Chạy xích lô, nghề kiếm sống của nhiều người sau năm 1975.
Thằng thật tài ba thì đạp xích lô.
Còn thằng giàu cha là thằng ma cô.
(Bạn Bè Của Tôi- Nhạc sĩ Phan Văn Hưng)
Chỉ vài ngày sau khi Việt Cộng vào Sài Gòn, đầu xóm nhà tôi
trong cư xá Quân Đội, thiên hạ đã nghe tiếng trống lục bục của ông Tàu thợ nhuộm.
Dân trong cư xá xếp hàng dài. Cả nước nhuộm đỏ rồi thì áo quần lính phải nhuộm
đen để xóa hết tàn tích cũ, kể cả áo quần lòe loẹt xanh đỏ tím vàng. Cách mạng
là vậy, hết thời của áo dài tung bay, tóc uốn và sơn móng tay, Sài Gòn không
còn tiệm uốn tóc, tiệm áo dài cho phụ nữ, và ở một vài con phố, nghề làm dép
râu bắt đầu thịnh hành. Hồi ấy vỏ xe vứt đầy đường, những người thợ khéo tay đẽo
gọt, cắt mài, bắt đầu ăn nên làm ra.
Thành phố “Hồ Chí Minh quang vinh” có hai cái nghề ít vốn,
không cần học vấn, không cần sức khỏe và mạt hạng nhất là cái nghề mở quầy bán
thuốc lá lẻ kiêm vé số dọc đường hay nghề bán xăng lẻ. Nghề sau này chỉ cần
chưng ra đường một cục gạch hay một cái chai không, trong khi xăng pha dầu hôi
thì dấu trong bụi cỏ bên đường.
Không chịu ngồi một chỗ, ngại chuyện công an thường trực quấy
rầy, đến xin đểu vài điếu thuốc lá, thì làm nghề bán vé số lưu động. Ngày nay
đó là nghề của thương binh VNCH, của những người không có sức lao động, thuộc
giai cấp vô sản, nhưng trong thời gian sau năm 1980, đây là nghề của những người
vợ tù tập trung dưới chế độ Cộng Sản, hay những người mới ra khỏi nhà tù, của
những người nghèo khổ về từ những vùng kinh tế mới và là nghề của những người
miền Nam thất thế, thua trận.
Xót xa khi thấy những người vợ tù, không thiếu vợ những sĩ
quan cao cấp ngày trước, cầm xấp vé số đi bộ suốt ngày, dưới cơn nắng chói
chang, đến những quán cà phê, quán nhậu đang mọc lên như nấm thời XHCN, để mời
mọc, năn nỉ những vị khách đang ngồi gác chân lên bàn hay mặt mày đỏ gấc để có
thể nghe những lời cợt nhã chướng tai.
Từ những quán ăn lề đường, Sài Gòn có thêm nhiều nghề không
phân biệt cho người lớn hay trẻ con, đó là nghề bán bánh tráng, bánh phồng tôm,
đậu phụng cho dân nhậu.
Nói đến nghề thời đại đổi đời, chúng ta không khỏi thán phục
những sĩ quan “phu nhân” nay đã phải gánh nặng trên vai kiếp người vợ tù. Tôi
đã gặp vợ một vị trung đoàn trưởng đạp cái xe “ba-gác” vào xóm lanh lảnh tiến
rao mua ve chai, hay vợ anh trung úy lang thang chốn Chợ Trời, vắt mấy cái áo
quần cũ trên vai, miệng luôn luôn hỏi khách qua đường: “Có gì bán không?”
Đến nhà thờ Đức Bà và nhà bưu điện mới thấy hôm nay có nhiều
nghề, đó là nghề viết đơn mướn, nghề dịch thư và tràn lan trước cửa bưu điện
hay trước các trường học là nghề bơm bút bi mà xưa ta gọi là bút Bic hay “bút
nguyên tử.” Ngày nay ai cũng có thể có một cây bút bi, đôi khi cây viết chưa hết
mực người ta đã vứt vào sọt rác, nhưng cái ngày “thống nhất” ấy, cây bút bi hết
mực thì phải mang ra nhờ cái ông bơm mực để còn dùng tiếp. Vỏ bút bi thì không
kiếm ra được, nhưng mực thì có thể chế biến từ phẩm màu, dầu nhớt và các nguyên
liệu bí hiểm khác.
Tan hàng vì thất trận, cả sau năm bảy năm tù, người lính,
người tù cũ ai cũng có nghề nghiệp và cũng chẳng ai thất nghiệp, dù bữa đói bữa
no, vì “đói thì đầu gối cũng phải bò!”
Người còn chút sức lực thì đạp xích lô, chạy xe ba-gác. Lái
máy bay thì phải có bằng học tận bên Mỹ, còn lái xích lô thì không cần, ở đầu cầu
Trương Minh Giảng thấy một ông đại uý phi công quen biết đang chờ khách.
Gặp ông Dương Hùng Cường cũng vào nghề xích lô, nghe ông
than: “Ế khách, thì trông cho có khách, khi có khách thì mừng nhưng có bữa đói
quá, đạp lên dốc không nỗi!” Nhà văn Đặng Trần Huân có sáng kiến trải một tấm bạt,
bán sách chuyện bằng tranh cho trẻ em trước cửa một trường tiểu học. Trong khi
bò tới đằng trước để lựa sách cho trẻ em, thì có thằng thất nghiệp đến đỡ nhẹ
cái xe đạp sau lưng ông.
Gặp một thằng bạn cũ thời trung học, một thời hải quân, nay
bưng bánh xèo trong một quán ở Trần Quý Cáp. Anh bộ binh thì có nghề đi bỏ mối
cà phê, có cà phê bắp uống mệt nghỉ.
Buổi sáng trong cư xá, nghe tiếng rao bánh mì, gọi mua mấy ổ,
làm quen, mới nhận ra nhau là chiến hữu, mới đi tù về.
Có anh cùng khóa Thủ Đức, đi tù về hành nghề xe ôm ở Bến Bắc
Mỹ Thuận ròng rã 12 năm từ 1982 cho đến năm đổi đời 1990 được leo lên máy bay
đi Mỹ theo diện H.O. Thời gian lái xe tăng bằng thời gian lái xe ôm. Chị Thiếu
Tá Cảnh Sát thì mở quán cóc cà phê đầu xóm, có anh chiến sĩ xuất sắc nay chịu cảnh
bán trà đá ngoài bến xe.
Một hôm, gặp một người quen cũ thời còn chung nhà trọ học ở
Sài Gòn, nguyên giáo sư đại học Quảng Đà, đang bơm bong bóng cho bọn trẻ ở đầu
đường. Cái bình hơi nặng, lớn hơn cả thân hình còm cõi của anh trên chiếc xe đạp
cũ, lắc lư mỗi khi anh nhấn ga đạp đi. Ông bạn quân cụ gần nhà thì có sáng kiến,
sản xuất nước tương sống qua ngày, sau này bạn bè gặp nhau vẫn nhắc bạn còn sống
nhưng đã “chết tên:” “Minh Nước Tương.”
Cũng với cái nghề của bạn chúng tôi có những cái tên đã
thành quen thuộc như “Hoàng Cháo Lòng” hay “Thư Nước Mía.” Thằng bạn học thời
niên thiếu, mặt sạm đen vì nắng, vẫn thường gặp nó đứng ở đầu đường chào khách
trên chiếc xe honda cũ: “Ôm đi Anh?” Ông bạn Thẩm Phán – Nhà Thơ của tôi sống bằng
nghề làm và bỏ mối ô-mai.. Tuổi ô-mai đã qua, mà đời thì quá đắng!
Ông BĐQ nổi danh Vương Mộng Long được gọi là “Long Xe Thồ.”
Trước đó ông cũng trải qua một thời đào thiếc, tìm vàng trên cao nguyên. Long có
những người bạn đi tù về, Thiếu Úy HQ làm nghề hớt tóc, Thiếu Tá Cảnh Sát làm
nghề dạy Anh Văn lưu động, Phó Quận Hành Chánh mưa nắng rong ruổi trên mọi ngả
đường: “Ai mài dao, mài kéo đây…ây ây!” Một ông giáo sư trung học hành nghề kéo
nước ngọt từ giếng, xách về cho dân tắm biển Vũng Tàu.
Cũng xin kể vài chuyện “nghề” của tác giả bài báo này. Từ thời
đi học đến nay đã trên 80, đã mang nghiệp “báo đời,” nên đã được đời đưa đẩy
vào nghề bán báo. Tôi và ông bạn già Đỗ Tấn, nguyên Chủ Bút “Mùa Gặt Mới” ở Huế,
cũng là người ở bên kia trở về, thời VNCH là Giám Đốc Đài Phát Thanh Huế. Biết
Cộng Sản quá nhiều, ông chạy vào Sài Gòn, hủy bỏ tất cả giấy tờ, xóa bỏ lý lịch
của mình. Hai anh em chung nhau một cái xe báo “di động” trụ ở lề đường trước cổng
bệnh viện Chợ Rẫy, gần một bà bán cơm, và một bạn trẻ làm nghề sửa xe đạp, tất
cả đều mang tội chiếm lòng lề đường. Mỗi lần công an bố ráp mới thấy cảnh khổ của
nhau. Bà bán cơm thì cơm đổ, ông bán báo thì báo rơi!
Hết nghề báo, tôi chuyển nghề ảnh, mở một quầy ảnh nhỏ trên
đường Lý Thái Tổ, làm ảnh và tráng phim gia công, đi chụp ảnh đám cưới, sinh nhật.
Có hôm đi chụp ảnh đám cưới, bị tuột phim mà không biết, khi cô dâu chú rể đem
một cọc tiền đến lấy ảnh, tôi trông mặt đất lúc đó làm sao nứt ra mà chui xuống
cho xong. Đi chụp ảnh sinh nhật cho trẻ con, thì gia chủ chỉ mướn chụp 5 kiểu
(poses) thôi, nhưng vừa đưa máy lên thì thằng bé khóc ré. Thế là vác máy lủi thủi
về nhà.
Cũng có lần đi chụp đám cưới cho nhà một cán bộ VC, đến ngày
đem ảnh giao cho bà mẹ cô dâu, bà này nhất định đòi bớt tiền, tôi không chịu.
Dưới gầm bàn, bà ta kẹp lấy đôi chân khẳng khiu của tôi, siết mạnh, với một sự
thương thuyết quyết liệt rất là “Việt Cộng cái.” Tôi ghê tởm, đứng dậy, nghĩ
chuyến này coi như lỗ vốn. Cuối cùng, biết không thuyết phục được, bà ta đã
giao đủ số tiền, nhưng bản mặt không hề thấy có chút ngượng ngùng.
Cũng còn liên quan đến chuyện chụp hình. Theo yêu cầu của một
người quen ở Mỹ, nhờ tôi xuống Cầu Mới- Vĩnh Long đến nhà vợ anh chụp mấy cái
hình sinh hoạt gia đình. Sau khi chụp cho cô vợ mấy tấm hình chèo ghe trên rạch
và đứng trước mấy rặng tre, vừa về đến nhà thì nghe tiếng chó ngoài sân sủa
ran. Công an xã, tay súng tay hèo tới nhà: – “Ai mới chụp hình ngoài sông!”
Tôi bị công an dẫn đi cùng với tang vật (cái máy ảnh Petri 7
và cuốn phim nằm trong máy,) lên đồn công an! Công an hoạnh họe đủ điều, không
ghép vào tội gián điệp chụp ảnh cho Mỹ nhưng tội chụp các cơ sở của xã mà không
có phép, vô tình hay cố ý khi chụp kho lúa của Hợp Tác Xã? Tôi nằm trong đồn
công an mấy ngày mà như nằm trên đống lửa, nhất là khi nghe trưởng đồn hôm nay
đi họp trên quận. Con đường vô trại “cải tạo” lần nữa coi như cầm chắc trong
tay. May mắn, gia đình ở Sài Gòn xin được giấy xác nhận hộ khẩu của công an địa
phương. Muốn xin một tờ giấy xác minh phải tốn một con “trút” để cho đồn công
an nhậu. Hôm được thả ra khỏi đồn, tôi đi như muốn chạy, không dám quay mặt
nhìn lui!
Rồi một ngày nọ, công an khu vực đến tiệm ảnh đặt câu hỏi:
“Ai cho phép anh làm nghề này! Anh có biết đây là một nghề cấm những người như
anh làm không?” Nghĩ đến phải “tái cải tạo” thêm vài năm, tôi đã thấy teo! Cũng
là nghiệp “truyền thông!” Tôi đã làm nghề báo chí (bán) nhiếp ảnh, chỉ thiếu
nghề phát thanh ca nhạc đồi trụy (bán kẹo kéo) nữa là đủ!
Thời đổi đời, Sài Gòn có cả trăm nghề mới mẻ, có nghề không
tên mà trang báo này không tài nào kể hết. Cũng không có thời giờ ngồi lại mà kể
cho con cháu nghe, anh em bạn tù thì người quên kẻ nhớ. Câu chuyện hôm nay được
kể lại, mong những người bạn tù năm cũ có dịp nhớ lại chuyện vui buồn của một
thời gian đã qua.
Huy Phương