Trang bìa số báo TIME đề ngày
Nov. 26 / Dec. 3, 2018 có dòng chữ lớn: WHO GETS TO BE AMERICAN? by Viet
Thanh Nguyen.
Nguyễn Thành Việt là nhà văn
Mỹ gốc Việt, viết bằng tiếng Anh, đã đoạt giải Pulitzer về văn học
năm 2016 qua tác phẩm THE SYMPATIZER, và nhiều giải văn học lớn khác
như Andrew Carnegie Medal for Excellence in Fiction, Center For Fiction First
Novel Prize.
Bài tiểu luận AMERICAN LIKE ME
của Nguyễn Thành Việt được đăng trong số báo TIME nói trên. (Ngự Thuyết)
YÊU NÓ HAY RỜI NÓ. Bạn đã nghe một người nào đó nói như thế? Hay
bạn đã nói điều đó? Bất cứ người nào đã nghe năm tiếng đó đều
hiểu nó mang ý nghĩa gì, vì hầu như nó luôn luôn chỉ nước Mỹ. Ai đã
nghe câu nói ấy đều hiểu rằng đấy là một khẩu súng đã lên đạn nhắm
vào mình.
Khi phát biểu câu đó, bạn có
ngụ ý nói với lòng tử tế, với sự đồng cảm, với mỉa mai, với châm
biếm, với hài hước không phải là lối hài hước đầy ác ý? Hay phải
chăng câu nói ấy luôn luôn mang tính đe dọa trắng trợn?
Tôi hỏi là do tôi tò mò thật
sự, vì chính tôi không bao giờ nói câu đó để nhắm vào nước nào hay
nơi chốn nào. Tôi không bao giờ nói “yêu nó hay rời nó” với đứa con
trai của tôi, và tôi hy vọng tôi sẽ không bao giờ nói thế, vì đấy
không phải là loại tình yêu mà tôi muốn có, đối với con tôi hay quê
hương tôi, dù đó là quê hương nào đi nữa.
Tại đất nước tôi đang viết những dòng này là nước Pháp, không phải
là quê hương của tôi, nhưng nó đã chiếm nước Việt Nam nơi tôi sinh ra
làm thuộc địa đến hai phần ba thế kỷ. Nền cai trị của Pháp chấm
dứt chỉ 17 năm trước khi tôi ra đời. Cha mẹ tôi và cha mẹ của những
người khác chỉ biết đó là chủ nghĩa thực dân Pháp. Có lẽ vì sự
kiện lịch sử này mà một phần nào trong tôi yêu nước Pháp, một thứ
tình yêu, trong một mức độ nào đó, bắt nguồn từ tình trạng bị Pháp
thuộc địa hóa về mặt tinh thần.
Vì bị chiếm làm thuộc địa, tôi
không yêu nước Pháp như nhiều người Mỹ yêu nước Pháp, những người mơ
về tháp Eiffel, về ngụm cà phê tại Les Deux Magots, về những món ăn
ngon lành tại Provence. Đấy là tình yêu lãng mạn, được nghe nhạc phong
cầm, được nghe Édith Piaf hát, những thứ mà tôi chỉ quan tâm thoáng
qua. Tôi không thể không nhìn vào di sản của chủ nghĩa thực dân, hiện
rõ khắp nơi tại Paris nếu ta muốn nhìn thấy nó: người gốc Phi Châu,
Ả Rập có mặt tại đây vì Pháp đã từng có mặt tại quê hương nơi họ
ra đời. Lãng mạn hoá cuộc sống của những người đó, thường ở bên lề
của xã hội Pháp, không phải là dễ, đó là lý do tại sao người Mỹ
hiếm khi nói về họ như là một phần của trí tưởng tượng dồi dào vể
Paris.
Trí tưởng tượng thật là cám
dỗ, đặc biệt là bắt nguồn từ lịch sử Việt Nam của tôi. Đa số người
Pháp gốc Việt mà tôi quen biết đều hài lòng, ngay cả khi họ am hiểu
những trang sử bị chiếm làm thuộc địa. Tại sao không? Một người bạn
Ma-rốc ở Paris chỉ vào màu da tôi giống như những người Pháp có tổ
tiên Việt Nam và nói, “Anh là người da trắng ở nơi này.” Nhưng ở Mỹ
tôi không phải là người da trắng, hay chưa phải. Tôi được tạo dựng tại
Mỹ nhưng ra đời tại Việt Nam, và gốc gác của tôi không thể nào tách
rời khỏi ba cuộc chiến: cuộc chiến Việt chống Pháp; cuộc chiến Việt
đánh nhau; và cuộc chiến Hoa Kỳ đánh tại Việt Nam.
Nhiều người Mỹ xem đó là cuộc
chiến cao cả, dù có thể có sai lầm, là tấm gương của thiện ý của
người Mỹ. Và trong khi cũng có một ít sự thật trong đó, nó cũng
chỉ là sự tiếp nối của chiến tranh thuộc địa Pháp, một cuộc chiến mang
tính phân biệt chủng tộc, và đế quốc trên căn bản và trong hành
động. Như vậy, cuộc chiến này chỉ là biểu thị của sự bành trướng
qua mấy thế kỷ của đế quốc Mỹ khởi đầu từ sự ra đời của chính
thuộc địa của nó rồi xuyên qua biên giới, tới miền Tây nước Mỹ, Mễ
Tây Cơ, Hawaii, Guam, Puerto Rico, Phi Luật Tân, Nhật bản, Triều Tiên,
Việt Nam và bây giờ là Trung Đông.
Một cuộc chiến có thể là một
sai lầm. Một chuỗi dài cuộc chiến lại là một khuôn mẫu. Người da đỏ
là bọn khủng bố nguyên thuỷ trong tưởng tượng Mỹ. Sự diệt chủng
người da đỏ do người lập nghiệp da trắng phạm phải là bộ mặt trái
xấu xí của lễ Tạ Ơn, sự kiện đó không hoàn toàn được nhớ lại,
cũng không hoàn toàn bị lãng quên, ngay cả tại Pháp vẫn có hình ảnh
người Mỹ bản xứ trần truồng nửa người, đầu đội nón lông gà. Mấy
thế kỷ sau, ký ức ngấm ngầm của tội diệt chủng –hay trong lễ ăn
mừng cuộc chiến chinh phục – lại nổi dậy khi lính Mỹ gọi lãnh thổ
thù nghịch ở Việt Nam là “vùng đất của Người Da Đỏ.” Bây giờ người
Hồi Giáo là đám tiện dân mới trong khi bọn khủng bố là cộng sản
mới, vì cộng sản cũ không còn là mối đe doạ quá trầm trọng nữa và
mỗi xã hội cần có một Kẻ Khác để xác định những ranh giới và nỗi
sợ hãi về nó.
Nhiều người Mỹ không thích nghe
những điều nói trên. Một cựu chiến binh Mỹ, một hạ sỹ quan, giận dữ
viết cho tôi sau khi đọc một bài tiểu luận của tôi về những vết sẹo
mà người tỵ nạn Việt Nam mang theo. Anh nói, người Mỹ đã hy sinh cho
đất nước tôi, gia đình tôi, và tôi. Tôi phải biết ơn. Khi tôi viết thư
trả lời bảo rằng anh giận dữ như thế thì chỉ làm tổn thương cho
chính mình mà thôi, anh ta lại viết tiếp một lá thư khác càng giận
dữ hơn. Một cựu chiến binh khác, một sỹ quan, nay là nha sỹ và bác
sỹ, đọc cuốn tiểu thuyết The Sympathizer của tôi, gởi cho tôi
một lá thư giọng điệu ôn tồn hơn nhưng mang một thông điệp thẳng
thừng. Anh có vẻ như thích cộng sản lắm, anh ấy nói. Sao anh không
trở về Việt Nam? Và mang theo con anh?
Tôi mệt quá, không trả lời anh
ấy. Lẽ ra tôi phải trả lời. Tôi phải lưu ý anh rằng có lẽ anh chưa
đọc hết cuốn tiểu thuyết của tôi, vì phần cuối cùng của cuốn sách
kết tội những thất bại tai hại của cộng sản tại Việt Nam. Có lẽ
anh không bao giờ bỏ qua chuyện đó vì phần đầu của cuốn sách làm cho
anh bực mình, nó lên án chiến tranh Mỹ tại Việt Nam. Có lẽ anh không
đọc đến phần giữa của cuốn sách, ở đó tôi cũng châm biếm những
thất bại của chính quyền mà tôi là công dân, nước Việt Nam Cộng Hòa,
miền Nam.
Tôi phê bình không phải vì tôi
ghét tất cả những đất nước mà tôi biết nhưng vì tôi yêu những đất
nước đó. Tình yêu ấy quả khó khăn vì lịch sử của những nước đó,
giống như lịch sử của tất cả các nước, rất là phức tạp. Mọi nước
đều tin tưởng vào cái đẹp của chính họ và từ nhãn quan đó, họ
dựng lên những nền văn hóa tốt đẹp, có Pháp trong đó. Tuy nhiên mọi
nước cũng bị vấy bẩn trong máu của chinh phục và bạo lực, có Việt
Nam trong đó. Nếu chúng ta yêu quê hương chúng ta, chúng ta có bổn phận
không phải chỉ tâng bốc quê hương đó nhưng cũng phải nói lên sự thật
về nó với tất cả cái đẹp đẽ cũng như cái bạo tàn, có Mỹ trong đó.
Nếu tôi có viết lá thư trả
lời, tôi đã phải hỏi vị nha sỹ và bác sỹ này tại sao anh ta đe dọa
đứa con trai của tôi, nó sinh ra tại Mỹ mà. Quyền công dân của nó là
hiển nhiên, cũng đúng đắn như quyền công dân của ông nha sỹ, ông bác
sỹ, và ông cựu quân nhân. Và ngay cả khi con tôi được bảo rằng yêu nó
hay rời nó. Cái lối bảo ban đó có mang tính chất Mỹ không? Có. Và
không. “Yêu nó hay rời nó” là hoàn toàn có tính chất Mỹ và, đồng
thời cũng không Mỹ một chút nào, y như tôi vậy.
Khác với đứa con trai của tôi,
tôi phải nhập quốc tịch Mỹ. Tôi có yêu nước Mỹ vào thời điểm tôi
nhập tịch không? Thật khó nói, vì tôi không bao giờ nói “Tôi yêu em,
anh, nó, cái đó ….” với bất cứ ai, kể cả với cha mẹ tôi, lại càng
không nói với một xứ sở. Nhưng tôi vẫn muốn tuyên thệ làm công dân Mỹ
khi tôi là một thanh niên mới lớn. Đồng thời, tôi muốn giữ tên Việt
Nam của tôi. Tôi đã cố gắng chọn nhiều tên Mỹ khác nhau cho thích
hợp. Tất cả đều gượng gạo. Chỉ cái tên cha mẹ đặt cho tôi mới tự
nhiên, có lẽ vì cha tôi không bao giờ thôi bảo tôi rằng, “Con 100% Việt
Nam.”
Bằng cách giữ cái tên cũ đó,
tôi có thể trở thành một người Mỹ mà không quên rằng tôi sinh ra tại
Việt Nam. Nghịch lý thay, tôi cũng tin rằng khi giữ lại tên cũ, tôi
càng gắn bó với nước Mỹ. Không phải nước Mỹ của những người bảo,
“yêu nó hoặc rời nó,” nhưng với nước Mỹ của tôi, một nước Mỹ mà tôi
tự buộc phải nói lên cái tên của tôi, thay vì một nước Mỹ áp đặt
cái tên cho tôi.
Đặt tên cho đứa con trai của tôi
lại là cả một thử thách. Tôi muốn đặt một tên Mỹ nào mà nó có
thể diễn tả được những rắc rối phức tạp của nước Mỹ của chúng ta.
Tôi chọn Ellison, phỏng theo tên nhà văn lớn Ralph Waldo Ellison, chính
ông ta cũng phỏng theo Ralph Waldo Emerson, triết gia vỹ đại. Phả hệ
của con tôi sẽ là đen và trắng, văn học và triết học, Mỹ gốc Phi
Châu và Mỹ. Phả hệ này biểu đạt sự vỹ đại và cũng là nỗi kinh
hoàng của nước Mỹ, nền dân chủ cũng như chế độ nô lệ. Một số người
Mỹ thích tin rằng sự vỹ đại nối tiếp nỗi kinh hoàng, nhưng với tôi,
vỹ đại và kinh hoàng tồn tại đồng thời, vì đã xẩy ra ngay từ khởi
đầu của của lịch sử Hoa Kỳ của chúng ta và có lẽ kéo dài đến tận
cùng. Một cái tên như Ellison nén lại cái đẹp và sự bạo tàn của
nước Mỹ vào bảy chữ cái (Ellison, NT chú thích), kết quả của tuyệt
vọng và hy vọng.
Đây là một gánh nặng đè lên
đứa con cho dù nó không nặng hơn gánh nặng mà cha mẹ tôi đặt lên tôi.
Tên của tôi là tên của dân tộc Việt Nam, mà huyền sử ái quốc đã
chứng tỏ rằng để được độc lập và tự do chúng tôi đã phải chịu
đựng bao nỗi thống khổ qua nhiều thế kỷ. Vậy mà nước Việt Nam ngày
nay có độc lập nhưng thiếu tự do. Tôi không bao giờ có thể trở lại Việt
Nam vĩnh viễn, vì tôi không bao giờ có thể là nhà văn tại đấy và
nói những gì tôi muốn nói mà không bị bỏ tù.
Gia đình tác giả tại San Jose, CA
những năm đầu thập niên 1980
Cho nên tôi chọn tự do của nước
Mỹ, ngay cả vào thời điểm câu nói “yêu nó hay rời nó” không còn chỉ
là lối nói khoa trương nghe cho vui nữa. Chánh quyền hiện tại đang đe
dọa loại bỏ quốc tịch và tống xuất những công dân đã nhập quốc
tịch. Có lẽ không còn là chuyện viển vông khi nghĩ rằng một ngày
nào đó một người như tôi, sinh tại việt Nam, có thể bị gởi trả về
Việt Nam, dù tôi đã nỗ lực tự khẳng định hơn nhiều người Mỹ sinh
trưởng tại nơi này. Nếu điều đó xẩy ra, tôi sẽ không mang đứa con trai
theo tôi. Việt Nam không phải là quê hương của nó. Mỹ mới là quê hương
của nó, và có lẽ nó sẽ nhận thức một thứ tình yêu quê hương đến
từ trực giác hơn là từ những chuyện rối rắm phức tạp như trường
hợp của tôi.
Nó cũng sẽ – tôi hy vọng – biết
đến thứ tình yêu của người cha ít phức tạp hơn thứ tình yêu của tôi.
Tôi không bao giờ nói “Con yêu bố mẹ” khi tôi lớn lên vì cha mẹ tôi
không bao giờ nói với tôi rằng “Bố mẹ yêu con.” Điều đó không có
nghĩa rằng cha mẹ tôi không yêu tôi. Cha mẹ tôi hết sức yêu tôi cho đến
nổi họ phải làm việc đến kiệt lực trên đất nước mới mẻ này. Tôi
ít khi về thăm cha mẹ. Khi tôi về, cha mẹ tôi đã quá mệt nhọc đến
hết cả vui sướng. Tuy nhiên, dù kiệt lực đi nữa, cha mẹ tôi cũng luôn
luôn làm một bữa ăn thường chỉ có thịt luộc. Tôi lớn lên nhờ bộ đồ
lòng, lưỡi, gan, bao tử, tim. Nhưng tôi không bao giờ bị bỏ đói.
Kỷ niệm về thứ tình yêu sâu xa
như từ trong máu trong thịt đó, được thể hiện bằng hy sinh, đã thâm
nhập vào xương tuỷ của tôi. Một lời nói, hay một giọng nói, có thể
khiến tôi cảm nhận được chiều sâu của tình yêu ấy, như có lần tôi
thoáng nghe một mẩu chuyện tại cửa hàng dược phẩm vùng tôi ở thuộc
thành phố Los Angeles. Người đàn ông ở cạnh tôi là người châu Á, không
bảnh bao, ăn mặc làng nhàng. Ông nói vào điện thoại di động bằng
giọng miền Nam. “Con oi, Ba day. Con an com chua?” Trông ông hơi thô,
có lẽ thuộc giới lao động. Nhưng ông nói với con ông bằng tiếng Việt,
giọng nói thật dịu dàng. Không thể nào chuyển dịch được những gì
ông nói. Chỉ có thể cảm thấy thôi.
Dịch sát từng chữ, câu nói đó,
”Hello, child. This is your father. Have you eaten rice yet?” có nghĩa, “Con
ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?” Nó chẳng có nghĩa gì trong tiếng Anh, nhưng
trong tiếng Việt, nó là tất cả. “Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?”
Đây là cách người chủ tiếp người khách đến nhà mình, bằng lối hỏi
khách đã ăn gì chưa. Đây là cách cha mẹ cho con biết họ thương con
lắm, nhưng không bao giờ nói, “Bố mẹ thương con”. Tôi lớn lên với những
tập tục này, cảm xúc này, thân thương này, nên khi tôi nghe người cha
nói với con như thế, tôi muốn trào nước mắt. Đấy là cách tôi biết
rằng tôi vẫn là người Việt Nam, vì lịch sử của tôi đã nằm trong máu
của tôi và văn hoá của tôi là cuống rốn của tôi. Ngay cả khi tiếng
Việt của tôi không hoàn hảo, thật vậy, tôi vẫn thấy mối dây liên hệ
với Việt Nam và người tỵ nạn Việt Nam sống trên khắp thế giới.
Tuy nhiên, khi tôi lớn lên, một
số người Mỹ gốc Việt thường bảo tôi rằng tôi quả thật không phải là
người Việt Nam vì tôi không nói tiếng Việt sành sõi. Lối phát biểu
đó na ná như “yêu nó hay rời nó.” Nhưng có nhiều cách để làm người
Việt Nam, cũng như có nhiều cách để làm người Pháp, nhiều cách để làm
người Mỹ. Đối với tôi, chừng nào tôi cảm thấy mình là Việt Nam,
chừng nào những sự kiện liên quan đến Việt Nam làm tôi xúc động, thì
tôi vẫn là Việt Nam. Đấy là phương thức giúp tôi cảm nhận tình yêu
quê hương Việt Nam, một trong những quê hương của tôi, và đó cũng là
cách tôi nhận ra tôi chính là Việt nam.
Khi ngang nhiên bảo rằng mình là
Việt Nam, không đếm xỉa đến xác nhận của bất kỳ ai khác, tôi cũng
tự nhận mình chính là người Mỹ. Chống đối lại tất cả những người
bảo “yêu nó hay rời nó”, họ chỉ có một một con đường trở thành
người Mỹ, tôi nhấn mạnh rằng nước Mỹ cho phép tôi làm người Việt Nam
và được những người khác yêu mến. Cho nên mỗi ngày tôi vẫn hỏi con
tôi đã ăn uống gì chưa và thế là mỗi ngày tôi vẫn nói với nó rằng
tôi yêu nó. Điều đó cho thấy tình yêu quê hương và tình yêu gia đình
không khác nhau. Tôi muốn tạo nên một gia đình nơi đó tôi sẽ không bao
giờ phải nói với con tôi “yêu nó hay rời nó”, cũng như tôi mong muốn
một quê hương không bao giờ sẽ nói như vậy với bất kỳ ai.
Đa số người Mỹ không cảm thấy
điều mà tôi cảm thấy khi nghe tiếng Việt Nam, nhưng họ cảm thấy tình
yêu quê hương theo lối của họ. Có thể họ nhận thức được tình yêu quê
hương sâu xa, đầy xúc cảm ấy khi họ thấy lá cờ hoặc nghe bản quốc
ca. Tôi xin thú nhận rằng những biểu tượng ấy không mang nhiều ý
nghĩa đối với tôi, vì chúng gây chia rẽ cũng như đoàn kết. Quá nhiều
người từ cấp cao nhất đến thành phần thấp kém đều đã sử dụng
những biểu tượng ấy để chủ yếu là nói với toàn thể người Mỹ rằng
hãy yêu thương đất nước này hay hãy rời bỏ nó.
Không bị ảnh hưởng bởi lá cờ
và quốc thiều không khiến cho tôi kém chất Mỹ hơn những người trân
quý những biểu tượng ấy. Phải chăng điều quan trọng hơn đó là tôi yêu
thực chất nằm đằng sau những biểu tượng nói trên hơn là chính những
biểu tượng đó. Đó là những nguyên tắc. Dân chủ, bình đẳng, công lý,
hy vọng, hòa bình và đặc biệt là tự do, tự do viết lách và suy
nghĩ những gì tôi muốn, cho dù những thứ tự do của tôi và cái đẹp
của những nguyên tắc trên đều được nuôi dưỡng bằng máu me từ tội
diệt chủng, nô lệ, chinh phục, thực dân, chiến tranh đế quốc, chiến
tranh miên man. Tất cả những thứ đó là nước Mỹ, nước Mỹ đẹp đẽ và
tàn bạo của chúng ta.
Trước kia tôi không hiểu thấu
điều mâu thuẫn đó là nước Mỹ của chúng ta, vào giai đoạn tôi còn
trẻ sống tại San Diego, California vào những thập niên 1970 và 1980.
Hồi đó tôi chỉ muốn làm người Mỹ theo lối đơn giản nhất, một phần để
chống đối cha tôi đòi hỏi tôi phải 100% Việt Nam. Cha tôi yêu quê hương
của ông thật sâu đậm vì ông đã đánh mất nó khi chúng tôi đào thoát
khỏi Việt Nam làm người tỵ nạn năm 1975. Nếu cha mẹ tôi bám chặt vào
căn cước và văn hóa Việt Nam, chính vì họ mong muốn lấy lại quê hương
đã mất, một tình cảm mà nhiều người Mỹ chắc chắn đã hiểu.
Thế rồi Mỹ tái lập quan hệ
với Việt Nam năm 1994, và cha mẹ tôi nhân cơ hội đầu tiên đó về Việt
Nam. Họ về hai lần, không có tôi, để thăm một nước vừa trổi dậy từ
nghèo khổ và tuyệt vọng sau chiến tranh. Những gì họ chứng kiến nơi
quê cũ đã tác động mạnh nơi cha tôi. Sau chuyến thăm thứ hai, cha mẹ
tôi không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Thay vào đó, trong bữa ăn vào
Lễ Tạ Ơn kế tiếp, cha tôi nói, “Bây giờ chúng ta là người Mỹ.”
Cuối cùng cha tôi đã khẳng định
là người Mỹ. Lẽ ra tôi phải phấn khởi, và phần nào tôi đã có cảm
tưởng ấy khi chúng tôi ngồi trước món ăn gà tây lạ lẫm, khoai tây
nghiền, nước xốt cranberry, mà anh tôi anh tôi đã mua từ một siêu
thị vì không một ai trong gia đình tôi biết cách nấu những món đặc
biệt này mà chúng tôi chỉ ăn mỗi năm một lần. Nhưng nếu tôi cũng
thấy không được thoải mái, chính là vì tôi không thể không tự hỏi:
Đây là nước Mỹ nào vậy.
Viet Thanh Nguyen (November 15, 2018)
Ngự Thuyết chuyển ngữ (November 20, 2018)
Ngự Thuyết chuyển ngữ (November 20, 2018)