ngồn ngộn.
Khuôn mặt con bé đã rõ, ánh mắt hoang dại to và ướt, nét mặt nửa ngang bướng
nửa ngây thơ. Nó không hẳn giống Cậu, nhưng nhìn nó thì biết ngay nó phải là
con của Cậu. Năm đó nó tròn 18, nhưng đôi mắt nó vẫn là đôi mắt của trẻ thơ với
khóe mắt tròn đầy và đuôi mắt mở rộng.
– Cách đây mấy năm mẹ nó có tới hỏi mẹ cho nó ở tạm vài tháng…
– ???
– Mẹ nó bảo nó đang bị tụi băng đảng rượt tìm cần lánh mặt một thời gian,
“vì chị đã nói là quyền huynh thế phụ” nên em mới đến nhờ. Vớ vẩn, huynh với
chẳng phụ, ai dại gì mà chứa nó để bọn du đảng tìm đến. Cô Mai cô ấy không biết
dậy con. Ai lại con bé đẹp như thế mà rồi chỉ giao du với lũ băng đảng rấc
riếc. Mà khố rách áo ôm thì cũng đến vậy thôi.
Mây gặp con nhỏ chỉ một lần, lúc Mây độ 35 tuổi, suy nghĩ lung tung mà chả
đâu vào đâu, cứ như kẻ mộng du. Má nói Cậu có một đứa con gái. Con ai? Con cô
Mai. Mày chưa biết à? Dạ chưa. Được, để tao bảo thằng Hùng gọi nó lên đây tao
bảo.
Ngày 28 Tết hai mẹ con đến. Mây nhận ra ngay cô gái năm xưa. Cô Mai vẫn gầy,
nhưng đen và khắc khổ hơn dù nét đẹp thầm kín dịu dàng vẫn còn.
Má bắt đầu mở máy. Cháu viết thư cho Bố thì phải lễ độ. Cháu có biết Bố kiếm
tiền cực nhọc, đời sống ra sao mà trách bố không nhớ đến cháu. Cháu đã làm được
gì mà đòi hỏi sinh nhật. Em phải dậy con ăn nói cho đàng hoàng. Chị là quyền
huynh thế phụ, chị không chấp nhận chuyện con viết thư trách móc bố. Nếu em và
con muốn chị chuyển thư thì phải về viết lại cho lịch sự lễ độ.
Má còn nói gì gì nữa Mây chả nhớ. Cô Mai ngồi im suốt buổi, ánh mắt ướt
buồn.
Hồi đó Cậu đi “học tập” về thì đâu có gì để làm ngoại trừ lêu bêu. Cậu xoay
sở một cái bàn cắt, một cái bàn ủi và những cái gì linh tinh chả rõ, bỏ vào bị
vải ra đường Bạch Đằng làm nghề bọc nhựa. Tối đến Cậu về ngủ ở cái đi văng
ngoài hiên dưới tàn cây bươm bướm. Mây không rõ những ngày mưa Cậu có bị ướt
không. Khi Cậu thôi nghề ép bọc nhựa, chắc hết tiền, thì Cậu quen cô Mai. Vài
ba ngày Cậu về nhà một lần rồi tối đến nói Mây chở Cậu đi. Cậu không nói đi
đâu, vì Cậu đèo Mây, đến chợ Bà Chiểu vào một ngõ rộng nơi có quán cà phê hay
quán ăn gì đó đèn sáng trưng thì Cậu xuống xe và Mây đạp về một mình. Cứ đều
đều vài tối một lần, riết rồi sao đó chả rõ Mây biết là Cậu có cô Mai. Mây chỉ
bận tâm chuyện thi vào đại học được không nên chả thắc mắc cái chuyện yêu đương
kia làm sao kết thành khi người ta bị lâm cảnh “khố rách áo ôm.” Ha. Cái chữ ác
nghiệt. Lâu lâu Cậu về, bảo Mây lấy cho Cậu một túi mì sợi. Đó là một cách xin
Má mà không phải đối diện cùng Má để phải trả lời những câu “biết trả lời sao?”
Rồi chuyện gì xảy ra giữa hai người?
Con bé cứ nhìn Mây chòng chọc. Ánh mắt hoang dại của nó như tò mò như chịu
đựng như đợi chờ. Mây càng lúng túng, lùi vào nhà trong ngồi nơi cầu thang. Mây
không bao giờ quên cảm giác xấu hổ ngượng ngùng những khi Má mắng ai đó xối xả.
Lúc thì cô thợ đan, lúc thì anh Hùng hậu đậu, khi thì chính là Mây “đoảng vị,”
cứng đầu. Sau bếp, anh Hùng chị Chi thằng Tí con Chín bum ngồi cười cười, trúng
quả. Cái bếp này ngày trước chưa có. Khi Mây đi rồi Má làm ăn có tiền mới mua
luôn căn nhà ọp ẹp 12 thước vuông sau lưng nối vào nhà của mình và biến nó
thành nhà bếp, thay cho bếp cũ.
Ngồi nơi cầu thang Mây nhớ những ngày học thi đại học. Con Quyên vài bữa qua
chơi một lần. Con Hiếu thì qua thường hơn. Tụi nó ngồi ở bực cầu thang, chỗ Mây
đang ngồi, và nói đủ thứ chuyện trong khi Mây vần hết thau quần áo thì đến chà
sàn rửa bát, rồi nhóm bếp nấu cơm, rồi dọn mâm chén, rồi quét bếp. Đều đặn, gần
đến giờ cơm thì tụi nó sẽ rút lui theo đúng thủ tục con nhà có giáo dục. Lâu
dần con Hiếu thú nhận nó tưởng Mây lười không chịu đi học thêm Lý Hóa với thầy
Hùng chứ không dè Mây bận túi bụi thật. Bên Mỹ gặp lại con Quyên sau mấy mươi
năm nó cười cười kể ra cái kỷ niệm “lao động” của Mây và khen Mây giỏi. Giỏi
hay nghèo?
Đang ngồi ngẩn ngơ cả lũ giật mình nhận ra sao nhà quá im lặng. Cô Mai về
hồi nào? Mây ló đầu ra. Không, cô Mai vẫn ngồi đó, vẫn làm thinh chịu đựng. Một
mối tình trong thời khốn khó, một đứa con không cha. Cô chắc đã quen với điều
cay đắng. Và con bé, quả nó toát ra vẻ của một đứa trẻ đứng ngoài xã hội. Má
lập lại về lá thư để kết thúc buổi gặp gỡ.
Khi về lại Mỹ, thật lâu về sau lần hồi nhớ lại mọi điều Mây tự trách mình
không biết bao nhiêu mà kể. Nỗi ray rứt đi kèm ánh mắt của con bé, bám riết
theo Mây trong thinh lặng. Sao Mây ngu vậy. Ngày tư ngày Tết, mẹ con cô Mai đã
chịu nhiếc móc mà không có được một chút quà, cả lá thư cầu viện cũng không được
chuyển. Ngu dốt đã biến Mây thành vô tâm. Mà đúng hơn, Mây chỉ là một con bù
nhìn những khi đứng bên Má. Mây buồn mình, quá tệ.
Má đã quay lại với đống giấy báo và cái va ly. Mây loay hoay viết thư cho
Cậu, viết rồi lại xóa. Mây nhớ tới ánh mắt của Cậu lúc Mây nói đến con bé. Cậu
nhìn về hướng đứa con gái (Mây chưa biết mặt Mợ), như muốn bảo Mây cẩn thận,
đừng để nó nghe thấy. Buồn. Ánh mắt hoang dại vẫn đậu sau gáy Mây.
Má đưa ra 3 cái áo dài Mây gửi may lúc Má đi Việt Nam. Mây chạy vào thay áo
rồi ra xăm soi trước gương. Tóc Mây ngắn ngang cằm, không đủ thướt tha. Có một
dạo Mây “điên” nuôi tóc dài, nuôi gần 2 năm được một mái tóc đen bóng ngang
lưng, nhưng mỏng te. Các lúc đó đã thôi Mây mà đi lấy vợ, nhưng vẫn với miệng
qua người bạn mà bảo Mây cắt đi, “già” lắm. Mây xoay bên này xoay bên kia, vừa
ngắm nghía vừa tưởng tượng xem con nhỏ mặc áo dài đẹp như thế nào. Hình như cả
đứa con gái của Cậu và Mợ bây giờ cũng xương xương, cao vừa vặn và tóc dài. Còn
con bé nữa với người vợ đầu, Cậu và gia đình không ai được biết nữa. Cậu có bao
nhiêu mối tình? Má tiếp tục giọng đều đều. Hồi đó mày đi rồi thì vài năm sau
Cậu hỏi cưới Mợ. Mẹ phải qua bảo đảm với nhà gái là Cậu vẫn độc thân không có
dây mơ rễ má gì cả…
Mây bắt đầu phiêu lưu về xóm cũ. Đêm đêm cứ 9 giờ thì nhà cây ổi lùa đám con
về đọc kinh tối. Kính mừng Maria đầy ơn phước Đức Chúa Trời ở cùng bà… Thuộc
rồi thì đến phiên anh Hùng học Đắc Lộ về nhà đọc cho nghe Lạy Cha chúng con ở
trên trời. Mười giờ đêm chị Thành sẽ ra cửa sổ trên lầu leo cây ổi xuống đi
nhẩy đầm ở các hộp đêm. Chị Triệu chơi trống đã lấy chồng rồi nên ông bà Mười
không thắc mắc nữa. Đến 11 giờ thì thằng Long sẽ lên sân thượng ôm ghi ta đánh
liên miên hết bài này sang bài khác. Những đêm trăng sáng Mây thường nằm trong
mùng ngó mông ra cửa lưới chờ những bản nhạc và sẽ ngủ trước khi thằng Long dứt
tiếng đàn. Ở cái xóm nhỏ đó, Mây thấy anh của mình lớn lên cùng với đám anh em
nhà cây ổi, anh Ba Tề vào lính rồi trở về năm sau mất một chân trước khi anh
Hùng kịp vào Hải quân. Anh Long đi quân trường chưa đầy 6 tháng khi về đã bị vợ
bỏ. Nhịp đời rộn rã mà lại thờ ơ, mọi điều lớn lao của cuộc sống hình như qua
đi trong hối hả và hững hờ. Trong cái tẻ nhạt vô nghĩa mà lại sôi sục ấy, một
bữa Mây thấy Cậu về, bộ đồ lính còn đầy bụi, và ngay chiều đó thấy Cậu đánh Mợ,
Mợ chỉ khóc. Rồi Mợ bồng đứa con gái đi mất. Hai mươi năm sau Mây mới được
biết, là Cậu về, lối xóm mách chuyện Mợ bồ với anh Ba Tề. Cậu lấy người vợ đầu
tiên ấy lúc nào?
Trước khi Mây kịp lớn, nhà Mây có thêm một người khách những dịp giỗ Tết. Cô
Lan và một đứa con bồng trên tay, Má nói không phải con của Cậu, nhưng cô Lan
thì cứ làm như là con của Cậu, và Cậu thì tránh cô. Những việc đó trôi qua
trước mặt Mây như những đám mây trắng trôi từ góc này qua góc kia mỗi chiều. Mà
việc lạ lắm giật gân lắm cũng chỉ quá bữa cơm chiều hoặc qua sớm mai thì sẽ bị
tiếng chân rầm rập của thợ thuyền dậy từ 5 giờ sáng, tiếng băm củ sắn của ông
Tiều đối diện làm bò bía đi bán… che lấp. “Sống trong thời buổi chiến tranh,”
ai cũng nói vậy, và Mây cũng thường bắt gặp mình nghĩ về cuộc đời của mình như
vậy cho đến bây giờ.
Những ngày thanh bình ở đây lòng Mây không êm ả hơn những ngày ở xóm Phan
đình Phùng ấy đâu. Ánh đèn vàng nơi đây sao hiu hắt, cái thanh tịnh sao thê
lương. Cái gì cũng có sẵn, tràn trề, không cần phải trốn vào một cái xó nào đó
tìm chút riêng tư, không cần phải chờ những lúc mọi người đều bận hay đang ngủ
để tìm chút tĩnh lặng. Dường như âm thanh và nhịp sống thuở chiến chinh đã là
một phần của con người mình, nên khi xa nó Mây thấy lao đao khốn khổ. Đi được
một bước trên cái bất an là đi được một bước trong cõi bình an, xa cái hỗn độn
bấp bênh là xa cái tịch lặng tìm được. Mây nhớ thiết tha những ngày nắng cháy
được đi dưới hàng me đường Trần quý Cáp, những ngày mưa vừa dứt- lá xanh non và
không khí trong mát làm dịu cả một quãng đường. Chiến tranh, Mây ngờ rằng cả
những khi người ta sinh ra lúc không có một cuộc binh đao thì người dân Việt
cũng chưa bao giờ sống trong thanh bình. Họ chỉ sống tạm trong thời không chiến
tranh, được thong thả làm nốt những việc mà cha anh chồng vợ đã không kịp hoàn
tất hồi năm ngoái năm kia, được làm đôi ba việc mà mình đã lỡ quên hay lỡ thời
cơ để làm trong kiếp trước.
Và như vậy, kiếp sau hay một kiếp nào đó quành lại, Mây rồi sẽ được xem phim
Cleopatra, phim Love Story cho thỏa con mắt. Mây sẽ chịu khó chải chuốt mái
tóc, săm soi tà áo để là một đứa con gái xinh tươi. Cái chuyện có ra chùa Xá
lợi ăn quà nữa hay không thì có lẽ chờ tới đó sẽ hay. Nhưng rồi Mây cũng sẽ bị
hụt hẫng khi ông Ngoại mất.
Ông mất khi Má vừa mua được căn nhà đầu tiên từ di cư. Căn nhà này dĩ nhiên
hơn hẳn cái buồng thuê bên nhà cậu Lộ ngõ hàng quà. Và cuộc sống nơi xóm này
cũng sắc mầu hơn nhiều lắm so với cái buồn buồn êm ả và nghèo nàn của ngõ bên
kia. Nhưng như có gì ngao ngán treo trong không khí. Mây mấy tuổi mà sao đã
thấm vào lòng nỗi ngao ngán ấy? Ông mất một ngày trong tuần, vắng lặng. Lúc đó
dì Hai vừa xuống bếp, và Cậu cũng vừa xuống gác ra trước sân hút điếu thuốc với
anh Hùng. Ông nằm bệnh đã tháng nay rồi, ông không còn bảo Mây dắt gậy cho ông
vịn vai đến căn gác bên kia hẻm hút thuốc phiện nữa. Dì Hai phải phụ Cậu tắm
rửa thay quần áo cho ông một ngày vài bận. Mọi người chắc đã mệt mỏi mà phải
đành. Mây nghe ông gọi Cậu, nhưng ai cũng làm lơ chờ một tí. Cái nông nỗi nuôi
bịnh là vậy, sau nhiều ngày vất vả quanh giường, chính ngay cái lúc người ta
lơi tay là lúc con bệnh gọi gấp cho giây phút sau cùng, và mối ân hận theo hoài
với những người đã chần chừ.
Cậu ôm ông vào lòng khóc ngất. Nét mặt trắng trẻo xương xương của Cậu xanh
lại, ướt đẫm. Cậu cúi xuống kề sát mặt ông, lúc đó Mây tưởng như thấy hai anh
em sinh đôi, một người trắng và một người tím tái. Mây đứng nhìn mọi người,
hoang mang không biết mình có buồn không. Cái chết của ông không làm Mây đau
đớn xót xa như khi Mây gặp người lính Mỹ trẻ tuổi ngồi uống một mình trong
nightclub. Mây đã khóc nhiều ngày sau đó khi nhớ lại cái vóc cô đơn dưới ánh
đèn mờ mờ khói thuốc mà không hiểu vì sao. Cuộc đời, Mây chưa biết gọi nó là
cuộc đời, nhưng Mây thấy một cái gì đó nhếch nhác buồn tênh. Dạo đó Mây cứ phải
đi lang thang một mình trong xóm vắng khi mọi người đổ nhau vào ti vi xem phim
Combat hay xem đánh bốc. Đánh đấm giết nhau có gì vui? Sao người ta có thể lấy
chuyện thoi vào mặt nhau cho đổ máu để làm trò giải trí? Quen cảnh máu xương?
Cái gác ọp ẹp kia có gì gọi mời mà ông cứ phải lần dò níu vai Mây lụm cụm leo
lên ấy? Cuộc sống lướt qua mắt trẻ thơ như những khúc phim bị cắt gọn rồi ghép
vào nhau cho đỡ mất thì giờ xem, hay nói đúng hơn là đỡ phải sống qua. Có đỡ
được không?
Má bắt đầu mở cái va ly thứ hai lôi ra những món đồ mang từ Việt Nam qua.
Giấy báo lại bắt đầu phơi ra sàn từng tờ nhầu nhĩ. Má lại nhẩn nha kể.
– Hồi đó Ba mày cũng đâu có phải là hiền.
– Ủa, bộ…?
– Mẹ không rõ, nhưng năm đó Ba mày nằm nhà thương Cộng Hòa đã ba năm trời,
tưởng không qua được nên có bà tới xin Mẹ cho bà và đứa con vào thăm „ông ấy.‟
– A ha, chuyện này hấp dẫn. Rồi sao Má?
– Chả sao cả, họ nghĩ sao đó không tới nữa.
– Nhưng Ba là người cù lần…
– Đừng có tưởng bở
– ???
– Hồi di cư Mẹ vào trước, Ba mày làm cho hết tháng rồi vào sau. Nhưng 6
tháng vẫn không thấy tăm hơi, rồi một hôm thấy xe đỗ trước nhà ở trọ, ông vào
bảo đưa tiền trả tiền xe. Hỏi ra, thì tiền chính phủ cho mỗi gia đình định cư
ông đã dùng để đi du lịch Huế Đà Nẵng trước khi vào Nam hết cả rồi.
– Hết?
– Ừ, không còn tiền trả tiền xe.
– Sao Má không nói Ba?
– Thì cũng đâu làm gì được nữa… Má đã quen rồi với số phận đè nặng lên mình?
Má đã quen với xã hội o ép buộc ràng? Mây luôn thấy ngạc nhiên, có cái gì kỳ bí
cột những người đàn bà Việt Nam vào cái số phận rất tầm phào. Im lặng chấp nhận
có vẻ là giải pháp khôn ngoan nhất. Nhìn đống giấy báo bắt đầu vun lên, Mây
ngao ngán liên tưởng, hình như mọi người đàn bà trong xã hội Việt Nam đều trở
thành những tờ báo- chỉ được một vài giờ đầu lúc mới ra khỏi máy in trên đường
tới sạp báo là được đối đãi trong sự toàn vẹn, chỉ được những phút đầu tiên khi
người đọc mở trang giấy là được nhìn đúng giá trị. Rồi là tèm lem bôi bẩn xé rách
chà đạp. Lượm lên chỉ để “đỡ nóng tay.” Ai đó nói Việt Nam không chỉ có chiến
tranh. Ừ, nói cho rõ thì không chỉ có chiến-tranh-Việt-Nam. Và nói cho rõ hơn
nữa thì mình có cả một nửa dân tộc mang họ Khổng và nửa kia là giấy báo.
Đống giấy báo của Má đã vun cao và chiếm lối đi, Mây đứng lên sửa soạn đi
làm. Sau lưng, Má lại chép miệng tội nghiệp con nhỏ.
***
Sáng ngủ dậy Mây nằm nướng trong giường nhớ lại giấc mơ. Mây thấy cô Cúc mặc
áo dài đen mái tóc thướt tha đi trên cầu Trương Minh Giảng. Cô chỉ chừng hăm
mấy, hình như sinh viên Văn Khoa. Cô trắng như bông, giọng Huế nhỏ nhẹ hiền
lành- đẹp như một cô tiên nhân hậu. Cô lấy ông giám đốc Hàng không thì phải,
mới có một đứa con, họ thuê một căn phòng chung nhà Mây ở. Vợ lớn tới chửi,
nhưng không thèm chửi cái chuyện thê thiếp của chồng mà bà chửi sao ông dám
đánh thằng con 8 tuổi. Hình như mọi người chấp nhận cái chuyện một kiểng hai
quê năm thê bảy thiếp. Cái vóc cao gầy buồn bã ấy cúi đầu rảo bước qua cầu; cô
đi lễ về. Bất chợt Mây thấy một đám người đổ tới đánh ghen cô Cúc, cô hốt hoảng
chạy xuống dốc cầu, mà lạ, sao rồi người bỏ chậy thục mạng đó lại là Mây. Mây
nghĩ chỉ cần chạy vào được chùa ở ngay đầu ngõ dưới chân cầu thì sẽ thoát.
Nhưng một nhát dao đã bổ xuống vai Mây buốt cháy. Mây la không được, Mây khóc
không ai nghe, Mây vùng vẫy. Nước mắt ướt mặt khi Mây thoát ra khỏi cơn mơ. Mơ
thôi mà.
Mây ra bếp pha cà phê. Con nhỏ – em họ của mình- tên gì cho đến bây giờ Mây
cũng chưa biết.
Lưu Na
Nguồn: Trích tập truyện Gập Ghềnh