Sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam vào tháng 4/1975, toàn dân
miền Nam, nếu chậm chân không leo được lên tàu di tản, đều sống trong những
tháng ngày buồn. Nhưng cô nữ sinh 18 tuổi Ngọc Ánh, hơn mọi người, đã phải chịu
cảnh buồn hiu. “Ngày Tháng Buồn Hiu” là tập hồi ký của Ngọc Ánh, con
một cán bộ Việt cộng có vai vế, nhưng không chấp nhận được chế độ mà cha chị đã
say mê tham gia tranh đấu. “Ba tôi là một người Cộng Sản, ông đã tham gia
cách mạng suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp chống Mỹ, các chị em
tôi lớn lên ở Sài Gòn, nằm trong lòng “địch” nhưng cả nhà đều là những chiến sĩ
xung kích trên khắp các mặt trận ở miền Nam cho tới ngày “giải phóng”. Má thì
nuôi giấu cán bộ Việt cộng, các chị em thì làm giao liên. Sau ngày 30/4/75, ba và
chị tôi được đón về từ nhà tù Côn Đảo như những người vinh quang nhất trong
ngày vui đại thắng, gia đình tôi là một địa chỉ đỏ của thành phố với nhiều huân
chương kháng chiến chống Mỹ được treo đầy tường”.
Cô nữ sinh Ngọc Ánh, trước 1975, không ở với gia đình tại Sài Gòn mà được gửi
về Sóc Trăng, trọ tại nhà người cô ruột, cô Sáu, một gia đình có người tham gia
vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm, Ngọc Ánh được
mang về Sài Gòn đoàn tụ với gia đình. Đoàn tụ nhưng không…đoàn kết. Chị lẻ loi
giữa những người thân. Trong một buổi họp gia đình, ba chị đã nhận xét về chị:
“Tư tưởng còn lệch lạc, nặng về chủ nghĩa cá nhân, bản thân cần phải tích cực
rèn luyện để phấn đấu tiến bộ”. Nhưng chị không tiến bộ như ba chị mong muốn.
Sau vài tháng bị bắt buộc làm công tác xã hội, sinh hoạt tập thể vớ vẩn, chị
được chọn kết nạp vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Chị không nhận. Ba chị hét lên:
“Con có biết tại sao con được vào Đoàn không? Nhờ ba, nhờ lý lịch cách mạng của
gia đình mình. Con có biết mọi người vẫn mơ ước được đứng vào hàng ngũ vẻ vang
này không? Có những anh bộ đội đi suốt từ Bắc vào Nam để chiến đấu, đã đổ biết
bao xương máu mà vẫn chưa được kết nạp. Còn con, tại sao con không thấy được
cái vinh quang đó?”. Chị đã bình tĩnh trả lời: “Thưa ba, chính vì con chưa đổ
một giọt mồ hôi nào cho chế độ này nên con không muốn trở thành người Cộng
sản!”.
Không muốn trở thành người Cộng sản, chị bị gia đình từ bỏ. Và chị lội ngược
dòng. Thành hôn với anh Trần Thắng Tài, Ngọc Ánh cùng chồng lo khôi phục lại
một đất nước không Cộng sản. Âm mưu bại lộ, công an xộc vào nhà. “Định vào
nhà nhưng thoáng thấy bóng tên công an đứng ở đầu hẻm, tôi linh tính có gì đó
bất thường, vội rẽ xe hướng khác đạp một mạch ra Ngã Bảy, quanh quẩn hàng giờ
trên đường mà không biết đi đâu, lòng bồn chồn khó chịu khi nghĩ tới Vy Dân ở
nhà một mình, chắc thằng bé đang đói sữa, trái tim tôi như nghẹn lại khi nghĩ
đến những bất trắc sắp xảy ra, phải về thôi dù biết sẽ bị bắt với mớ tài liệu
và cây AK giấu trong bếp (trời dung đất rủi anh mới mang về tối hôm qua, chúng
tôi chưa kịp đem đi). Căn nhà im lặng đến ngột ngạt, giọng má Sáu khe khẽ:
“Công an kêu nó lên phường có chuyện gì đó không biết”. Má không biết nhưng tôi
biết, chấp nhận vào cuộc là đối đầu với rủi ro mà. Tôi đưa Vy Dân cho má và vội
chạy lên lầu đốt tài liệu, không nhiều lắm nhưng có khói, đang tháo cuộn phim
ra thì nghe tiếng chân chạy rầm rập lên cầu thang, bọn chúng đã tới, tôi đá
cuộn phim vào gầm giường. Thế là hết! Mọi chuyện có vẻ như bắt đầu hơn là kết thúc,
không hiểu sao tôi lại nghĩ như vậy”.
Không khó cho công an kiếm được bao súng giấu trong bếp. Cả ba người trong
cái gia đình nhỏ bé của Ngọc Ánh bị bắt. “Chấp nhận cuộc chơi mà, chuyện
thua thắng cũng bình thường thôi, ít ra trong chuyến xe cuối cùng này mình cũng
còn có nhau…Chỉ thương cho thằng bé, nó bị vạ lây vướng vào ngục tù theo ba mẹ
vì không có sự chọn lựa nào khác, nó còn quá bé nhỏ để cảm nhận biến cố đau
buồn này của gia đình”.
Họ bị kết tội “âm mưu lật đổ chính quyền”. Tội không oan vì anh Trần Thắng
Tài đã thực sự dấn thân vì đại nghĩa. Chị Ngọc Ánh biết tất cả công việc của
chồng nhưng thủ khẩu như bình, nhất định không khai dù bị dụ dỗ ngọt ngào hay
quát tháo xỉ nhục. Có lần một anh công an trẻ đã mai mỉa: “Tôi không hiểu sao
một người vừa trẻ, vừa đẹp, vừa thông minh như chị lại lấy thằng cha vừa già
vừa cận thị như tên Tài? Hay là chị mơ ước được làm bà Tổng Thống?”. Chị đối
đáp: “Bởi vậy bây giờ tôi mới ngồi ở đây để nghe ông kết tội vợ tên phản bội!”.
Một ngày 30/4, khi đi khai cung, chị đã quấn khăn trắng trên đầu. Tên cán bộ
hỏi: “Chị để tang ai thế, chồng chị chưa chết mà”. Chị trả lời nhát gừng: “Tang
cho 30/4”. Tên cán bộ lồng lộn quát: “Chị đừng có bố láo nhé, đất nước giải
phóng độc lập tự do hạnh phúc thế này mà tang chế gì?” Chị điềm nhiên đáp:
“Người ta chết như rạ trong ngày này mà không để tang à? Nếu không có mấy ông
vào đây thì làm sao nên nỗi”.
Trong hoàn cảnh tù tội khắc nghiệt, chị vẫn còn đủ bình tĩnh trải lòng với
nước non.
Vì sao miếng cơm ăn vẫn nghẹn
Một nửa còn đau xót người ơi,
Vì sao bát canh rau bỗng mặn
Nước mắt nào thương nhớ không nguôi
Vì sao nụ cười tươi tắt vội
Nỗi tình nhà, nỗi hận nước đầy vơi
Vì sao đường đi không biết mỏi
Khi còn nghe tiếng khóc của dân tôi!
Tháng 7 năm 1981, phiên tòa xử vụ án bắt đầu. Có nhiều thanh niên còn rất
trẻ cũng liên quan vào vụ này. Trên xe ra tòa, họ bị còng chân và tay. Mọi
người nhường cho chị ngồi cạnh chồng. “Tháng bảy trời mưa lâm râm, buổi
sáng sao mà âm u thế! Chúng tôi ngồi im lặng bên nhau, lòng rưng rưng xúc động,
nhìn mắt anh tôi cảm nhận được điều đó, nhưng gương mặt anh vẫn bình thản muôn
đời, tôi nắm bàn tay anh mân mê những ngón thuôn gầy như ngày nào, tự dưng một
ý nghĩ thoáng qua khiến tôi hốt hoảng, có khi nào mình mất nhau không?…Chuyến
xe khựng lại và lúc này anh mới nói với tôi bằng giọng trầm ấm dịu dàng như bao
giờ: “Hãy can đảm lên, rồi con chúng ta cũng sẽ giống như vậy, cố gắng chăm sóc
cho Vy Dân, em còn trẻ nên đừng để phí tuổi trẻ của em, nếu không làm một khán
giả vô tư thì cũng nên làm một nhà phê bình sắc bén, anh xin lỗi đã đưa em ra
khơi và bây giờ phải bỏ em trở về một mình”.
Trong tù anh Tài vẫn hiên ngang bất khuất bày tỏ chí khí của mình. Năm 1980,
anh làm bài thơ sau:
Ta nay thất thế bị giam cầm
Nghiến răng ngậm miệng nuốt hờn căm
Một lòng vì nước vì dân tộc
Sá chi tù ngục chốn ta nằm
Đêm nghe tiếng cuốc chiêu hồn nước
Ngày thấy hoàng hôn phủ núi sông
Miền Nam tan tác, đau lòng khóc
Án tử chung thân, gió thoảng lòng.
Tòa đã tuyên án tử hình anh Trần Thắng Tài. Bản án được thi hành vào ngày
14/6/1982 tại Phan Thiết. Nhiều năm sau, chị Ngọc Ánh đã bốc mộ anh và thiêu
ngay tại chỗ, mang tro cốt về nhà để thờ. Trước khi đi Mỹ, chị đã mang tro rải
trên sông Sài Gòn để anh ra đi thanh thản.
Nuôi con trong tù là chuyện quá vất vả. Mặc dù có những giúp đỡ của các bạn
đồng tù, Vy Dân cũng bị suy dinh dưỡng trầm trọng. “Bỏ thằng bé ở nhà, đi
làm theo tập thể, sáng không kịp cho con ăn, trưa về muộn, thằng bé đói rã
ruột, đành cố gắng vậy, để mẹ phấn đấu mau về, mọi khó khăn hai mẹ con
đều phải khắc phục, dỗ dành mãi thằng bé mới chịu ở nhà. Vy Dân rất
thông minh và hóm hỉnh, nó nghe và hiểu tất cả, có điều nó không nói được, nó
trở thành kẻ tật nguyền từ sau cơn viêm màng não lạ lùng ở tại trại giam, chân
tay lỏng khỏng, không ngồi được, không nhai được, không cầm nắm được, chỉ có
nằm ngửa suốt ngày với hai chân ngo ngoe mạnh mẽ để ra dấu thay cho ngôn ngữ
bằng cái đập chân, chân đưa lên cao là “có”, chân hạ xuống thấp là “không”, mọi
người cứ đặt câu hỏi và nó sẽ trả lời thành thạo, nhưng tôi biết trái
tim nó tràn đầy cảm xúc mà chỉ có mẹ mới cảm nhận ra”. Sau 8 năm ở tù
chung với mẹ, Vy Dân được một cơ quan thiện nguyện Thụy Sĩ can thiệp và mang về
Thụy Sĩ nuôi nấng chữa trị.
Trong bài viết “Ông Già Noel Là Mẹ”, chị đã tâm sự: “ Nhưng điều tôi ân
hận nhất đời là phải đẩy thằng bé vào trong hoàn cảnh khốn khổ
này. Đêm Giáng Sinh đầu tiên trong phòng biệt giam tăm tối ở một tỉnh
nhỏ xa lạ ngoài Trung, tôi nghe tiếng chuông nhà thờ đổ rất gần, tôi
ôm thằng bé đang khóc ngất vì đói sữa mà nát cả lòng “Lạy Chúa con
là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao…” Tôi thành tâm cầu
nguyện theo cái cách riêng của mình để mong Chúa nghe thấy, nhưng chắc
Ngài cũng bận rộn với hàng triệu triệu con chiên đang khốn khổ trong
cái xã hội loi nhoi ngoài kia cần cứu rỗi hơn, nên bóng tối vẫn phủ
trùm quanh đây sự im lặng đáng sợ và tôi lại mơ đến ông già Noel đầy
huyền thoại của tuổi thơ. “Ước gì ông già Noel là có thật để ông
mang đến đây một bình sữa cho thằng bé nhà tôi”. Rồi những năm tháng
lạnh lùng trôi qua trong trại giam, chồng tôi bị tử hình sau đó không
lâu, con trai tôi qua những cơn sốt nặng không thuốc men, thiếu dinh
dưỡng, thoi thóp trong hôn mê kéo dài… Để khi tỉnh dậy thì tay chân co
rút và lưỡi líu lại, một bác sĩ tù nào đó nói với tôi về di
chứng của bệnh viêm não. Tôi tuyệt vọng tưởng mình có thể giết chết
đứa bé và tự tử để thoát khỏi kiếp lưu đày. Nhưng khi nghe tiếng kêu
thét đầy hoảng sợ của con, tôi lại chùn tay bật khóc!.. Gương mặt
ngây thơ của nó đáng yêu biết bao nhiêu, tôi phải sống để giữ lời hứa
với anh ấy là sẽ nuôi dạy nó nên người, cho dù bây giờ hình hài nó
không còn giống như bao đứa trẻ khỏe mạnh bình thường khác, cho dù
chúng tôi đang sống trong sự trả thù hèn hạ của bên chiến thắng,
nhưng tôi không thể dạy nó lòng căm ghét kẻ đã giết cha nó, không thể
dạy nó sự oán hận cái xã hội đã đẩy người dân vào bước đường
cùng. Chưa bao giờ tôi kể cho nó nghe về sự thật đáng buồn của gia
đình mình. Tôi không muốn tinh thần nó bị tổn thương, chịu đựng một
thân thể khiếm khuyết cũng đủ làm đau nó cả đời rồi”. Trong buổi
ra mắt sách, trước cử tọa, chị đã nói bằng một giọng buồn bã nhưng cương quyết:
“Nếu bây giờ phải làm lại, tôi cũng sẽ làm y như vậy!”.
Phần chị, sau khi ra tù, về Bình Dương, nuốt tủi hờn, làm bất cứ việc gì để
nuôi thân, kể cả làm con sen con ở. “Chủ nhà còn rất trẻ, dân Bắc kỳ 75
đanh đá chanh chua, tôi cần tiền nên cũng dẹp tự ái để làm con sen quần quật từ
sáng sớm đến tối mịt mới ngả lưng nằm. Nhiều lúc thấy tủi thân nhưng tôi phải
tập cho mình lòng kiên nhẫn. Một hôm con nhỏ chủ liệng cái quần lót từ tầng ba
xuống thau đồ tôi đang ngồi giặt rồi cười hăng hắc vì “trúng mục tiêu” khiến
tôi nổi giận thật sự. Tôi chửi con chủ te tét rồi xách giỏ đi về, không cần đòi
món tiền lương hèn hạ của đứa khốn nạn”.
oOo
Ngọc Ánh traong buổi ra mắt sách tại Montreal. (06/2018)
Cuốn hồi ký “Ngày Tháng Buồn Hiu” tôi có trong tay ngày chị Ngọc
Ánh qua Montreal ra mắt sách thực ra là hai cuốn hồi ký, mỗi cuốn đúng trăm
trang. Ngoài cuốn “Ngày Tháng Buồn Hiu” là cuốn “Nhật Ký Mực Tím”
mà chị để như là phần phụ lục. “Nhật Ký Mực Tím” nói lên tâm trạng của
lớp học sinh tại Sóc Trăng những ngày sống dưới ách thống trị của Việt cộng từ
Bắc vào. Đó là nỗi lòng của những người trẻ lạc lõng trong nạn nước mất nhà
tan.
Bữa ăn tối ngày 17 tháng 6 năm 2018, sau khi ra mắt sách, tôi ngồi cùng bàn
với chị Ngọc Ánh, định hỏi chị về những ngày tiếp theo nằm ngoài cuốn “Ngày
Tháng Buồn Hiu” nhưng vì chị ngồi đối diện với tôi trên một bàn ăn tròn
mười người nên không tiện hỏi. Khi ra về, tôi mới hỏi được chị về cháu Vy Dân
hiện ra sao. Chị cho biết cháu nay đã 40 tuổi, vẫn ở Thụy Sĩ, mỗi năm chị đều
qua thăm cháu. Cháu vẫn không nói được nhưng nay chỉ hiểu tiếng Pháp. Nhưng khi
chị hỏi bằng tiếng Việt, cháu vẫn hiểu được mẹ, chắc không nhiều. Cách trả lời
của cháu rất đặc trưng. Muốn nói yêu thương ai thì lè lưỡi ra. Yêu nhiều thì
lưỡi dài ra nhiều, yêu ít thì lưỡi chỉ lấp ló giữa môi.
Ngọc Ánh và cháu Vy Dân tại Thụy Sĩ năm 2015
Song Thao, Ngọc Ánh và Nguyễn văn Sâm (06/2018)
Cũng tối đó, ngồi cạnh tôi là anh bạn nhà văn Nguyễn văn Sâm. Chị Ngọc Ánh
là học trò của bạn anh Sâm. Năm chị 18 tuổi, anh có một lần gặp chị tại nhà
bạn, khi đó anh 36 tuổi. Vài chục năm sau, anh từ Mỹ về thăm lại anh bạn và gặp
lại chị. Anh tiết lộ trên hội trường trong buổi ra mắt sách: lúc đó chị gầy gò
ốm yếu, ở trong một chái nhà tồi tàn lụp xụp. Anh không bị ràng buộc chuyện vợ
con, thương hoàn cảnh của chị nên cưới và mang chị qua Mỹ. Tôi tìm được bài
viết của nhà văn Nguyễn văn Sâm: “Hoàng Diệu Và Em”, (Hoàng Diệu là
tên trường chị học và anh dạy học) mà tôi ngờ rằng anh viết về người bạn đời
muộn màng của anh: “Thời gian đăng đẳng với biết bao biến cố đau thương dồn
dập đời em, vậy mà em vẫn đứng dậy, vững vàng, tự tin như chưa bao giờ vấp ngã,
chưa bao giờ gặp bất hạnh. Khi nghĩ về em lúc này tôi nhớ tới câu thơ của ai đó
“….và chắc thế em ơi- em vẫn sống!”. Một lần nữa tôi lại ngả đầu cảm
phục em, em đã kiên cường ở lại, trong khi tôi bỏ nước ra đi…Như một kết thúc
có hậu, lần đầu tiên em làm cô dâu ở tuổi 50, hôn lễ do bạn bè tổ chức, ấm cúng
và cảm động. Hoàng Diệu tuổi trẻ của em đứng đó không xa, đang chúc mừng hạnh
phúc muộn màng, em hồn nhiên rạng rỡ giữa bạn bè, tưởng như quá khứ xót xa chưa
từng dẫm lên cuộc đời em”.
Trước khi tôi đọc cuốn hồi ký “Ngày Tháng Buồn Hiu”, nhà văn Võ Kỳ
Điền, bạn thân của nhà văn Nguyễn văn Sâm, nức nở khen văn của Ngọc Ánh “ấm”
lắm. Anh phụ đề thêm: khi đọc văn, anh cảm nhận được cái “khí hậu” của văn, có
những bài viết “lạnh tanh”, đọc không nổi, có những bài văn “ấm” khiến người
đọc cảm được. Tôi không giấu cái hàn thử biểu trong người nên không cảm thấy ấm
hay lạnh nhưng tôi đã bị lôi kéo khi đọc cuốn hồi ký này. Cũng vẫn anh Võ Kỳ
Điền, ngồi cạnh tôi khi cuốn sách được ra mắt, đã phàn nàn là không ai đề cập
tới khía cạnh văn chương của cuốn hồi ký. Quả có vậy. Có lẽ câu chuyện can
trường của một thiếu nữ đi ngược lại thời thế, gạt đi những đặc quyền đặc lợi
của một gia đình “cách mạng”, anh dũng cùng chồng chống lại chế độ, chấp nhận
tù đầy trong 10 năm trời, là một hy sinh cao quý, đã làm mờ đi phần văn học của
tác phẩm.
“Ngày Tháng Buồn Hiu” được viết với một nhiệt tình hiếm có nên suốt
cuốn hồi ký là những trang sách hừng hực sự kiện. Có những lúc quá bực tức khi
phải sống trong một nơi chốn mà sự dối trá, bịp bợm lên ngôi, đã khiến tác giả
không cầm lòng được phải lên tiếng…chửi thề. Tác giả đã “tiên sư anh” hoặc “sư
khỉ” hoặc “mồ tổ cha nó” khi chứng kiến trò hề gọi là bầu cử dưới chế độ Cộng
sản. Rất nhiều chỗ trong sách, tác giả phải chạy theo những sôi nổi do uất ức
tràn đầy nên dùng những câu viết dài với rất nhiều dấu phết. Câu văn không dừng
lại được bằng những dấu chấm cách đoạn. Điều này chứng tỏ cây viết của tác giả
chấm hơi sâu vào bình mực, một thói quen của những người mới viết hoặc chưa
quen viết. Nhưng khi kể lại một đoạn đời nhiều truân chuyên, người ta có cần
phải trau chuốt câu văn không, tôi nghĩ là không. Chính cái thô nhám của những
dòng chữ đã chứng tỏ sự trung thực của tác giả. Sự trung thực đã phả hồn vào
chữ nghĩa khiến người đọc không rời được cuốn sách một khi đã đọc những dòng
đầu. Chất văn học nằm trong cái tinh ròng của một mảnh quý kim chưa mài dũa.
Nhìn khuôn mặt không hề có lửa của Ngọc Ánh, tôi không hiểu do đâu mà chị có
đủ nghị lực và cương quyết để dấn thân vào một cuộc sống ít người có can đảm
làm được. Mặt nước phẳng lặng không phải là không có những chuyển động cuồn
cuộn bên dưới. Tôi khâm phục con người thức thời và quả cảm này.
Song Thao
06/2018
Quý vị có thể theo dõi "Ngày tháng buồn hiu" của Ngọc Ánh xin click hay tap vào đây.