Vừa chuyển sang Yahoo news, thấy tấm hình đoàn di dân
từ Nam Mỹ hướng về Hoa Kỳ đang lội bì bỏm trong dòng sông Suchiate,
bà Liên ngồi lặng yên; nhưng trong tâm tưởng của bà, hình ảnh từng
đoàn người đói khổ/rách rưới/tàn tạ dắt díu nhau đi tìm đất sống –
vào thập niên 40 – trong “vùng giải phóng” lại hiện về!
Thập niện 40, bà Liên chỉ là đứa bé con, không thể
nào hiểu được tại sao ông Thông – Bố của bé Liên – lại hãnh diện, tự
hào để cùng nhiều thanh niên trí thức miền Nam đưa gia đình “thoát ly”
đời sống đầy tiện nghi ở thành phố, trốn ra “bưng”, tham gia Việt Minh
để chống Tây! Không thể nào bé Liên hiểu và có thể nhớ được cuộc khởi
hành đầy phiêu lưu, vô định của gia đình; nhưng bé Liên lại nhớ cảnh
hãi hùng khi thấy cầu, đường cái quan, đường xe lửa đều bị Việt Minh
phá hủy và nhà cửa, xóm làng của dân cũng đều bị Việt Minh san
bằng!
Vì xóm làng, nhà cửa không còn, đồng bào phải đi
tìm đất sống. Đó là lý do lúc nào cũng có nhiều đoàn người nheo
nhóc, bồng bế nhau đi bộ dọc theo đường cái quan loan lở. Các đoàn
người tản cư cứ đi hết làng này qua làng khác. Đến bất cứ làng nào
đoàn người tản cư cũng chỉ thấy quang cảnh xơ xác, điêu tàn!
Giữa sự điêu tàn gần như toàn diện của thôn làng
lại nổi lên mấy khẩu hiệu chói lọi:
“Đả đảo thực dân Pháp tàn phá quê hương ta”, “Toàn dân hy sinh đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược”, v.v… Mỗi khi thấy khẩu hiệu như vậy, ông
Thông cười “nửa miệng”, nói nhỏ với bà Thông: “Việt Minh đúng là thứ vừa ăn cướp vừa la làng.”
Thời điểm đó bé Liên chưa có ý niệm gì về địa lý,
nhưng khi đoàn người tản cư đến cầu Ông Chừ, bé Liên lại biết mọi
người đang hướng về Nha Trang, quê Nội của bé. Lý do bé Liên nghĩ như
thế là vì thời gian ông Thông chưa bị thuyên chuyển ra làng Sơn Tịnh –
Quảng Ngải, để nhận nhiệm vụ Trưởng Ban Văn Nghệ Quân Khu V – thỉnh
thoảng bé Liên thấy ông Thông, với ánh mắt buồn vời vợi, ngồi trên
mỏm đá phía bên nay cầu Ông Chừ (Tuy Hòa), lặng lẽ nhìn về phía bên
kia cầu. Bé Liên hỏi: “Sao Ba buồn
quá vậy?” Ông Thông xoa tóc con: “Ba
nhớ bà Nội!” Như chợt nhớ chủ nghĩa “tam vô” do Việt Minh chủ
xướng và những lần bị kiểm thảo tư tưởng vì dạy bé Liên học Pháp văn
hoặc dạy bé Liên đàn, hát những tình khúc ướt lệ, ông Thông vội
vàng tiếp: “Con! Con đừng nói lại
với ai, nhen, con!” Bé Liên đáp: “Dạ,
con biết rồi.”
Nhớ lại hình ảnh đói khổ, cơ hàn trong “vùng giải
phóng” ngày xưa rồi nhìn quanh quán bún bò trước căn nhà lụp xụp
của bà bây giờ – nơi vùng kinh tế mới, sau năm 1975 – bà Liên nhận
thấy cuộc sống sau năm 1975 cũng chẳng khác chi cuộc sống cơ hàn trong
“vùng giải phóng” khi xưa!
Khi xưa, cơ cực nhưng gia đình sum vầy; bây giờ, ông
Thông bị tù tại trại tù Nghĩa Phú về “tội” Trưởng Ty Nội An Thị Xã
Cam Ranh; Sơn – em của bà Liên – bị giam ở trại tù A-30 về “tội” sĩ
quan “Ngụy”; bà Thông qua đời vì bệnh ruột thừa nhưng vì chồng là
“Ngụy”, bác sĩ không chịu giải phẫu; em trai kế của Sơn phải vượt
biên để khỏi thi hành “nghĩa vụ quân sự” bên Cao Miên; và ông Long,
chồng của bà Liên, bị đưa ra Bắc vì có “nợ máu” với nhân dân!
Mỗi khi nghĩ đến ông Long, không thể nào bà Liên không
nhớ lại thời gian ông phục vụ tại các đơn vị tác chiến Hải Quân. Là
đơn vị trưởng, ông Long phải có ám từ truyền tin; ông chọn Langdon làm
ám hiệu.
Nếu ông Long gan dạ, cứng rắn bao nhiêu thì bà Liên
lại ủy mỵ, lãng mạn bấy nhiêu. Vì tâm hồn rất nhạy cảm và cũng vì
tiếp xúc với âm nhạc từ bé, cho nên, khi phải trực diện với bất cứ
tình huống nào, trong hồn của bà Liên cũng trỗi dậy dòng nhạc thể
hiện được tâm trạng của bà vào thời khắc đó. Vì vậy, đang thương
nhớ chồng, bà Liên chợt nhận ra tình khúc Tell Laura I Love Her của Ray
Peterson đang ngân lên trong hồn. Bà Liên “ngân nga” nho nhỏ và đổi chủ
từ cũng như túc từ cho phù hợp với tâm trạng của bà: “…Tell Langdon I love him. Tell Langdon I
need him. Tell Langdon not to cry. My love for him will never die…” Vừa
“ngân nga” đến đây, bà Liên cảm thấy thương nhớ luôn cả những đơn vị
mà ông Long đã phục vụ.
Thời gian ông Long phục vụ tại Vùng I Duyên Hải, mỗi
lần đến Tiên Sa thăm chồng, nhìn thành phố Đà Nẵng lung linh trong ánh
đèn, bà Liên tưởng như cả muôn vàn ngôi sao đang hội tụ trong thành
phố thân yêu.
Ngày trước, Đà Nẵng lung linh, huyền hoặc bao nhiêu
thì tháng 03 năm 1975 – sau khi phải “nhận” không biết bao nhiêu đợt đại
pháo của cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) – Đà Nẵng quằn quại bấy nhiêu!
Cuối cùng, Đà Nẵng tan hoan! Đà Nẵng chỉ còn xác người, máu và
nước mắt!
Sau thời gian dài sống trong cảnh cơ hàn ở vùng kinh
tế mới, bà Liên vui mừng khi hay tin
Đà Nẵng hồi sinh.
Nhưng, từ khi có laptop – do người em trai bên Mỹ gửi
tặng – bà Liên đọc được tin nhiều phố Tàu đã “mọc” lên ngay trung tâm
thành phố và dọc theo các bờ biển trong vịnh Đà Nẵng thì bà Liên
buồn quá đổi; vì bà Liên hiểu rằng: Những cứ điểm quân sự, chiến
lược quan trọng của Việt Nam tại Đà Nẵng đã “rơi” vào tay Trung Cộng!
Nỗi buồn chưa nguôi, bà Liên lại đọc được tin trên
news.zing.vn. Theo bài tường thuật của Đoàn Nguyên, Ngọc Minh: Gần 10
nhà cao tầng đã được xây dựng ở Đà Nẵng, khiến khả năng phòng thủ,
tấn công của sân bay Nước Mặn bị tê liệt!... Thiếu tướng cộng sản Trần
Minh Hùng – nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5 – cũng lo lắng, xác nhận: “Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, vì sân bay
này là nơi tác chiến phòng thủ của các đơn vị quân đội”.
Tại khách sạn cũng như các khu phố Tàu, họ đem
người Tàu – nhập cảnh vào Việt Nam không cần Visa – sang Việt Nam làm
công cho họ; rồi từ bản hiệu, quảng cáo, hóa đơn đều in chữ Tàu;
nhiều cửa hàng lại ngang nhiên không tiếp người Việt Nam, v.v…thì bà
Liên khóc!
Thì ra, người và đảng c.s.V.N. quyết tâm tận diệt
người cùng dòng máu, cùng ngôn ngữ ở miền Nam chỉ với mực đích đưa
người Trung cộng vào Việt Nam để đồng hóa người Việt Nam! Niềm oán
hận đối với những người đã và đang đày đọa gia đình của bà và đưa
toàn nước Việt Nam vào thời bao cấp rồi bán từng phần đất nước cho
Trung cộng vừa dâng lên thì một anh công an cầm cái soon nhỏ, bước vào
quán. Bà Liên hỏi:
-Dạ, anh cần chi?
-Bác bán cho tôi năm tô bún. Mua nhiều thế bác có cho
thêm thịt thà gì không?
-Dạ, tôi sẽ thêm một miếng giò heo hầm.
-Ôi, Giời! Mua năm tô mà chỉ thêm có một miếng giò
“nợn” thì về chia thế “.éo” nào được! Ai ăn, ai nhịn?
Nghĩ đến cảnh gia đình mình, một thẻo thịt heo cũng
không dám ăn, chỉ để bán, lấy tiền mua gạo và bo bo, bà Liên than:
-Rất tiếc! Tôi không thể cho thêm mỗi tô một miếng
giò heo; nhưng tôi sẽ cho thêm mỗi tô một lác chả cá, thay vì miếng
dò heo. Được không, anh?
-Ôi Giời! Buôn bán gì mà keo kiệt thế! Ngoài Bắc heo
chạy từng đàn, chả ai thèm ăn; chỉ có người trong này mới xem miếng
ăn bằng …cái nhà!
Bà Liên cúi mặt, im lặng làm năm tô bún. Khi thấy bà
Liên chỉ bỏ thêm năm miếng chả cá, anh công an sừng sộ:
-Này! Này! Buôn bán thế hả?
-Dạ, sao ạ?
-Còn miếng giò “nợn” “núc” nãy hứa tại sao không cho
vào? Quán này có giấy phép, môn bài hay không mà dám “nường gạc”
công an nhân dân, hả?
Biết anh công an nói ngược để đòi thêm, bà Liên nén
nước mắt, múc miếng giò heo cho vào soon của anh ta. Bưng soon bún,
trước khi quay đi, anh ta còn “tặng” bà Liên một câu nữa:
-Ông mà tìm ra quán bún nào khác thì ông “.éo” thèm
“chở nại”!
Từ sự tủi thân, dư âm của một bài hát thời kháng
chiến vọng về. Bà Liên vừa quẹt
nước mắt vừa “ngân nga” nho nhỏ: “Đây
quán bên đường, mái khói lên chạnh nỗi lòng. Đây quán bên đường, chờ mong
khách qua đường thương…” Vừa “ngân nga” đến đây, niềm phẫn uất về
tình trạng đất nước hiện tại lại dâng lên, bà Liên đổi lời ca mấy
chữ cuối câu: “…. Nếp quán xinh xinh,
thương anh ‘cán ngố’ ra đi cướp nước… để tặng cho Tàu….” (1) Vừa “ngân nga” đến đây, bà Liên chợt
nhận ra ông Tùng – cán bộ hồi hưu ở ngoài Bắc, sau khi vợ chết, được
người con trai mời vào sống với gia đình cậu ấy và trở thành khách
thường xuyên của bà Liên – đứng cạnh gốc cây me tây từ bao giờ. Lòng
thầm lo, không biết ông Tùng đã nghe mấy chữ cuối hay không, bà Liên
tỏ vẻ thân thiện:
-Dạ, ông khỏe không? Một tô bún đặc biệt như thường
lệ, phải không ạ?
-Vâng. Hôm nay lạnh, vắng khách, nhỉ!
-Dạ, thời tiết lạnh mà ai cũng lo mua sắm quà Noel
cho nên ế quá!
-Thế bà đã mua quà “Nô-Ên” chưa?
-Trời! Tôi mà có tiền mua quà Noel thì Mẹ con tôi đâu
phải bán bún bò! Còn ông?
-Con tôi biếu tôi cái “ai pát, ai piết” (Ipad) gì đó; tôi
học cách xử dụng mà muốn điên cái đầu!
- Ông xử dụng được chưa?
-Biết sơ sơ để đọc tin tức tiếng Việt thôi chứ không
được như bà.
Bà Liên chuyển đề tài:
-Mời ông dùng bún. Biết ông thích huyết heo, hôm nay
tôi thêm cho ông một miếng đấy.
-Bà khéo thế, thảo nào quanh đây ai cũng nói tốt về
bà.
-Dạ, họ thương thì họ nói vậy chứ tôi cũng chẳng
khác gì những phụ nữ lam lũ quanh đây. Mời ông dùng kẻo nguội.
Vừa trộn tô bún, mùi ớt bột, mùi mắm ruốt, mùi
sả, mùi thị bò, mùi giò heo hầm tỏa ra làm cho dịch vị của ông
Tùng tiết ra rất nhiều; nhưng ông Tùng cố gắng gắp từng miếng nhỏ,
ăn chậm rãi để tỏ ra ông cũng lịch sự như người miền Nam.
Hồi mới vào Nam – bổn tính hay khoe – ông Tùng muốn
mọi người gọi ông là “cán bộ” cho oai. Nhưng, chỉ sau một thời gian
ngắn, nhận ra được sự ghẻ lạnh của mọi người và ông Tùng nghe loáng
thoáng nhiều người gọi cán bộ là “cán ngố” thì ông chối bỏ danh từ
“cán bộ”.
Thế mà lúc nãy lại nghe bà Liên hát một câu trong
bài ca thời chống Pháp và bà Liên cũng dùng danh từ “cán ngố”, ông
Tùng vừa ăn chầm chậm vừa tìm cách gợi chuyện:
-Biết bà cũng khá lâu mà chưa được nói chuyện nhiều
với bà, tôi muốn hỏi thăm bà một điều, được không ạ?
-Dạ, được chứ.
-Câu bà hát lúc nãy có phải từ một bài ca thời
kháng chiến hay không?
Nghi là “tai họa” sắp đến, bà Lan tìm cách làm cho
vấn đề nhẹ đi:
-Tôi nghe ai hát đâu đó rồi bắt chước hát theo; vậy
mà ông biết bài đó sáng tác vào thời kháng chiến. Hay thiệt!
-Thời kháng chiến, ở Quân Khu V, có một gia đình
trong Nam theo kháng chiến. Ông bà ấy tên gì tôi chả nhớ; chỉ nhớ đứa
con gái của ông bà ấy còn bé xíu mà ca hát suốt ngày; con bé ấy
thường hát bài này khi chị em nó ngồi cạnh quán nước và cái hầm
tròn để dễ nhảy xuống hầm khi máy bay đến.
Bà Liên mất bình tĩnh, nhưng vẫn cố đưa đẩy câu
chuyện để ông Tùng khỏi nghi:
-Vậy à?
-Về sau, nghe tin gia đình con bé ấy hồi cư tôi cũng
hơi buồn.
-Tại sao ông lại buồn?
-Thời ấy tôi là liên lạc viên của Quân Khu V. Công văn
đến, công văn đi, “lệnh lạc” gì tôi cũng chu toàn cho nên ông Bố của
con bé ấy thương tôi lắm. Thương tôi mà trốn đi lại không cho tôi đi
cùng, thế bảo sao không buồn!
Dù chẳng nhớ được liên lạc viên tại Quân Khu V là ai,
bà Liên cũng chuyển tài:
-Thôi, chuyện xưa rồi, ông buồn làm chi.
-Không những tôi buồn mà tôi còn lo nữa cơ; vì không
biết gia đình con bé ấy có thoát được “nanh vuốt” của bọn chúng hay
không!
-“Nanh vuốt” của bọn nào, thưa ông?
-Thì bọn Việt Minh chứ bọn nào!
-Trời đất! Ông là cựu đảng viên, cựu cán bộ mà lại
nói như vậy? Ông không sợ à?
-Sợ gì? Tôi chỉ còn cái mạng què này chứ còn gì
mà sợ!
-Thôi, ông Tùng ơi! Ông không sợ nhưng tôi sợ lắm!
Ông Tùng chưa kịp nói gì thì một người khách bước
vào:
-Lạnh “wá”! Cô cho em tô bún thiệt cay, nhen!
Trong khi hai phụ nữ nói chuyện nho nhỏ, ông Tùng
nhìn con đường nhựa, lòng nhớ lại chuyến xe đò xuyên Việt đầu đời
đã đưa ông từ Hải Phòng vào Nam.
Xe qua bất cứ thành phố nào ông Tùng cũng thấy
nhiều và rất nhiều cơ xưởng đồ sộ và nhà cao tầng, mới xây, trông
rất “hoành tráng”. Lúc xe chạy dọc bờ biển, ông Tùng lại thấy khách
sạn cao nghệu được xây san sát bên nhau; ra khỏi thành phố thì nhà
cửa lại xập xệ, tiêu điều, tàn tạ như thời ông ở Quảng Ngãi.
Hỏi chàng “lơ” xe, ông Tùng mới biết các cơ xưởng
“khổng lồ” và khách sạn dọc các bờ biển là của Trung cộng; những
tòa nhà “hoành tráng” là của cán bộ cao cấp c.s.V.N.; những vùng
điêu tàn là vùng kinh tế mới dành cho gia đình của “Ngụy quân, Nguy
quyền” sống.
Xe chạy đến Đà Nẵng, vô tình nhìn về hướng Tiên Sa,
lòng ông Tùng chợt chùng thấp; vì ông nhớ lại thời gian ông và người
bà con bị Biệt Hải của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bắt trong vùng
biển Hải Phòng, khi ông theo người bà con đi câu.
Sau khi bị bắt, ông Tùng rất lo sợ, vì ông nghĩ sẽ
bị “Ngụy” giết ngay. Không ngờ, ông và người bà con được giải giao về
Làng Kiểu Mẫu Thế Giới Tự Do bên Cù Lao Chàm, sống chung với các
“đồng chí” của ông – đã bị bắt trước ông. Ông Tùng, người bà con của
ông, cũng như các “đồng chí” của ông đều được đối xử tử tế, ăn uống
sung sướng và mỗi ngày được “Ngụy” giảng dạy về đời sống, thái độ
sống trong thế giới văn minh.
Sự văn minh của “Ngụy” không bao giờ ông Tùng có thể
thấy được trong tập thể bộ đội, đảng viên của c.s.V.N.. Đó là “Ngụy”
thường nói “cảm ơn”, “xin lỗi” và ông Tùng “phục lăn” sĩ quan “Ngụy”;
vì họ không những nói mà còn hát tiếng “nước ngoài”!
Ông Tùng nhớ mãi buổi chiều gần Giáng Sinh, sau giờ
“học tập”, ông Tùng cùng các “đồng chí” của ông đang được giải giao
về hướng khu vực dành riêng thì nghe thiếu úy “Ngụy” vừa đi cạnh
toán tù vừa “gật gù” vừa hát nho nhỏ “…We wish you a Merry Christmas.
We wish you a Merry Christmas and a Happy New Year.” (2) Không nghe thiếu úy hát tiếp, ông
Tùng hỏi: “Ơ kìa, anh đang hát nghe
vui đáo để mà sao lại ngưng?” Thiếu úy cười: “Bài hát tới đó là hết, biểu tui hỏng ngưng sao được!”
Nhận thấy thiếu úy có vẻ vui tính, dễ giải, ông Tùng nói rất nhỏ:
“Anh! Anh cho tôi hỏi thăm chút, được
không?” Thiếu úy cười: “Vâng, anh
cứ nói.” Ông Tùng hỏi: “Nghe
nói, sau thời gian học tập, chúng tôi sẽ được phóng thích trở ra
Bắc, phải không, anh?” Thiếu úy đáp: “Vâng. Đúng, để các anh truyền lại cho đồng bào miền Bắc và
bộ đội cụ Hồ về những điều các anh đã biết, nghe và thấy tại miền
Nam.” Ông Tùng cảm thấy ớn lạnh ở sóng lưng! Thời chưa bị bắt,
ông Tùng biết rõ: “Thằng” tù miền Bắc nào được “Ngụy” thả về lại
miền Bắc cũng – không trước thì sau – sẽ bị đảng và người c.s.V.N.
thủ tiêu, chết không biết nguyên nhân!
Vì sợ sẽ bị các “đồng chí” thủ tiêu, đến lượt
được tha để trở về Bắc, ông Tùng xin ở lại với “Ngụy”; nhưng không
được chấp thuận. Cũng may, khi trở về Bắc, ông Tùng được một người
bà con bên vợ – có “thế lực” trong hợp tác xã – “bao che” cho nên ông
còn sống để bây giờ…
Dòng ý tưởng của ông Tùng vừa đến đây, tiếng cô
khách hàng đưa ông trở về thực tại:
-Em “dìa”, nhen, cô. Mai mốt em ra ăn nữa.
-Cảm ơn em.
Tiếng ông Tùng:
-Đấy, ai cũng thích ăn bún của bà; bà sẽ giàu lên
mấy hồi.
Đoán có lẽ ông Tùng bất mãn điều gì với c.s.V.N.,
bà Liên nói lên sự thật:
-Sau 1975, người giàu lên thì chỉ có đảng viên và
những nhân vật cao cấp của đảng c.s.V.N. thôi, ông à!
Con trai của ông Tùng cũng là đảng viên đảng c.s.V.N.,
nhưng cuộc sống chỉ hơn cuộc sống của vợ con của “Ngụy” tý đỉnh,
nhờ cậu ta biết “mánh mung”; nhưng sau khi “mánh mung” cậu ta cũng phải
nộp cho cấp trên khá nhiều thì mới có thể phục vụ tại đơn vị đó.
Ông Tùng nói ra nỗi xót xa trong lòng.
-Đảng c.s.V.N. thoát thân từ những bà Mẹ quê lam lũ,
những anh chị nông dân ít học, các dân tộc thiểu số. Nhưng, khi mục
tiêu “thống nhất” đạt được rồi thì chính thành phần nông dân lam lũ,
các bà Mẹ quê và các bộ lạc dân tộc thiểu số bị “đá đít” trước
nhất. Ai đời, con cháu của người thiểu số đi học mà phải “đu giây”
hoặc được bỏ vào bao ny-long rồi Bố kéo qua sông, qua suối! Nhân dân
vào bệnh viện thì cứ hai bệnh nhân nằm chung một giường; người thân
thăm nuôi phải nằm dưới gầm giừng người bệnh hoặc dọc hành lang hay
ngoài sân bệnh viện! Còn tiền thuế của dân thì đảng c.s.V.N. dùng để
xây tượng đài!
-Ông Tùng ơi! Sao hôm nay ông nói nhiều điều… dễ sợ
quá!
-Sợ gì? Dân Việt Nam mình thiếu anh hùng hay sao mà
xây tượng “thằng” Lenin, “thằng” Phi-đeo (Fidel Castro)? Bà biết tại sao
c.s.V.N. thích tạo ra những đồ án lớn như dựng tượng đài hay không?
Biết, nhưng bà Liên lại lắc đầu. Ông Tùng tiếp:
-Bà vào “gú
gồ”, tìm vietnamnet.vn, bà sẽ thấy bài
Tượng Đài Và Chuyện “Bát Cơm” Của Nhiều Người. Trong bài ấy có câu
đại ý như thế này: “…Nhân vụ việc bức ‘Tượng Đài Chiến Thắng’ ở
Bắc Cạn bị gảy đổ ta mới biết bức tượng chỉ có giá 2 tỷ trong
toàn bộ công trình 14 tỷ. Đó là thông tin do chính ông Hoàng Văn
Trường, Giám đốc Sở Văn Hóa, Thể thao, Du lịch Bắc Cạn cho dư luận
biết qua báo chí…” Thế thì 12 tỷ sai biệt “chạy” vào túi ai? Còn
Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng – sau khi “no nê”, của cải giấu kỹ ở
“nước ngoài” – xoay ra tố tham nhũng để lấy tiếng. Ông Trọng củng cố
“uy tín” chính trị vừa xong thì Chủ Tịch nước Trần Đại Quang “lăng”
ra chết! Thế là Tổng Bí Thư Nguyễn
Phú Trọng “nhà ta” kiêm luôn chức Chủ Tịch nước cho “trọn gói”!
-Thôi, thôi, ông Tùng ơi! Ông nói nghe “ghê” quá! Tôi…
sợ lắm!
-Bà sợ chuyện chính trị thì để tôi nói chuyện thể
thao cho bà nghe, nhé!
-Dạ.
-Bà nghĩ như thế nào về trận đá banh vừa rồi?
-Dạ, tôi ít theo dõi thể thao.
-Giải AFF Su-zu-ki
chỉ là một giải vùng Đông Nam Á, chứ đâu phải giải vô địch Á Châu; thế mà
“chúng nó” “loạn” lên, cả “rừng” xe gắn máy khuấy động thành phố
suốt đêm rồi con trai thì tung cờ, con gái thì cởi áo, chỉ mặc
xì-líp “đi bão” rồi hô vang “Tự hào quá Việt Nam”! Tự hào cái quái
quỹ gì khi Trung cộng dẫm nát Quê Hương mà tuổi trẻ chỉ biết ăn chơi,
bia rượu, đàn điếm? Đúng là một xã hội điên loạn, đầy măc cảm tự
ty!
-Tôi ước chi người
trẻ dùng năng lực của họ để tiếp tục thực hiện những cuộc biểu
tình tuyệt vời như khi c.s.V.N. cho Trung cộng thuê ba đặc khu kinh tế Vân
Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc.
-Vụ biểu tình
…“xẹp” rồi! Nhưng gần đây có một người trẻ như bà mong ước.
-Ai vậy, thưa ông?
Ông Tùng lấy Iphone ra, quẹt quẹt vài lần rồi đáp:
-Đây, bà đọc đi. Yêu
Sách Tám Điểm Năm 2019
Của Người Dân Việt Nam. Trong bản tin này họ nhắc đến một sinh viên
đại học tên Tôn Phi.
Bà Liên sợ, nói
tránh đi:
-Dạ, cảm ơn ông.
Nhưng mắt tôi kém lắm, đọc không được.
Ông Tùng có vẻ
không vui, cất Iphone vào túi rồi nói:
-Sau chuyến xe
xuyên Việt đầu đời tôi mới hiểu rằng chúng tôi đã bị lừa!
-Hôm trước ông bảo ông đã theo “cách mạng” từ năm ông
12 tuổi mà sao bây giờ ông nói ông bị lừa?
-Mười hai tuổi biết cái – sắp thốt ra tiếng …“.éo”
thì ông Tùng vội sửa lại – đếch gì mà theo! Lúc ấy gia đình tôi
chuyên nghề nông cả mấy đời ở Quảng Ngãi. Năm đó mất mùa, hàng xóm
bảo Ba Mẹ tôi xin cho tôi làm liên lạc viên, mỗi tháng được đảng cấp
tám ký gạo lại được mua thực phẩm ở hợp tác xã cho nên tôi mới
vào.
-Ông người Bắc mà tại sao gia đình ông mấy đời làm
nghề nông ở Quảng Ngãi?
-Năm 1954, “chúng nó” bắt tôi phải đi tập kết; ra
ngoài Bắc lấy vợ, sinh con thì nói tiếng Bắc...
Ông Tùng vừa nói ngang đây thì đứa cháu nội đến,
gọi ông về. Ông Tùng trả tiền rồi từ giã bà Liên:
-Chào bà, nhá! Ô, quên, cảm ơn bà đã thêm cho tôi
miếng huyết heo.
-Dạ, không có chi. Ông là khách quen mà.
Ông Tùng cười, nắm tay đứa cháu, quay đi. Bước chầm
chậm trên con đường nhựa loan lổ – như tâm hồn của ông lúc bấy giờ –
ông Tùng hồi tưởng lại những gì ông đã thấy trên chuyến xe xuyên Việt
mà ông đã đi.
Trong khi ông Tùng thở dài, lòng cay đắng và đầy
phẫn uất vì đã nhận ra sự phản bội của đảng c.s.V.N. đối với Quê
Hương, dân tộc cũng như đối với ông và “đồng chí” của ông thì bà Liên
nhìn theo phiến lưng cong và dáng đi khập khễnh của ông.
Bà Liên chợt cảm thấy tội nghiệp cho những người như
ông Tùng; vì đến gần cuối đời mới nhận ra được bề trái của đảng
c.s.V.N.!
Điệp Mỹ Linh
https://www.diepmylinh.com/
1.- Quán Bên Đường của Lê Trọng Nguyễn.
2.- We Wish You A Merry Christmas, không nhớ tên tác giả.