Đầu năm 1974, tôi đóng đồn ngay con lộ đá dẫn vào Ba kè (cách đó chừng 2 cây
số), Vĩnh Long. Đồn nằm sát mặt lộ, chung quanh là cây dừa nước và sình lầy. Đó
có thể là một ưu ái của ông Đại Đội Trưởng hay Tiểu Đoàn Trưởng, nhưng tôi lờ
mờ không biết.
Đồn được làm bằng thân dừa và những bao cát của Quân đội Mỹ được xếp chồng
chất lên nhau, rất sơ sài và mong manh. Có khi tôi đã nghĩ chỉ cần một trái
B.40 chính xác là “thầy trò” 7, 8 người rủ nhau đi “tầu suốt”, không hẹn ngày
trở lại.
Nhiệm vụ trong ngày của Trung Đội chúng tôi là sáng hôm sau phải dậy sớm, rà
mìn từ ngã ba Ba Kè vào đồn thứ hai cách đó khoảng một cây số, sau đó bàn giao
và đi “lội nước” quanh vùng để giữ an ninh cùng với Đại Đội.
Đại đa số lính VNCH thường nghe Chương Trình Dạ Lan (1) mỗi đêm.
Tôi cũng vậy. Đêm đêm, tôi và anh Hạ Sĩ (tên Tường) trực máy truyền tin PRC-25
nằm cạnh nhau trên chiếc giường tre, giữa là cái máy radio nhỏ. Gần như
đêm nào chúng tôi cũng đợi nghe Chương Trình Dạ Lan cho vơi bớt nỗi
buồn xa nhà từ 7 giờ đến 9 giờ tối. Bên cạnh tiếng kêu “rè rè” của máy truyền
tin, chúng tôi chờ nghe bản tin chiến sự và tiếng hát của các “em gái hậu
phương”.
Sau tiếng nhạc hiệu, chương trình bắt đầu. “Đây Chương Trình Dạ Lan,
tiếng nói của những người em gái hậu phương, nói chuyện với các anh trai tiền
tuyến.” Tiếp theo là tiếng hát của Ca Sĩ Thái Thanh trong bản 10
thương của Phạm Đình Chương. “Một thương tóc xõa mơ màng… Hai thương
em ăn nói dịu dàng mà lại có duyên… Ba thương má lúm đồng tiền… Bốn thương đôi
mắt như sao hiền mùa thu…” Sau đó là đủ thứ mục tùm lum. Nào là tin tức
thời sự, chiến sự khắp bốn vùng chiến thuật, bình luận, thư của anh trai, thư
của em gái, xen vào là những bản nhạc phần lớn mang giai điệu Boléro (2). Đời
lính thường giản dị, đơn sơ như sông nước, núi rừng, ruộng lúa phì nhiêu,
có khi như máu chẩy, xương rơi, xông pha ngày đêm bảo vệ từng tấc đất của tổ
quốc.
Người lính không thích ngồi suy nghĩ vu vơ, lẩm cẩm, nên điệu Boléro rất
thích hợp. Tôi thích nhất bản Đom đóm
của Phượng Linh. Dù đang ngồi trên vọng gác, tai mắt đang theo dõi giặc,
vẫn không thể bỏ qua những cung bậc ngọt ngào, day dứt “Đom đóm đâu ra
chiều hôm thật nhiều. Tiền đồn ven biên anh vừa lên phiên đổi gác…” Rồi
Chương Trình cứ diễn ra, các bản nhạc được các ca sĩ trình bầy. Đại khái như Chuyến
đò vĩ tuyến (Lam Phương), Xuân này con không về (Trịnh Lâm Ngân),
Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Hai mươi bốn giờ phép (Trúc
Phương), những bản tình ca nói về lính của Nguyễn Văn Đông, của Duy Khánh, của
Trần Thiện Thanh, vân vân.
Boléro không sang cả, quý phái như Tango, không dìu dặt như Valse, không quá
chậm rãi và gợi tình như Slow và không xuồng xã như một số điệu “giật”
mới…, nhưng Boléro có thể làm chết lòng người nghe một cách êm ái, du
dương.
Boléro như một dòng suối hiền lành, trong mát. Tôi thấy ấm áp khi nghe
Boléro, như muốn gục đầu trong lòng mẹ ngủ một giấc đầy mộng mị.
Điệu Boléro đã đến giản dị như thế và cũng không đòi hỏi, cần đền bù.
Boléro không cần tiền hô, hậu ủng mà vẫn uy nghiêm, khí thế.
Những nơi nào không phải giữ “bí mật”, lại có anh lính VNCH hát vu vơ một
bản Boléro dễ dãi, rồi chốc chốc dừng chân chờ bè bạn đi tới.
Boléro đi tới đâu, anh lính VNCH đi tới đó, dù gian khổ. Hay nói ngược lại,
anh lính đi tới đâu, Boléro xuất hiện ở đó, dù trong rừng gìà, đồi cao, suối
khe hay thung lũng.
Không phải chỉ có những anh lính VNCH mới mở nghe chương trình Dạ Lan, ngay
cả đến hàng vạn những bà vợ lính, gia đình lính cũng say sưa với chương trình
này. Đài Phát Thanh Quân Đội đã thành công. Tôi có cảm tưởng khắp miền Nam đều
nghe Dạ Lan, chờ đợi cô, dù không biết cô là ai, trong khi ở miền Bắc, các
thanh niên phải bỏ cha mẹ, anh em, người yêu, lên đường “diệt Mỹ-Ngụy” hoặc
“sinh Bắc, tử Nam” không có ngày về. Tình cảm bị bó chặt, bị kìm kẹp trong “Tiếng
chầy trên sóc Bombo”, “Cô gái vót chông” hay “Cô gái Sài Gòn đi tải
đạn…” Chán nhỉ?
Chương trình Dạ Lan đã đến với các anh chiến sĩ miền Nam như thế. Có
người đi hành quân ở vùng không cần giữ “bí mật tuyệt đối”, miệng còn có thể
lẩm bẩm một bản nhạc vừa nghe được, hay suy nghĩ phải viết gì thêm trong thư
gởi em gái hậu phương… Có thể nói ai ai cũng biết và có cảm tình với
chương trình này.
Sau 1954, nhất là sau 1975, điệu Boléro chẳng những không chết, “nó” còn
tươi mát trong lòng mọi người hơn bao giờ. Các ca sĩ miền Bắc nổi tiếng nhờ
điệu Boléro, các chương trình âm nhạc mượn danh Boléro để có khách,
Boléro nhờ vậy cũng tiến triển không ngừng, không những ở trong nước, mà còn
ở ngoài nước nữa. Nhạc Vàng, Nhạc Sến, Nhạc Lính…,dù được gọi là gì đi nữa,
“nó” đều mang dấu tích của một thời.
Hà Việt Hùng
(1) Chương trình này do Đại tá Trần Ngọc Huyến thành lập tại Đài Phát thanh Quân đội năm 1964 -1975, và tùy giai đoạn, có sự đóng góp của một số các vị khác, để khuyến khích và nâng cao tinh thần chiến đấu của QLVNCH các cấp.
(2) Điệu Boléro: Một điệu nhạc phát xuất từ các quốc gia Châu Mỹ Latin (Latin America) tới VNCH từ năm 1950. Mỹ Latin gồm các vùng phía nam của Hoa Kỳ.