Nhà văn Trương Văn Dân và vợ ông
nhà văn Elena Pucillo
Nếu không có gần nửa thế kỷ
sống xa quê, xa Tổ Quốc, thì có lẽ, chưa chắc Trương Văn Dân đã dính
vào cái nghiệp văn chương, viết lách. Những năm tháng chia ly ấy, như
một sự thiếu hụt trong tâm hồn, luôn làm cho ông chông chênh và trống
trải. Để lấp đi khoảng trống đó, Trương Văn Dân phải độc thoại trên
từng trang viết của mình. Sự tìm tòi và sáng tạo ấy, không chỉ vơi
đi nỗi nhớ thương, mà còn giúp ông tìm lại một nửa linh hồn của
mình, dường như vẫn còn ở lại nơi quê nhà. Do vậy, có thể nói, cũng
như Trần Trung Đạo, Phạm Tín An Ninh, hay Cao Xuân Huy, nhà hóa học
Trương Văn Dân đến với văn thơ một cách ngẫu nhiên, bởi hoàn cảnh cuộc
sống, và trái tim thúc bách, chứ hoàn toàn không có sự chuẩn bị để
trở thành một nhà văn. Văn thơ Trương Văn Dân, tuy không vụt sáng lên,
song nó góp phần không nhỏ cho sự tiếp cận, giao thoa giữa hai nền văn
học Việt – Ý (Italia).
Nhà văn Trương Văn Dân sinh năm
1953 tại Bình Định. Sau khi tốt nghiệp tú tài, năm 1971 ông du học ở
Italia và trở thành chuyên gia hóa dược. Gần nửa thế kỷ sống và làm
việc ở nước ngoài, cho đến thời gian gần đây, ông cùng vợ là nhà
văn, tiến sĩ ngôn ngữ học Elena Pucillo về giảng dạy bậc đại học và
viết văn tại Saigon.
Sau tập truyện ngắn Hành Trang
Ngày Trở Lại, tiểu thuyết Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa, Trương Văn Dân dịch
một loạt sách của vợ (nhà văn Elena Pucillo) và của một số nhà văn
Italia như: Một Phút Tự Do, Vàng Trên Biển Đá Đen và Mùa Hè Tươi Đẹp,
Những Ngày Đánh Mất…Và gần đây, Trương Văn Dân cho ấn hành tập
truyện, Milano –Saigon Đang Về Hay Sang. Và tiếp đó tiểu thuyết, Trò
Chuyện Với Thiên Thần, ông vừa viết xong.
Tuy đến với văn chương khá muộn,
nhưng phải nói, bút lực, văn phong của Trương Văn Dân già dặn và mang
tính đặc trưng thật rõ ràng. Với tôi, Hành Trang Ngày Trở Lại, và
Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa là hai tác phẩm tiêu biểu, làm nên một chân dung
nhà văn đất võ Tây Sơn Trương Văn Dân. Nếu Hành Trang Ngày Trở Lại chỉ
dừng ở mức khái quát nỗi đau, thân phận con người với lòng nhân đạo,
cảm thông, thì đến Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa, ngòi bút Trương Văn Dân đã
chọc thẳng vào cái ung nhọt, cảnh báo và chỉ ra nguyên nhân gây nên
nỗi đau, bệnh tật dẫn đến cái chết tang thương ấy.
*Nỗi đau và khát vọng.
Khi đánh giá về nhà văn Trương
Văn Dân, một số nhà phê bình trong và ngoài nước cho rằng: “Ông là một
người đôn hậu, chất phác, phong thái giản dị, không quên gốc rễ, cội nguồn,
dù đã sống bao năm và chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây“. Là người sống lâu
ở Châu Âu, ở một khía cạnh nào đó, tôi không thể đồng cảm hết với
nhận định trên. Và nếu được phép, tôi xin đảo lại câu trên: Do chịu
ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, nên tính hiền lành chất phác, đôn
hậu, phong thái giản dị, không quên gốc rễ, cội nguồn của Trương Văn
Dân ngày càng đậm nét hơn.
Thật vậy, nếu không chịu ảnh
hưởng cái văn hóa nhân bản, rộng mở và đôn hậu của phương Tây, chưa
chắc Trương Văn Dân viết được những trang văn nhân bản, đậm chất thơ và
trữ tình đến vậy. Và khi nghiên cứu Trương Văn Dân, ta có thể thấy,
tự sự, độc thoại cùng đi sâu vào phân tích nội tâm nhân vật là thi pháp
đặc trưng nhất trong tiểu thuyết, văn xuôi của ông. Có lẽ, tôi cũng là
một trong những kẻ có máu đọc, đọc bất kể loại sách gì, và của
ai. Đôi khi máu chập cheng bốc lên, tôi thường có những mối liên hệ, so
sánh. Do vậy, khi đọc Trương Văn Dân, tôi nhận ra, ông là một nhà văn
có tài phân tích, cũng như miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Có một
điều đặc biệt, nhà văn Elena Pucillo vợ ông cũng có chung đặc tính
này.
Có thể nói, Trương Văn Dân đã
đạt đến độ chín ngay từ những truyện ngắn đầu tiên. Hành trang ngày
trở lại, trong tập truyện cùng tên là một truyện ngắn như vậy. Đây
là một trong những truyện ngắn hay nhất của ông về mặt nội dung, tư
tưởng. Đọc nó, làm tôi liên tưởng đến truyện ngắn, Thằng bé đánh
giày người Nghĩa Lộ của nhà văn Phạm Tín An Ninh. Xuất thân, hoàn
cảnh của nhân vật, của những chú bé ở hai câu chuyện tuy khác nhau,
song đều gặp nhau ở cùng một điểm bơ vơ, và đói rách. Từ trong bần
cùng tăm tối đó, tính xã hội, và lòng nhân đạo hiện lên một cách
sâu sắc và cao cả, thông qua lăng kính của nhà văn. Nghệ thuật dẫn
truyện mang đậm tính tự thuật, tưởng như không quá dụng công, vậy mà
mộc mạc đến chân thực, làm người đọc không khỏi bùi ngùi, xúc động.
Thật vậy, lời tự sự dưới đây, tuy không phải là đoạn văn hay của
Trương Văn Dân, nhưng làm cho lòng ta rung động, bởi cái ăm ắp tình
người:
“…Đêm ấy Quang cứ suy nghĩ mãi.
Mình có thể làm gì để có thể đổi thay số phận của nhiều người? Có thể làm gì để
gỡ bớt gánh nặng oằn vai của một đứa trẻ đầy phẩm giá?… Buổi sáng trước khi rời
Quy Nhơn anh chạy đi tìm Bảo để đưa cho em tất cả số tiền còn lại. Bảo ngơ
ngác chưa biết phản ứng ra sao. Khi em cố chạy theo để gọi: “Chú ơi, con không
dám nhận đâu!“ thì Quang đã rồ máy Honda chạy mất. Gió thổi bạt về phía sau,
tiếng anh khàn và đục : “ Giữ đi cháu. Cháu sẽ sử dụng nó một cách xứng đáng
hơn chú nhiều!…“ (Trích đoạn Hành trang ngày trở lại)
Có lẽ, cùng cảnh ba, bốn chục
năm xa quê, xa Tổ Quốc, nên tôi rất đồng cảm và khoái đọc những bài
tùy bút, tâm bút của Trương Văn Dân. Nhất là những bài ông viết về
mẹ, về quê hương. Cái mất của mẹ làm cho ta vội vã trở về. Chỉ còn
kịp nhìn mẹ qua tấm kính trên mặt áo quan. Còn vài tiếng nữa thôi,
không bao giờ còn nhìn thấy mẹ, và ta sẽ trở thành kẻ mồ côi. Vâng,
tâm trạng ấy, trang văn ấy, dường như Trương Văn Dân không chỉ viết cho
ông, mà cho tất cả những kẻ mồ côi mẹ như tôi vậy. Để khi viết những
dòng chữ này, nước mắt vẫn còn nhòe rơi trên bàn phím vi tính, bởi
tôi vừa đọc lại bài viết về mẹ của ông. Có thể, tôi chưa đọc nhiều
những bài viết về mẹ của các tác giả khác. Cho nên, với tôi, cùng
với Đêm Giao Thừa Nhớ Mẹ của Trần Mạnh Hảo, Nghĩ Về Mẹ Và Quê Hương
của Trần Trung Đạo, có lẽ Về Một Ngôi Sao của Trương Văn Dân cũng là
tùy bút về mẹ hay nhất cho đến thời điểm hiện nay. Phải nói, ở thể
loại này, bài nào của ông cũng có lời văn rất đẹp và súc tích.
Đoạn trích, dưới đây sẽ chứng minh cho điều đó:
« …Thỉnh thoảng tôi đứng dậy thắp
nhang rồi bước đến nhìn mẹ qua tấm kính trên mặt áo quan. Nước mắt hoen mờ tôi
thấy mẹ như đang thiếp ngủ. Những sợi khói nhang màu xám từ bàn thờ bay lên,
phất phơ như tóc mẹ. Hơi thở của mẹ như vẫn đều đều theo tiếng chuông mõ nhịp
nhàng. Mẹ vẫn nằm đây nhưng chỉ còn vài giờ nữa thôi, dù sau này có bay trăm
nghìn dặm tôi sẽ không còn bao giờ thấy mẹ. Từ nay, tóc bạc đã lâu nhưng tôi
vẫn là một đứa trẻ mồ côi. Mồ côi cả những lời khuyên răn, trách mắng dù hằng
năm có quay về, xúm xít đứng trước bàn thờ lung linh hương khói… » (Về một ánh sao)
Thân phận con người xuyên suốt
những trang văn của Trương Văn Dân. Trang viết ấy, không chỉ làm ấm
lòng những người già bất hạnh, hay nuôi dưỡng tâm hồn những đứa trẻ,
cù bơ cù bất nơi quê nhà, mà còn xoáy sâu vào thân phận, tấm lòng
của những kẻ tha phương cầu thực như chúng tôi. Lao lực dẫn đến cái
chết của Quang nơi xứ người, trước sự tham muốn một cách vô tâm của
những người thân nơi quê nhà. Truyện ngắn Quyển Sách của Trương Văn Dân
đã cho người đọc thấy rõ điều đó. Không dừng lại ở đó, ông còn cho
người đọc thấy rõ giá trị, cũng như triết lý về cuộc sống. Tôi
nghĩ, Quyển Sách là những lời tự sự hơn là một truyện ngắn. Bởi,
nó quá chân thực trong bối cảnh sau 1975 của mỗi gia đình người Việt
đều có thể xảy ra. Đây một trong những câu chuyện hay, cảm động nhất
trong tập truyện Hành Trang Ngày Trở Lại của Trương Văn Dân. Và chính
nó, góp phần gây cho tôi cảm hứng buộc phải cầm bút để viết bài
này. Ta đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ nỗi ân hận về cuộc
sống (sau lỗi lầm) của con người, và cái nhân sinh quan của chính tác
giả:
« Tôi yên lặng cảm thông nỗi thống
khổ của bà. Lòng tôi xót xa trước những cảnh ngộ trớ trêu của những kiếp người.
Thời gian mong manh hữu hạn nhưng hình như chúng ta không dành cho cuộc sống,
cứ mãi chạy theo những ảo ảnh hão huyền và lầm lạc. Rồi đến khi mất mát, dẫu ân
hận vô bờ cũng không làm sao kéo lại. »
(Trích đoạn từ Quyển sách)
Chưa một lần được gặp gỡ, tiếp
xúc nhà văn Trương Văn Dân do vậy, không biết trong cuộc sống thường
nhật ông có Đức tin hay không? Nhưng khi đi sâu vào đọc và nghiên cứu,
thấy văn thơ của ông đến rất gần với Đạo giáo. Gã Lang Thang Tóc
Trắng là một trong những truyện ngắn điển hình nhất của ông về đề
tài này. Có thể nói, đây là truyện lồng truyện. Một truyện ngắn,
nhưng chuyển tải được nhiều thông điệp đến người đọc. Dường như, nhà
văn muốn mượn mặt sau của xã hội phồn thịnh châu Âu, vẽ nên bức tranh
quả báo ảm đạm và u buồn, để răn mình, răn người vậy. Cái tầng lớp
tận cùng của xã hội ấy hiện lên, mỗi người một hoàn cảnh, một số
phận. Trong đó, có người thật đáng thương, và có cả những kẻ trí
thức, quyền thế lưu manh và bỉ ổi đã hết thời. Nhìn vào đó, ta có
thể thấy, kẻ lừa đảo, sống trên đầu, trên cổ những người dân lương
thiện, chắc chắn phải trả giá. Âu đó cũng là luật nhân quả trong
triết lý Nhà Phật vậy. Đây là một trong những truyện ngắn hay nhất
về cả nội dung tư tưởng và thủ pháp nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện
của Trương Văn Dân:
« …Còn khả năng là lão sẽ đi tìm
cái chết? Tôi không bao giờ tin là điều ấy có thể xảy ra, mà dầu cho là có đi
nữa, chưa chắc lão có thể thực hiện được ý định quyên sinh. Sống thì rất khó mà
chết cũng chẳng phải dễ đâu. Sống và chết đâu có phải tuỳ thuộc ở mình. Lão sẽ
còn phải tiếp tục trả giá cho hành động táng tận lương tâm của mình thêm nhiều
năm nữa… « (Đoạn trích Gã lang thang tóc trắng)
Tuổi thơ đã đi qua chiến tranh,
do vậy bom đạn chết chóc luôn ám ảnh Trương Văn Dân, ngay cả khi đã
sống và học tập ở nơi yên bình. Và chiến tranh đã lùi xa mấy mươi
năm, vậy mà khói lửa, nỗi đau của đất nước, con người còn thấm đấm
những trang viết của ông. Một tiếng súng nổ ở nơi nào đó trên trái
đất này cũng làm cho lòng ông day dứt khôn nguôi. Buổi Chiều Trên Nghĩa
Trang là một trong những tùy bút như vậy của ông. Có lẽ, đây là một
trong những bài tùy bút, tâm bút có lời văn đẹp và sinh động nhất
của ông. Tuy nhiên, nếu không có đoạn kết làm nên cái tứ rất hay, thì
có lẽ tùy bút này đọc xong sẽ trôi tuột đâu mất. Thật vậy, Trương
Văn Dân đã mượn nghĩa trang ở thành phố yên bình, nơi mình đang sống
để nói lên khát vọng sống, khát vọng hòa bình của con người. Có
nhiều người cùng viết về đề tài này, nhưng quả thật rất ít người
viết truyền cảm và mới lạ như ông. Đoạn văn kết dưới đây, dường như,
nhà văn Trương Văn Dân đã lấy ý tưởng ở đâu đó để viết nên. Vậy mà,
nó như một tiếng kêu của những oan hồn khoan xoáy vào lòng người
đọc:
“Sao chúng ta không gom hết vũ khí
trên trái đất đúc thành những chiếc chuông nhỏ và phân phát cho tất cả mọi
người, mời tham gia vào một cuộc đại diễu hành vòng quanh thế giới để đòi hỏi
hòa bình. Đồng loạt, đồng loạt những tiếng chuông cùng lúc gióng lên, ngân vang
trong không gian, truyền đến mọi quốc gia trên quả địa cầu để tỉnh thức tâm
thiện của loài người (Đoạn trích Buổi chiều trên nghĩa
trang).
Ta có thể thấy, nỗi đau nhân
thế, lòng nhân bản cùng khát vọng hòa bình luôn thường trực trong con
người, cũng như những trang văn của Trương Văn Dân. Mỗi trang viết của
ông, như những liều thuốc Aspirin xoa dịu nỗi đau của con người. Nhất
là những độc giả phải xa quê, xa Tổ Quốc như chúng tôi. Nếu được
phép chọn nhà văn điển hình, tiêu biểu đã và đang sống ở châu Âu,
thì có lẽ, ông là một trong số ít người tôi nghĩ đến.
*Tư tưởng. Tình yêu. Một tiếng
kêu tuyệt vọng trong sự bế tắc của xã hội.
Có thể nói, từ Hành Trang Ngày
Trở Lại đến tiểu thuyết Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa, Trương Văn Dân có sự
chuyển biến thật rõ ràng về nội dung cũng như nghệ thuật sáng tạo.
Hình ảnh ẩn dụ, với tính đa tầng, đa nghĩa, buộc người đọc phải
ngẫm nghĩ, và đưa ra những cảm nhận không đồng nhất. Đó là thi pháp
đặc trưng nhất của tiểu thuyết Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa. Thành thật mà
nói, tôi đã phải ngẫm nghĩ khá lâu để tìm tư tưởng, cũng như ý đồ
chuyển tải của tác giả trong cuốn tiểu thuyết này.
Thông thường, khi xây dựng một
câu chuyện tình cao thượng, và lãng mạn nào đó, nhà văn thường lấy
những mẫu nhân vật còn trinh nguyên. Nhưng ở Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa,
Trương Văn Dân đã làm ngược lại cái lẽ thông thường ấy. Ông xây dựng
cái đẹp, cái tình yêu đích thực từ những nhân vật đã trải qua nhiều
lần đổ vỡ, ly hôn. Dường như, thông qua câu chuyện tình này Trương Văn
Dân muốn phá vỡ quan niệm chữ trinh trong tình yêu, một thứ xiềng
xích bấy lâu nay. Cái quan niệm, và sự ràng buộc này dẫn đến rất
nhiều hệ lụy lâu dài cho tình yêu, hạnh phúc gia đình. Nó còn sinh ra
một thứ thú tính, quái đản bán mua, khâu vá trinh tiết của những kẻ
lừa lọc, quyền chức, trọc phú lắm tiền nhiều của. Phải nói, gài
cái tư tưởng rất mới này vào những trang văn của mình, là một sự
dũng cảm của nhà văn. Sự phá bỏ quan niệm chữ trinh, và đưa ra cái
nhìn mới, trinh tiết tâm hồn mới thực sự là tận cùng cao đẹp của
tình yêu, nhà văn Trương Văn Dân đã đưa người đọc đến rất gần với quan
niệm, văn hóa của người Phương Tây. Đọc Trương Văn Dân, tôi lại càng
khâm phục cái tư tưởng tự do của cụ Nguyễn Du. Cách nay mấy trăm năm,
vậy mà cụ đã cả gan phá vỡ lễ giáo, để Thúy Kiều: Xăm xăm băng lối
vường khuya một mình, đến với Kim Trọng, nhân lúc ông bà Vương Viên
Ngoại vắng nhà.
Thật vậy, đoạn trích dưới đây,
Trương Văn Dân đã cho người đọc thấy rõ, cái hương vị trái cấm, họ
đã tìm thấy ở trong nhau là thứ trinh tiết tâm hồn, đẩy tình yêu lên
đến tận cùng của cảm xúc, chứ chắc chắn không phải thứ cảm xúc
xác thịt:
“Tôi ôm lấy Gấm, cả hai tận hưởng dư
vị trái cấm trong cảm giác say sưa. Rã rời và buông thả. Hình hài quằn quại như
đớn đau, nhưng hoan lạc vươn lên đỉnh điểm…phút giao cảm đó là sự tái hợp
hai-phần-người bị tách đôi, mãi mãi kiếm tìm nửa phần còn lại…” (Bàn tay nhỏ
dưới mưa-sách đã dẫn)
Nếu cứ dùng thi pháp để luận
soi, ta có thể thấy Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa không hẳn là tiểu thuyết.
Bởi, Trương Văn Dân đã trộn tất tần tật các thể loại, tiểu thuyết,
tiểu luận, phóng sự…vào trang văn của mình. Theo cách nói của nhà
thơ Trần Mạnh Hảo: Ông trộn các thể loại vào nhau như người trộn men vào cơm
rượu vậy. Qua công đoạn chưng cất này, thứ rượu của Trương Văn Dân đã
làm cho độc giả phải say đứ đừ. Có thể nói, sử dụng nhiều thể
loại trong một tác phẩm văn học, tuy sinh động, nhưng đó là sự mạo
hiểm, nếu nhà văn không có thực tài.
Tình yêu là đề tài quan trọng
bậc nhất của văn học. Cũng như thơ lục bát vậy, viết về tình yêu
thì dễ, nhưng rất khó hay. Và bất kỳ người cầm bút nào ít nhiều
cũng buộc phải viết, thử nghiệm qua nó. Trước đây mấy năm, ở Đức
xuất hiện hai tiểu thuyết, Quyên của Nguyễn Văn Thọ và Bàn Tay Nhỏ
Dưới Mưa của Trương Văn Dân. Cả hai cuốn đều đề cập đến tình yêu và
thân phận người phụ nữ. Tuy hai tác giả này đã và đang sống ở châu
Âu, nhưng xuất thân cũng như hoàn cảnh sống hoàn toàn khác nhau. Quyên
của Nguyễn Văn Thọ được trong nước dựng thành phim, mang sang Đức
trình chiếu, nhằm mục đích tuyên truyền. Do chưa thực trải nghiệm,
hoặc tài văn, nên người đọc ở Đức như chúng tôi, thấy ngay cái giả ở
trong đó. Nhất là khi miêu những pha làm tình dung tục, rẻ tiền của
Nguyễn Văn Thọ. Đành rằng, tiểu thuyết hóa, song những tình tiết, tâm
lý, hành động phải có tính logic, làm cho người đọc có thể chấp
nhận được. Cho nên, Quyên của Nguyễn Văn Thọ thất bại ngay ở mảnh đất
đã sinh ra nó. Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa của Trương Văn Dân tuy không được o
bế như Quyên của Nguyễn Văn Thọ, nhưng có sức sống khá dẻo dai, kể
cả vùng Dresden, Leipzig, nơi đông dân miền Bắc cư ngụ. Phải nói thẳng,
Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa có sức sống như vậy, bởi Trương Văn Dân là nhà
văn có thực tài. Ngoài lời văn chân thực, sáng và đẹp, ông còn có
trí tưởng tượng rất phong phú. Do vậy, đọc những đoạn văn tả cảnh,
tả tình của ông, những kẻ tâm trí, sức lực đã đi sang bên con dốc như
chúng tôi, vậy mà người khí thế cứ dâng lên hừng hừng. Thế mới lạ.
Đoạn văn tinh tế và sinh động dưới đây, không chỉ cho ta thấy cái đẹp
đến thánh thiện của tình yêu, tình dục, mà một lần nữa chứng minh
tài năng phân tích, miêu tả diễn biến hành động và nội tâm nhân vật
của Trương Văn Dân:
“Khi anh đặt nhẹ tôi trên giường thì
tôi vội ôm chầm lấy anh… Môi anh mơn man trên khuôn mặt tôi đầm đìa nước mắt.
Tôi hớp lấy từng giọt, từng giọt, tham lam nuốt chửng như sợ phí phạm những
giọt tình yêu đang chảy trên má mình… Cảm xúc của tôi tăng dần khi toàn thân
cảm nhận những nụ hôn cháy bỏng từ đôi môi thèm muốn của anh… Tôi miên man
ngụp lặn. Bờ môi tôi cuống quýt áp lên cổ, rồi trườn xuống lồng
ngực…anh… Ngọn lửa đam mê trong lòng như đốt tôi thành hơi nước, thăng hoa
trong tiếng rên rỉ và giãy đạp của cảm xúc… Mọi phù phiếm của đời sống đều bị
chìm đi, mất hút, cái còn lại là cảm giác đê mê của sự hiến dâng, cho và nhận,
vút bay lên…”(Bàn tay nhỏ dưới mưa-sách đã
dẫn)
Nếu đọc nhanh, cứ ngỡ Bàn Tay
Nhỏ Dưới Mưa là một câu chuyện tình, với cái kết rất buồn. Nhưng
đọc thật chậm lại, ta mới nhận ra, đằng sau câu chuyện này tác giả
muốn bóc trần cái ung nhọt của chế độ xã hội đương thời. Với cái
chết bởi ung thư phổi của Gấm như một thông điệp cảnh báo sự tàn
phá thiên nhiên, đất nước của những kẻ bán cả linh hồn cho quỷ dữ,
gửi đến người đọc vậy. Có thể, nhiều người có những suy nghĩ khác
tôi, khi đọc Bàn Tay Nhỏ Dưới Mưa của Trương Văn Dân. Và tôi cũng rất
mong như vậy, bởi một cuốn sách mang lại nhiều thông điệp khác nhau
cho người đọc, ấy mới là tác phẩm văn học hay. Ta hãy đọc lại đoạn
trích dưới đây, để qui chiếu và thấy rõ thực trạng của đất nước,
con người, cũng như tư tưởng, ý đồ chuyển tải của tác giả:
“Các người đang khai thác hành tinh
này như thể là không hề có ngày mai. Các người đã bán rừng. Bán đất. Hết bán
trên mặt thì các người đào xới dưới sâu để bán. Các người đang bán những gì có
thể. Bán tất tần tật. Kẻ bán thể xác, kẻ bán vật chất lẫn tinh thần, bán mãi
đến khi không còn gì để bán…”(Bàn tay nhỏ dưới mưa- (sách đã dẫn)
Nhìn chung, văn của Trương Văn Dân
mang đặc tính tư tưởng cao, với thủ pháp độc thoại nội tâm sâu sắc,
mang tính sân khấu kịch trường. Tuy nhiên, thiếu đối thoại, dẫn đến
lời văn chậm, mang đến cảm giác nặng nề cho người đọc. Như một lần
điện đàm với nhà văn Nguyễn Hoàng Đức, khi bàn về văn chương của
Trương Văn Dân, dường như anh cũng đồng cảm với tôi điều này.
Có thể nói, Trương Văn Dân là
nhà văn của nỗi đau. Bởi, mỗi truyện ngắn, hay mỗi trang tiểu thuyết
của ông đều khắc sâu hình tượng, nỗi đau của đất nước và con người.
Từ trong nỗi buồn đau, và tương lai mịt mù ấy, nhà văn khai mở ra một
con đường, một lối đi…
Vâng, con đường đi ra từ nỗi đau
ấy, nói như nhà thơ Thế Dũng: Có những nỗi đau trở thành ánh sáng.
Và tôi tin là như vậy!
Leipzig ngày 4-12-2018
Đỗ Trường