Nhà văn Cung Tích Biền tên thật Trần Ngọc Thao, sinh năm
1937 tại Thăng Bình, Quảng Nam. Từ 1970 là giảng viên Trường Sĩ Quan Hành Chánh
Sài Gòn. Ông giải ngũ năm 1973 với cấp bậc Đại úy. Sau đó làm Giáo Sư Thỉnh Giảng
Viện Đại Học Cộng Đồng Quảng Đà, Đà Nẵng. Là một nhà văn độc lập, ông có truyện
và thơ đăng trên các báo từ Năm 1958, với nhiều bút hiệu khác nhau lúc ban đầu
như Chương Dương, Việt Điểu, Uyên Linh trước khi có bút hiệu Cung Tích Biền.
Bút hiệu Cung Tích Biền xuất hiện lần đầu tiên trên tuần báo Nghệ Thuật tháng
3-1966 tại Sàigòn, với truyện ngắn Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn Tôi. Nhanh chóng
có truyện đăng trên hầu hết các nhật báo, tuần báo, tập san văn học nghệ thuật
có giá trị, trước và sau 1975, trong và ngoài nước.
I.
Một Ngày nọ, âm dương có một lúc thuận hòa, Bà Mẹ đẻ ra tôi. Sống riết với nắng
mưa, bầu trời trên kia, mặt đất cỏ hoa sông nước bốn bề, tôi xem thiên nhiên
cũng là một bà mẹ, Mẹ nuôi. Mẹ đẻ, mẹ nuôi, mẹ nào cũng muốn con mình sống cho
dài lâu, nương theo tối sáng mà sống, dù cõi người chẳng thiếu cái lênh đênh.
Đầy hy vọng, chen chúc lòng thương yêu, Mẹ ru tôi bằng một nỗi buồn, qua những
nỗi buồn ca dao. Đêm trăng tháng Giêng năm 1937, tôi nằm nôi. Mẹ đã ru tôi bằng,
những, // Chiều chiều én liệng truông Mây / cảm thương chú Lía bị vây trong
thành // Quê hương tôi 1937 hãy còn trong lành, nhân gian hãy trong tinh mơ
ngày mùa // Cái cò cái vạc cái nông / sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò // Có một
thuở, một thân cò mong manh dẫm trên một thân lúa đã là điều không may cho dấu
chân. Là không nên dẫm đạp cái Sống.
oOo
Vào tuổi trưởng thành, anh em “chúng nó” lên đường. Mỗi kẻ một phương trời. Thật
ra, về chỗ xưng hô giữa con người với nhau, cực chẳng đã mới đụng tới hai từ
“Chúng nó”. Nhưng những người con của mẹ cha âm dương thuận hòa, đã từ lâu rất
thù nghịch nhau. Thuận tay thì anh này bấm cò súng vào ngực anh nọ; sẵn dịp bác
nọ rút mã tấu phụp cần cổ chú kia, tỉnh bơ như chặt trái mít trái dừa trên
cành. Cho nên, chỉ lúc nào bình tâm nhất, khi hận thù như thủy triều rút cạn, họ
mới dùng hai từ hiền hòa nhất, “Chúng Nó”.
Khi cần thiết, chúng sẵn sàng moi móc tổ tiên ra để sinh sự. Dành dụm, tích góp
không biết bao là sinh linh, chung tay góp vốn điêu linh, để cho “Tháng-Ngày”,
vốn là cái bình thản vô danh, bỗng đích thực trở nên đáng ghi nhớ, đáng gọi tên
và dán nhãn hiệu, Tết Mậu Thân 1968.
Tên Gọi này sẽ sống rất lâu dài, cùng trường tồn với Sử Việt. Dòng máu từ vết
thương này chảy hoài. Buổi khuya một mồng Tết, mẹ dùng băng bông quấn chặt,
sáng mở ra, vẫn chảy. Mẹ cho uống mấy viên thuốc đông máu, băng bó lại, chiều mồng
Ba Tết mở ra, rằm tháng Giêng mở ra, vẫn chảy. Dòng Đỏ ấy chảy lai láng, miệt
mài, không biết mỏi mệt. Như đứa con hoang, đi theo con đường hoang mị, quên mẹ
cha, quê nhà, mái tranh giếng nước, để quay về.
Chúng ta có thể soi gương vào một buổi chiều, khi nắng đã dần tắt bên ngoài, và
căn phòng chưa bật sáng ngọn đèn. Trong rơi sót ánh hoàng hôn, đã thấp thoáng
trong ấy, chiếc gương soi, khuôn mặt của mình. Một nám màu-mậu-thân, một dị dạng
nhân tình. Những mắt đen nhòa, những miệng không ra miệng mồm. Mậu Thân đã xa lắm
rồi. Nhưng, mãi là bóng hình trong mảnh gương hoàng hôn khi chạm mặt.
Chạm mặt, tôi bị động kinh. Tôi triền miên điên dại một thời. Văn chương tôi
cũng chẳng hề tỉnh táo. Thưở này, tôi viết tâp truyện “Ai Tỉnh Ai Điên”, Nhà
Trí Dũng xuất bản 1969. Bọn chữ nghĩa thất cơ lỡ vận, xiêu đổ xuống thác ghềnh.
1968. Mặt thật mặt giả nhìn nhau là rất lẫn lộn giả/thật. Mỗi mặt người, mỗi mặt
nạ to bằng cánh đồng cỏ. Có những chiếc cầu quê nhà giống như con khủng long bị
bom mìn chặt làm ba bốn đoạn, thịt da hoen rỉ. Cầu Hiền Lương, hiền và lương.
Dòng nước chảy chân cầu chia đôi Nam-Bắc hai màu đục-trong khó thể phân biệt,
dù cùng lúc dưới bóng mặt trăng mặt trời. Nói chung, vạn vật nơi đất nước tôi
cư ngụ, lúc này, như đồng loạt đầu thai vào một đám côn trùng.
oOo
1968. Đây cũng là thời tôi sống trong cực điểm cuộc Nam-Bắc phân tranh, một cuộc
chiến ngay cái tên gọi đã không mấy vui. Rất hao phí sức khỏe giữa những người
cùng bào thai mẹ.
Đang có một nguồn bấn loạn đại đồng lớn rộng từ “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa”, cho
chí “Năm Căn, Cái Nước, nắng mưa mỗi mình”. Một cái xương gầy hình chữ S bị bẻ
cong rệu rạo. Chuông mõ đánh phá, ruồi nhặng tâm não. Tôi đang trong thời cuộc
này. Tôi, một thành phần rất lăng nhăng, nhưng không thể vắng mặt chỗ Nồi da
xáo thịt.
oOo
Hình minh họa của Họa Sĩ Ann Phong.
Đầu Xuân 1968. Cuộc hành hình “Mang lại thành tích cao nhất” trong các cuộc đại
hành hình trên toàn cõi Đại Cồ Việt, từ cổ chí kim, chính là pháp trường Huế.
Nơi, có trường Quốc Học, trường Văn khoa, tôi đã từng lai rai học. Nơi có những
con đường cây cao bóng mát, mùa hè ve rỗng ruột ve kêu. Đặc biệt hơn, Huế là
nơi mẹ tôi đang nằm dưỡng bệnh, và, mẹ bất ngờ một thân một mình, rời
bỏ bệnh viện. Mẹ đã trở lại khu vườn quê để chờ một ngày xuân khác.
Dù mùa Xuân này tôi đang ở một nơi rất mực chia lìa, Trung đoàn 10 Thiết giáp,
trấn đóng tại một vùng biên giới Việt Miên, thị trấn Đức Hòa, tôi vẫn rất gần
gũi, thậm hình dung ra một kinh thành Huế. Trong những chiều tưởng nhớ, những
khuya khoắt giấc mơ bị băm/chặt, tách lìa bởi những tràng pháo, ánh hỏa châu một
đám mắt khuya lơ láo lững lờ rụng dần xuống chân trời đêm, Huế trong tôi, là đều
đều trái rụng.
Một mùa trái rụng, toàn đầu người.
Trong sân trường, bãi cỏ công viên. giữa miếu đền, người người Miền Nam đầu não
đang rực rỡ tinh khôi, bị kẻ thù xem là đầu kia đã thiu thối, đã sâu bọ xài,
chung chung là cần cấp tốc chặt bỏ.
Trong những cái hố đào vội, đầy những mương đất sâu lút đầu người, là bao la
trái rụng. Trái tóc bạc, trái đôi mắt thanh xuân, rất mực thì thầm, trái tỏa
hương, khi bầu trời bên trên là bùn đất đã dần dà lấp đầy hố người.
Tôi xa Huế cũng lâu, nhưng những tiếng nổ còn vọng lại, rất gần. Vật vờ hồi
kinh tụng. Tiếng mõ chùa thiêng. Nghe cả tiếng người mò mẫm tìm nhau, sờ soạn
vuốt mặt nhau, trong một thế giới kín đen của tuyệt vọng.
oOo
Huế ngày xưa, những ngày Kinh đô - càng lui về ngày cũ bao nhiêu Huế càng đẹp bấy
nhiêu. Một cõi mờ mờ ảo ảo, lạnh và nồng, Huế có đó mà lung linh như huyền tượng
trong mơ xa.
Hình như Huế được làm bằng sương mai khói chiều. Trong ký ức tôi, Huế được bỏ
trong cái nồi quê, mẹ nấu, để các con ở xa thấy Huế qua làn khói. Khói không muốn
bay. Rồi khói lơ lửng lên trời. Có thêm nắng hoàng hôn thì nhớ thương tắt thở.
Ấy là một Huế-nguyên-bản, đã được cất giữ trong chiếc hòm son dĩ vãng. Huế-bản-sao
của Hôm nay đã rất khác. Chừng như cái máy photocopy của thời thế, đã quá cũ, bản
sao kia nay có phần lem luốc.
III
Một ngày cuối năm âm lịch, mẹ tôi trở lại làng quê. Không hiểu làm sao mẹ đang
nằm chữa một căn bệnh hiểm nghèo tại Viện Bài Lao, mẹ lại bỏ giường bệnh ra đi.
Không trở về khu chợ nhỏ, nơi mẹ có một cửa hàng tạp hóa. Mẹ về thẳng làng quê
nơi có ngôi nhà thờ thừa tự tổ tiên.
Nơi đây hãy còn một gian nhà ngói loại nhà rường cổ, những cánh cửa, cột kèo gỗ
được chăm trổ khá tinh vi. Những chân cột cao to đều được táng trên một viên
đá, loại đá núi Ngũ Hành Sơn, hình tròn, màu xám xanh. Theo chiều dọc những
hàng cột xưa kia treo nhiều câu liễn gỗ, chữ nho, mặt chữ được thếp vàng. Thời
kháng chiến chống Pháp, loại liễn đối bằng phẳng này thích hợp cho việc dựng
chung quanh hầm trú ẩn, hầm được chắc và sạch sẽ.
Khu vườn rộng thênh, lúc mẹ trở lại, gần như một vườn hoang. Bàn thờ tộc ba
gian từ lâu rất thiếu khói hương. Bọn con cháu “có máu mặt” chẳng còn đứa nào
cư ngụ trong vùng quê tranh chấp này. Thỉnh thoảng có một đứa về thăm quê nhưng
người ta khiêng nó về trong áo quan.
o0o
Không hiểu làm sao mẹ mang chiếc thân già nua xanh xao trở về. Mẹ bị lao phổi
thời kỳ cuối, ho xuất huyết thường trực. Một ngày lau năm bảy cái khăn ướt đỏ.
Chỉ một người cháu gái bà con đi theo chăm sóc. Không một đứa con nào bên mẹ
cho tới lúc mẹ qua đời.
Mẹ trốn viện. Có thể trời cuối đông làm mẹ nhớ những ngày kỵ giỗ, chạp mả. Mẹ
nhớ nắng, nhớ khói hương, nhớ những nụ hoa nở trong ngày xuân vườn nhà, thuở an
bình.
Khu vườn rộng, rất nhiều lá rụng lâu ngày chẳng ai thu dọn. Ngôi nhà thờ lạnh vắng
đầy những mạng nhện, và bầy dơi chiều. Tiếng vang trong hoang vắng làm mẹ rất
buồn.
Mẹ bắt đầu thuê người quét dọn vườn, dặm lại những khoảng bờ rào nghiêng đổ, sửa
lại hai cánh cổng vườn đã nghiêng ngả, lau chùi sạch sẽ lư hương, bàn thờ, những
cánh cửa, rui mè trên sườn nhà.
Hãy còn hàng cây cau. Từ lâu những gốc trầu đã chết mất xác. Mẹ nhờ người trồng
chỗ mấy gốc cau mấy dây trầu, lòng mong được thấy chúng bò lên thân cau, mong
được thấy lá.
Vườn mùa đông, đầy lá mục và trái rụng, có xác chim. Nhìn người làm thuê đốt một
ít lá úa, củi mục trong vườn, mẹ thấy trong khói là nỗi nhớ. Năm bảy ngày, tuy
quạnh quẽ, mẹ thấy đời sống tĩnh lặng, bình yên hơn cảnh đời nơi phố thị.
oOo
Hình minh họa của Họa Sĩ Ann Phong.
Mẹ chỉ biết đến vậy. Mẹ nào hiểu khu vườn mẹ hướng về con đường cái quan, cách
chỗ mẹ non cây số đường chim bay, trên vùng đồi cao Tuần Dưỡng là một căn cứ
quân sự rộng lớn. Quanh đấy nhiều đơn vị bộ binh, pháo binh, thiết giáp. Đồn
lũy sầm uất những khẩu trọng pháo, xe tăng.
Ngược lại, về hướng biển là một vùng thôn quê rộng lớn dọc miền duyên hải, quân
du kích đã kiểm soát. Vùng đất này toàn cát trắng, nằm kẹp giữa bên kia là biển
đông, bên này là con sông Trường. Diện địa này rất thuận lợi là những mật khu.
Mất dần quyền kiểm sóat, những cơ quan làng xã trong vùng chỉ còn là hình thức.
Hoạt động cầm chừng vào ban ngày. Ban đêm toàn bộ viên chức cùng những lính dân
vệ, mạnh ai nấy đi, về quận lỵ trú túc cho an toàn qua đêm.
Quân du kích ban ngày vắng bóng, nhưng về đêm từ những chỗ bí mật chui lên. Đã
phần nào qua cái thời kỳ đầu trần chân đất, thiếu vũ khí, chỉ gây hấn để lấy tiếng
vang chính trị, bọn họ nay được quân tăng viện, cùng vũ khí từ ngoài kia chuyển
vào. Đã có những trận tập kích đoàn xe quân sự, hoặc đánh vào những thị trấn nhỏ
giữa ban ngày. Quân lâm trận chết đầy mặt đất dưới lằn đạn của từng bầy trực
thăng nã xuống. Phương Bắc dùng biển xác người thí nghiệm, để rút kinh nghiệm
cho những trận địa mang tính quy ước, trong/trên đường phố, sẽ diễn ra về sau.
Quanh mẹ là chiến trường. Mẹ không bao giờ hiểu mình đang nằm chính giữa hai diện
địa thù nghịch. Chúng có thể nã đạn pháo qua về, đường đạn sáng lòa ngay trên
vườn mẹ.
oOo
Đêm định mệnh đã đến. Nhang cúng trên bàn thờ tàn, chừng hơn giờ sau mẹ thắp tiếp.
Mẹ nghĩ đó là cách tiếp đón ông bà trên bàn thờ ba ngày Tết. Lúc nào cũng thường
trực có ánh đèn lạp, khói nhang thơm. Mẹ ngồi một mình trong đêm, cùng một đứa
cháu qua ngủ cùng, Cho Bà vui.
Khởi đầu là những tràng pháo kích từ phía biển, miệt Trà Sơn lên đồn lũy Tuần
Dưỡng. Trận công đồn của đêm ấy, là để yểm trợ cho cuộc tổng tấn công, hỏa lực
mạnh, mở đầu chiến dịch chiếm cứ, khắp miền Nam.
Những tiếng ầm vang của pháo cối từ hướng mật khu ven biển làm mẹ thức giấc. Rồi
liên tiếp, hung dữ lằn đạn, từ đồn lũy hướng tây trả lời. Thông thường bên
ngoài nã vào một loại súng cối, thì trong đồn lũy “trả lễ” năm bảy tràng đại
pháo.
Rõ thực, không phải pháo qua về trong đêm như Bắc-Nam từng trò chuyện bấy nay.
Đầu Xuân này là “Tao-Mầy” phải chết sống cho ra trò. Mẹ nghe rõ cả tiếng hò
thét tấn công đồng loạt như cùng lúc phát ra từ hàng nghìn cổ họng. Bầu trời
khuya lạnh lẽo, bỗng sáng rực những chùm hỏa châu.
Đạn phía nào cũng rít bay qua làng xóm mẹ. Sáng rực trời đêm. Phía đồn lũy
cháy. Phía xóm làng khai hỏa tấn công cháy. Đạn lạc rơi khắp nơi. Tiếng máy bay
gầm rú, tiếng động của chuyển quân, tải thương từ phía rừng ngoài bìa làng, vọng
lại khá rõ.
Mẹ một mình trong đêm, quá sợ hãi, mẹ ho nhiều tràng, máu bắt đầu trào ra miệng.
Mẹ lăn từ giường xuống đất, cố bò đến nấp dưới bàn thờ.
Một căn hầm trên nóc được đắp vài lớp bao cát đạn pháo ấy vẫn xuyên thủng,
nhưng mẹ không có gì trên đầu, mẹ quên phải thuê người đào một căn hầm trú ẩn.
Đêm khốn cùng, có thể mẹ nghĩ chui dưới gầm bàn thờ mình từng khói hương kia sẽ
có ông bà che chở.
Mẹ chết từ lúc nào trong đêm chẳng ai hay biết. Khi bà con hàng xóm biết ra đã
lúc trời rưng rưng sáng ngày hôm sau.
Đứa cháu gái bé nhỏ vẫn chưa hết hoảng sợ, ngồi tê cứng như một xác chết nơi
góc phòng thờ. Áo quần cháu lem luốc vì hai bà cháu ôm nhau bò lê quanh quẩn, từ
giường ngủ tới cửa, cửa đóng kín, lại men vào. Đèn lạp trên bàn thờ đã tắt ngấm.
Trong bóng tối, qua ánh chớp của lửa đạn, của hỏa châu bên ngoài, mẹ vừa ngất xỉu
vừa cố mò mẫm bò. Cái lóe sáng từng hồi ngoài không trung như thần linh đang chỉ
lối.
Biết được “con đường” mẹ bò lê trong đêm đen, từ chiếc giường ngủ tới chỗ bàn
thờ đã xiêu đổ, là nhờ những dòng máu quạnh quẽ, chỗ đậm chỗ nhạt, trên nền
nhà. Đó cũng là con đường mở rộng, phóng lớn dấu vết được nhận ra, của những kẻ
thân yêu từ Bắc về Nam, là những xác người, những chịu đựng khổ đau, trải từ
Lăng Ba Đình tới thềm nhà của mẹ.
Mẹ này là Mẹ của tôi.
Hình minh họa của Họa Sĩ Ann Phong.
IV
Viết/Nói về mùa Xuân, gặp gỡ chuyện trò trong ba ngày Tết, phải rặt là những điều
vui hạnh phúc, lời chúc nhau đẹp đẽ nhất. Phải trình diễn với nhân gian một thần
thái an bình, từ cõi lòng rộng mở rất mực. Chẳng ai nở kể lể, than van những nỗi
đau, điều bất tường, bao rủi ro chịu phải, trong phận người. Có nên vậy không?
Quả thật là đúng như vậy sao? Chúng ta có dối trá với lòng dạ chính mình không?
Hãy ngồi lại với nhau, chiều nay, đêm này, cùng nhau chọn tìm ra cho được, dù bất
cứ đâu đó, đầu non góc biển, nhiều chục năm qua, có được một Hạnh phúc, một Niềm
vui, đúng nghĩa Một Niềm Vui Chung, cho toàn thể người người đó đây, không phân
biệt Tả - Hữu - Bắc - Nam.
Ngay lúc này đây, Xuân về, trước khói hương tổ tiên, hằng triệu người lưu lạc,
hàng triệu người còn trong nước, đang trong giờ giỗ kỵ cha mẹ anh em, thương
xót những số phận không may, đã không còn quanh đây, nhưng họ chưa, “Chưa hề được
yên nghỉ” trong các mồ chôn tập thể, giữa biển Đông, dọc dài trong lòng Trường
Sơn. Ta có thể cùng nhau thắp nhang cả trên mặt biển.
Và. Cũng là ngay trong giờ phút này đây, trên quê hương này đây, ngoài kia là
tượng đài, là cổng chào cờ xí, hàng nghìn bàn tay nâng cao ly rượu mừng, “Kỷ niệm
năm mươi năm chiến thắng Tết Mậu Thân”. Hãy mừng và hãy uống, dù tự đáy lòng một
ai đó le loi trong ấy, biết là rượu này được chưng cất từ những xương máu anh
em, từ những núi đầu lâu người vô tội.
Hãy tìm cho tôi một Ngày Vui, để chẳng còn lòng dạ nào nhắc tới nỗi buồn.
Văn chương tôi chưa hề siêu thoát.
Tôi có quyền mơ tưởng. Rồi sẽ có một ngày, có đúng nghĩa một Ly Rượu Mừng, cho
khắp cả. Sẽ có một dòng chảy bao la, đồng điệu, nối liền những thành tâm. Là từ/của/bởi
các thế hệ trong mai sau.
Hãy còn đầy mù sương. Quá vắng niềm tin. Tin vậy, cũng hơi liều.
Cung Tích Biền
Bolsa, tháng 11, 2017