Chiếc ghe chài bành ky lững lờ trôi theo con nước lớn.
Cả tháng nay, chưa khi nào công chuyện của những người bạn ghe nhẹ nhàng như bữa
nay. Sông lớn, nước chảy chậm, tư bề ít ghe xuôi ngược, chuyện chèo chống chỉ giao
cho hai người cầm sào đi dọc từ trước mũi ra sau lái rồi từ lái tới trước mũi sửa
hướng cho ngay dòng. Chẳng bù với mấy bữa qua Vàm Nao, phá Đại Ngãi nước xoáy
như thác đổ, bạn ghe người nào người nấy vật lộn với sóng, mồ hôi mồ kê như tắm,
mệt té ho mà cái ghe cứ xà ninh xà nang lắc la lắc lư như ông tướng thầy ba lúc
thầy pháp lên đàn.
Khỏi chợ Bến Lức đâu độ chừng ăn dập bã trầu, tới khoảng chợ
Đệm, Bình Điền thì trời chập tối. Lác đác trên trời mấy vì sao hôm thập thò nhấp
nháy. Trời sập tối tựa như tấm màn đen được giăng sẵn đâu đó tuốt luốt trên trời
đợi tới giờ rũ xuống để che phủ trần gian. Trăng hạ huyền đã mọc từ lâu phết một
bệt sáng óng ánh. Cảnh vật êm đềm trong gió hiu hiu mát lạnh gợi nhớ người thân
thuộc ở quê nhà. Phải lấy hết can đảm Lành mới theo má bước lên chiếc ghe bự xộn
nầy để xin quá giang. Chuyện quá giang của đàn bà con gái trên ghe thương hồ chủ
ghe đại kỵ. Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, trên ghe trên tàu thiếu gì
người khuất mày khuất mặt. Chuyện đàn bà ngày tháng có thể làm cho người
ta xúi quẩy mất nghiệp như chơi. Nhưng may quá, nhờ tiếng thơm của tía từ trước,
ông bà chủ ghe đã vui vẻ nhận lời. Bây giờ mình chờ đợi những gì xảy ra ở xứ
văn minh sẽ tới. Một mình mình. Ghe càng đi xa phong cảnh càng lạ, càng thấy
nao nao nhớ nhà. Nhớ đám mía trước sân xào xạc tận bờ sông mỗi ngày giặt giũ,
nhớ hàng lu nái im lìm giữa hai gian nhà, nước mưa chứa lâu ngày ngậm một ngụm
cũng đủ mát rượi cổ họng mấy lúc trưa trời nắng chang chang. Nhớ má ưa lúc thúc
dưới bếp làm chuyện nầy chuyện kia không hở tay. Nhớ những buổi tối má con hủ hỉ
dưới yến sáng lờ mờ của cái đèn con cóc dầu mù u nho nhỏ. Bây giờ những thứ
thân thiết đó mỗi lúc một biền biệt, biết bao giờ mới được gặp. Còn anh Hai nữa,
cả tháng nay đi làm xâu vét kinh Ông Đốc đâu miệt Tân Châu – Hồng Ngự mà chớ hề
nghe nhắn nhe tin tức gì về. Nghe nói mỗi ngày nhà nước cho lãnh hai vắt cơm, mấy
hột muối cục với lại một miếng khô mục nhỏ bằng hai ngón tay tréo, trả có xu rưỡi
không đủ mua một bánh thuốc rê mà phải hụp lặn dưới nước giầm mình múc sình xắn
đất. Ở đó muỗi mòng, đỉa vắt. Mình đi đây kể như anh em cách biệt. Cực chẳng đã
bỏ làng chứ thuở tía chưa bị bắt thì nhà đâu đến đỗi. Mắt Lành rưng rưng, muốn
thút thít khóc như ở nhà mà sợ bạn ghe chộ nên phải dằn, phải nén. Nhưng sao
như có cái gì trong lòng đẩy ra làm Lành buồn man mác như lúc nhỏ bị rầy oan.
Lành ngó vô góc, chỗ lườn ghe được phân khoang chứa chén dĩa kiểu. Hàng hàng lớp
lớp, chén dĩa nhận giữa đống trấu đầy ắp. Được vài chục dĩa Càn Long kia chắc đỡ
khổ. Thứ nầy dân chợ họ chuộng lắm. Chánh cống bên Tàu. Mua về chưng trong tủ
kiếng để thiên hạ trầm trồ cũng mát mày mát mặt. Bao nhiêu họ lại không thảy tiền
ra bưng về.
Lành chép miệng quay về thực tế. Nhưng mà người giàu nứt
vách đổ tường, kẻ không có đồng xu dính túi. Họ cho đặt chưn lên ghe là may rồi.
Nếu không, biết đâu bây giờ mình còn lụi đụi đâu đó dưới miệt dưới. Quá giang từng
chặng mệt hơn nhiều. Chắc sáng mai tới bến. Rồi lại còn chuyện lạ nước lạ cái,
hỏng biết có gặp người bà con hông. Chỉ biết họ ở chỗ xóm Đạo Chợ Đũi, gần trường
con gái Chợ Đũi, mà không biết chắc ở đâu. Để nữa lên đó cất công kiếm coi. Kiếm
hỏng ra là phận gái bơ vơ quê người xứ lạ đó. Lành tặc lưỡi như thấy má mình vô
lý kỳ cục. Khi khổng khi không cái bắt người ta đi khơi khơi. Rồi biết chuyện
gì sẽ xảy ra? Ở quê nhà bữa rau bữa cháo nhưng hủ hỉ có mẹ có con. Lo gì mấy
chuyện lặt vặt ăn uống. Có mắm ăn mắm, có muối ăn muối. Với lại chim trời cá nước
thiếu gì, lấy lộp, lấy nò đặt một ăn cả ngày hỏng hết. Rau cỏ mọc lu bù sau vườn,
lền khên thiếu điều muốn nhổ bỏ. Đói đâu mà sợ? Có lẽ má sợ tụi đầu trâu mặt ngựa
trong xóm trong làng đang được thế được thần làm trời làm đất. Rồi Lành sụt sùi
ngang, khóc ngon khóc ngọt. Nhớ tới lời dặn lúc chia tay càng thấy chuyện má
con gặp lại mong manh như cánh chuồn chuồn. Chắc con biết chuyện người đàn bà
có chồng con bị cọp ăn mà vẫn không dọn nhà đi nơi khác? Tại vì chỗ đó không có
quan lại khắc nghiệt đó con. Hương chức hội tề địa phương ác độc nhũng lạm còn
ác hơn cọp dữ. Bởi vậy ông bà mình mới nói: Tàn chính mãnh ư hổ. Con phải
đi khỏi chỗ nầy để bảo vệ thân... Giọng má run run trong nước mắt. Thân gái xa
nhà hiểm nguy nhưng đi được cứ đi. Ai cũng muốn xa chốn nầy. Thời cuộc làm mấy
thứ lộn tùng phèo hết. Làng nước bây giờ có thuộc về mình nữa đâu! Thuộc về tụi
nó. Mà tụi nó móc ngoéo nhau rễ chùm rễ mớ. Người dân như mình đành chịu cảnh
thờn bơn thôi. Lép một bề. Sống tới ngày nào hay ngày nấy. Đợi chờ. Mấy cây rơm
trước sân kia nếu biết đi đã đi mất từ lâu rồi...
Bây giờ mình ra khỏi vòng tay của má, tự đối phó với đời.
May nhờ rủi chịu. Phải quyết định lấy, không còn chuyện mỗi chút mỗi “má
ơi.”
Tiếng hai người bạn ghe kéo Lành ra khỏi giòng suy nghĩ triền
miên.
“Tới Ba Cụm rồi đó. Anh biết bối Ba Cụm mà, lơ mơ nó cuỗm
hàng hết bị nạo tróc da đầu đó. Với lại hai gói áo quần của tụi mình. Có bề gì
có nước bận xà lỏn ra chợ.”
“Biết rồi, đừng làm tài khôn. Tụi nó thường đi trên ghe cui
hay ghe vàm. Để cho thiên hạ tưởng đâu làm ăn chơn chất. Tụi bán vàm, bán rỗi
đi xuồng nhỏ xẹt qua xẹt lợi, coi trời ơi đất hỡi trái lại thiệt thà... Ở đời
thiệt khó. Đâu ngờ!”
“Ừ. Cũng tại bị không ngờ mà hồi nẵm có chiếc ghe chài chở
lúa, tụi bối xông nhang mê xúc cha nó gần hết ghe. Tom góp quần áo vàng vòng của
bà chủ bộn bàng...”
“Xuỵt. Xuỵt. Kìa cái ghe cui ở đàng sau đương cặp theo ghe
mình cà. Dám mấy chả lắm chứ hổng chơi đâu. Coi bộ dạng sanh nghi quá, cứ xôm
xôm tới hoài.”
Lành lấy ống tay áo dụi nước mắt ngó về phía sau. Một chiếc
ghe cui cũng đi theo dòng. Ghe bự bề ngang mà cụt đòn, coi quê kệch, loại ghe chở
củi, chở tràm. Trong bóng tối, cái mui lở ngoài sau lái như một bệt đen in trên
nền trời thưa thớt sao khuya. Trên đó thấp thoáng bóng hai người. Một điếu thuốc
lâu lâu lóe sáng rực, quơ lên quơ xuống, một cái đầu tóc bới khắc rõ nét trên nền
trời mờ mờ tỏ tỏ xa xa. Trong bóng đêm, một giọng hò ngọt lịm lan truyền qua
không khí tĩnh mịch đi thẳng vô từng lỗ chân lông người nghe. Ngọt hơn đường
cát, mát hơn đường phèn. Lành rùng mình, chân tay nổi da gà. Tiếng hò quí phái
như công tử ngày xưa dạo chợ, dịu nhĩu như con gái giã gạo chày đôi, chày ba
hát hò dưới trăng.
Hò ơ... Có gió đông hung mới biết tùng bá cứng
Có ngọn lửa hồng mới biết thức vàng cao
Thuyền quyên sánh với anh hào
Đây không thả lá gieo đào như ai
Hò ơi... Trúc kia đã lợp cùng mai
Như chàng họ Lục sánh vai với chị Hai họ Kiều
Xin nàng giữ dạ đừng xiêu
Nếu một mai (hò ơ...) thuyền anh ra biển Bắc, ruột đau như thắt, nước mắt dầm dề,
xa cách hương quê, giáp vòng Lục Tỉnh, anh cũng liều (mà... hò... ơ) trở về
thăm e... m...
Lành khớp ngang như lúc nhỏ đứng trước cây roi mây cật dài sọc
của ông thầy già chi hồ giả dã. Muốn lên tiếng mà miệng cứ như quíu lại. Mở đầu
nói chí mình, khuyến dụ là chuyện bình thường, cách buông vần câu thúc ở trên,
phóng túng ở dưới, tỏ rằng đã lăn lóc nhiều trong câu hát điệu hò. Điệu nầy
mình chỉ có nước vảnh tai nghe chứ không thể nào đối đáp được. Hai cái ghe tiếp
tục trôi. Không gian im lặng nặng nề, âm thanh e...m.. e...em... vẫn còn bao
quát đâu đây trong gió đêm lành lạnh, quấn quít trong làn da chéo áo mọi người.
Lâu lắm mới có tiếng hò đáp của giọng con gái trong trẻo,
quyến rũ, nhưng ngắn gọn như bất cần lời ong tiếng ve:
Hò ơ... Gá duyên thì phải lựa (mà) xem,
Hò ơ... Coi thử (hò ơ...) đó là thằng Bùi Kiệm hay anh Vân Tiên (hò ơ...) em mới
trao lời...
Tiếng hò dứt mà Lành vẫn còn bàng hoàng chưa tỉnh. Giọng người
ta trong vắt như nước nhìn thấy sâu dưới đáy, cao như nhạn lượn chín từng mây.
Giọng của mình cũng có tiếng ở chòm xóm đó, nhưng mà so với người thì có nên
thân nên hình gì đâu. Bất quá như mới biết múa quọt quẹt trước thầy võ vậy
thôi. Đi xa mới biết trời cao đất rộng. Cao nhơn tất hữu cao nhơn trị.
Hò ơ... Lên xe (mà) nhường chỗ bạn ngồi, nhường nơi (mà)
bạn dựa, hò ơ... nhường lời (mà) bạn phân...
Hò ơ... Anh đây cũng muốn (mà) kết nghĩa giao ân
Hò ờ... Anh không phải là thằng Bùi Kiệm, sao chín mười phần (mà) bạn lại ngại
nghi...
Lành đã hiểu, họ hò giao tình, buông ong thả lá, giả đò như
họ không đi chung ghe, giả đò như không quen biết. Cũng vui. Họ mở thắt bằng ý
thơ Vân Tiên. Để coi đi xa tới đâu.
Người con gái bắt quàng thiệt đẹp. Vừa dẫn sách, vừa nói chí
mình.
Hò ơ... Thể Loan là đứa vô nghì….
khinh bần phụ khó, (hò ơ...)
người đời (mà) được mấy kẻ ưa...
Như vậy là quá rõ, còn đánh tiếng mình đã có nơi. Mọi chuyện
đổi thay đều không hợp với luân thường đạo lý. Thường mở đầu cách nầy khó cho
phe nam. Cánh cửa đã đóng, ván đã đóng thuyền.
Nhưng giọng nam vẫn cất lên vừa tha thiết dụ dỗ, vừa khinh
thường ngạo mạn:
Em ơi, gái kiếm chồng nơi giàu sang nương dựa, đặng sáng
với chiều lên ngựa xuống xe, đừng lấy thằng ghe chài, sáng ngồi lườn tối nằm
be, để thân con gái má phấn không kẻ chở che, uổng đời...
Hai người bạn ghe cười với nhau. Tụi nó xách mé mình rõ
ràng. Có chọc ghẹo ai đâu? Nói gì thì nói, sao mạt sát ghe chài. Tức quá. Phải
mình biết hò! Họ ngó Lành như hỏi ý, như cầu hiền. Lành bối rối. Lên tiếng hay
không? Mẹ dạy con gái phải ít ăn ít nói. Miệng bằng tay, tay bằng miệng đâu tốt
lành gì. Thôi nhắm mắt bịt tai, ngày mai tới chỗ. Cuộc đời mới trước mặt đáng
lo hơn. Vui gì mà hát với hò. Quan trọng gì mà tranh hơn thua lời ăn tiếng nói.
Xa trong đêm vắng, tiếng người con gái cất lên buộc tội:
Chuyện nợ duyên ông Tơ bà Nguyệt định bởi Trời
Anh ơi đừng giở thói bốc rời, ví như thằng Bùi Kiệm để tiếng đời hậu lai...
Rồi bắt qua giọng khác:
Lọng che sương dầu sườn cũng lọng, ô bịt vàng dầu trọng
cũng ô. Trai như anh mù văn dốt võ, gái như em vẽ phụng thêu rồng, phải chi anh
là con trai của Lục Ông thì em gắng công chờ đợi chứ lấy chồng làm chi...
Lành cười. Hay quá. Câu trả lời gián tiếp. Đáng đời. Ai biểu
chọc gái. Bây giờ có nhiều chuyện không biết đâu mà nói. Lắm kẻ tình tào khang
tấm mẳn bỏ lửng để vui với bọn hương chủ, hương kiểm, hương tuần dốt nát. Nhiều
người bấm bụng trao duyên cùng người mình khinh bỉ, hy vọng gỡ rối cho gia
đình. Chuyện đó thiếu gì. Mấy tiếng “Theo nghĩa quân chống lại Đại Pháp” như
lưỡi gươm kề cổ ai ai cũng sợ. Mấy tiếng “tàn dư ngụy đảng, tay chưn bộ hạ cựu
trào” như một thứ thuốc nổ làm bay cửa bay nhà. Bọn hương chức hội tề được
dịp là làm tới có thương ai, có xúc động vì ai bao giờ. Chúng rải cùng đường một
lũ chó săn rình mò, nay phao vu đặt rượu lậu, mốt tố cáo bán sớt lúa trốn thuế.
Đẩy xô đàn ông vào tù ngục để giở thói bóc rời đàn bà. Chúng ví như thằng Bùi
Kiệm để tiếng đời hậu lai, lền khên trong làng, trong xóm, khen Đại Pháp anh
hùng không ngượng miệng, hoan hô Pháp Lang Sa vĩ đại không tiếc lời. Chúng sung
sướng được làm chim cú nhưng muốn đậu cành mai, hãnh diện làm khỉ rừng xanh,
nhưng trong bụng muốn vin cành quế. Quên câu dầu sườn cũng lọng dầu trọng
cũng ô. Phận mình ra đi một phần cũng vì lẽ đó. Chúng lấp ló ngoài ngõ, rồi
sẽ bước vô nhà. Ở xứ văn minh nầy thì khỏi đi, thiếu gì người tài! Lành cười mắc
cỡ với mình. Nếu có gì, mình sẽ tự nguyện như Nguyệt Nga, ôm bức tượng đợi chờ
dầu da nhăn, má hóp, dầu chân run, tóc bạc cũng được. Đời người mấy ai được gặp
Vân Tiên, đâu phải ai ai cũng có thể thủ tiết như nàng Nguyệt Nga? Duyên may một
đời người chưa dễ gặp...
Trên sông đêm, tiếng hò vẫn tiếp tục, đang biến dạng tới một
hình thức cao hơn, gần với bản vọng cổ hoài lang điệu Bạc Liêu...
Bớ em ơi, em đừng thấy ăn bận quần dài áo rộng, gấm nhiễu,
khăn điều, lược đồi mồi giắt tóc, giầy da bóng chưn mang, em kiến là người quân
tử. Em đừng thấy ăn bận quần rách áo rưới, vải thô vải đũi nón nỉ lủng đội đầu,
chân không trần sình dất, em chê là kẻ tiểu nhơn. Chớ em không quên chuyện Thạch
Sanh đóng khố gẩy đờn, bắt con chim đại bàng cứu nàng công chúa, về sau có ai
hơn được chàng...
Bớ em ơi, em đừng học thói Thể Loan, ham nơi vinh hiển, bỏ
đàng (đã) hứa duyên. Em ơi cũng đừng học thói Điêu Thuyền, sớm mơi ôm Lữ Bố,
chiều về tựa kề người nó gọi bằng cha, em hãy ở sao như Kiều Nguyệt Nga, giữ niềm
chung thủy sang qua kết nguyền, về sau gặp lại Vân Tiên...
Lành chập chờn trong giấc ngủ giữa tư bề sao rơi, bên tai
văng vẳng câu hò trộn với những câu thơ Vân Tiên vẫn thường nghe hồi thuở nào
xa xăm lắm. Trong giấc mơ, Lành sung sướng mỉm cười với hình ảnh Vân Tiên đầu
đội kim khôi, tay cầm thương bạc, mình ngồi ngựa ô lẫn lộn với một tình cảm
thẹn thùng bỡ ngỡ của bước đầu gặp người tình, khoan khoan ngồi đó chớ ra,
nàng là phận gái ta là phận trai...
Nước sông vẫn chảy lững lờ, chiếc ghe cui xa dần khoảng
cách, trong đêm vắng mơ hồ đâu đó có tiếng người chùi xuống nước. Nhẹ nhàng,
thiệt nhẹ nhàng...
Mấy ngày giáp Tết như một đám tang trong lòng Lành. Bộ mặt
âm u của ông bà chủ làm áy náy mọi người. Tiếng hò được trả bằng giá cắt cổ
mổ họng thắt hầu bao. Tiếng hò đu đẩy mọi người vào cảnh phiêu bồng dọn đường
cho bọn bối. Gói quần áo bay bổng theo hình ảnh Vân Tiên. Cái ô nữ trang, tiền
bạc của chủ ghe mất hút theo những lời lý hò huê tình ngọt lịm. Mình khổ đã
đành, vì quá thờ ơ, vì không đoán trước được chuyện xảy ra. Dân chúng nghèo khổ
vì sưu thuế, phải bóc lột nhau để sống. Làm gì có chuyện hát hò suông được. Họ
bê bối để sinh tồn, thông minh vặt để khỏi bị hủy diệt. Mấy năm trước đâu có cảnh
nầy. Thiên hạ hiếu khách, thích mời mọc đưa đón chiêu đãi người phương xa.
Nhưng sự mất mát của vợ chồng người chủ ghe bị hiểu như một sự xui xẻo do mình
mang tới. Người ta không chịu nhìn thực tế vì đâu có bối. Người ta cằn nhằn những
người gần gũi. Trông mong tìm gặp bà con để rời khỏi chỗ nầy. Nếu hình ảnh cha
mình không quá lớn trong lòng họ thì chắc mình đã cù bơ cù bất, lang thang đầu
đường xó chợ rồi. Biết chuyện gì đã xảy ra. Rồi chuyện cái kiềng vàng nữa. Tên
anh chị ở Cầu Ông Lãnh đã giựt ngay trên cổ mình mấy ngày trước làm mình thiếu
điều muốn lọi cần cổ. Nếu không nhờ anh Nam. Phải anh Nam không? Lúc đó mình vừa
mừng vừa sợ, nghe được tiếng được tiếng mất, không biết trúng tên không – bắt
thằng đó phải trả lại ngay chiều hôm đó, bây giờ mình không còn đồng xu dính
túi. Người sao vô tình thi ơn bất cầu báo. Từ đó tới nay cả tuần mà cũng
không lảng vảng đâu đây để mình nói một tiếng cám ơn. Mình còn ở đây có bao lâu
nữa đâu? Rồi chân trời góc biển, biết đời đưa đẩy đi đâu! Lành bỗng nhiên ngượng
nghịu ngó xuống hàng nút bóp của cái áo bà ba mới hồ dương giấy hiệu Nhảy Đầm hồi
hôm qua. Mình phải lòng rồi. Nhớ nhung, trau chuốt. Nguyệt Nga đã gặp Vân Tiên.
Nhưng mà kết tuồng có chăng như ý? Ngó lên bờ, mọi người như đã rút hết vô nhà
để sửa soạn cúng ông bà, chờ giờ tốt xuất hành đón Xuân hái lộc. Từng đống dưa
hấu tràn đường, cao nghều nghệu như núi, mấy trăm cần xé cam quít, cả dọc ghe
chuối, cả đoàn ghe hàng bông mấy bữa trước, tưởng chừng không thể nào tiêu thụ
hết, bây giờ chỉ còn trơ trọi mấy đống rác rến ngút ngàn. Bữa tiệc thịnh soạn
cho bầy ruồi xanh vu vu khó chịu. Như bãi chiến trường sau cơn giặc và chiến sĩ
không may của cả hai phe... Lành nao nao với sự so sánh bi quan vừa hiện ra
trong trí. Có lẽ mình chịu ảnh hưởng của cuộc hành trình vừa qua. Có sóng gió,
có trộm cắp, có hình ảnh Nguyệt Nga tự trầm. Không nên. Có gì đâu? Còn mớ quần
áo đã mất? Người còn thì của cũng còn. Mấy bộ đồ vạt của bà chủ cũng tạm đỡ mấy
ngày Xuân. Tìm được nhà bà con rồi thì mọi chuyện sẽ đương nhiên giải quyết. Bữa
nay mồng một Tết mình cú xụ nữa thì sanh giặc.
Lành sửa soạn cái cười thiệt tươi chào hai vợ chồng khi họ từ
tấm bửng sửa soạn bước lên ghe sau khi đi xin xâm về. Người đàn bà tươi cười
nói với Lành, chỉ về phía chỗ đoàn múa lân đang tụ tập, chỗ có tấm bia ông cọp
trước đình Cầu Muối.
“Lành, em lên bờ coi lân Sài Gòn kìa. Vui lắm, mấy thuở lên
đây gặp dịp Tết...”
Rồi như đoán trước được lòng Lành, bà ta nói thêm:
“Ối, hơi sức đâu mà buồn. Chuyện năm cũ hao tài khỏi tán mạng,
nó lấy gói quần áo của em, như gánh cái xui xẻo của em. Sang năm mới sẽ khá
hơn. Coi lân đi. Để ghe cộ đó dì coi cho. Ngày tư ngày Tết mà. Nếu có thì giờ
ghé chùa Bà xin lá xâm đầu năm. Bà linh lắm. Đi dọc theo mé sông tới đầu chỗ đường
Bồ Rệt thì thấy liền...”
Để vui lòng người, Lành dạ dạ rồi bước lên tấm bửng lên bờ,
nhập vào đám đông đang bắt đầu lũ lượt. Từ xa nhạc trống lân dồn dập, tiếng trống
tùng tùng, tùng cắc có sức hấp dẫn kỳ diệu. Lành nhập vào đoàn người thưởng ngoạn
hồi nào hổng hay. Giữa vòng khán giả, đoàn người múa lân ăn bận quần áo võ sĩ gọn
ghẽ tề chỉnh giống như tấm hình vẽ trên tờ giấy bản mục nát, mối ăn lỗ chỗ được
cuộn tròn nhét phía sau trang thờ mà Lành thường được coi trong mấy ngày giỗ lớn
của gia đình. Lành nao nức và tự thấy mình lạ lùng. Họ múa lân, họ đánh võ, họ
biểu diễn thương, đao; chuyện nầy thường quá, có gì đâu? Mọi năm đoàn lân Phụng
Hiệp bắt đầu múa riết từ xế chiều ba mươi tới hết ngày mùng năm, coi đà mãn
nhãn rồi. Nhưng lân Lục Tỉnh quê mùa rẫy bái thế nào cũng thua lân chợ, chánh cống
Sài Gòn. Quần áo bình thường bà ba vải ú đen, chưn quen đạp sình đất, nứt nẻ,
múa hay thì có hay đó nhưng mà thấy nó kỳ kỳ. Quần áo của đoàn lân nầy xao xuyến
lòng Lành. Ống quần cột túm bằng dây cao su ràng rịt lên tới ống quyển. Áo chẽn,
thắt đằng chỗ bụng, có vẽ cái đầu lân đỏ chói phía sau lưng. Nón lá nhỏ vành,
sơn đỏ, trên chóp có đính một cái ngù nhọn lễu. Giống hệt như chú lính thú ngày
xưa trên Cao Man, Cần Giọt, chỉ có điều họ không có đầu tóc. Họ cũng không để
râu. Nhưng bao nhiêu đó cũng đủ để kỷ niệm hồi còn nhỏ hiện về. Cặp mắt thành
kính, mấy ngón tay run run trân trọng của tía trước mấy cây bạch lạp lung linh,
khi vuốt tấm hình:
“Ông con đó. Người lãnh chức Cai Đội trong đoàn nghĩa quân của
Trương Công, chịu trách nhiệm từ bờ sông bên nầy Cần Giuộc tới cửa Gò Công, ra
mút tới mấy Hòn Đất, Hòn Cu ngoài biển. Sau nầy, Trương Công bị phản, quy thần,
nghĩa quân tan nát. Người dắt dìu tía về đây, giờ thì mọi sự đổi thay, cơ trời
chuyển dịch, lòng người ly tán. Tía chỉ mong giữ gìn tiết tháo, hốt thuốc giúp
đời, đợi ngày theo ông bà. Chuyện đội đá vá trời để người tài đức...”
Cặp mắt tía long lanh, mơ màng. Chút hãnh diện về dòng dõi
lâu lâu mới được nhắc tới pha với sự an phận thủ thường của một cuộc sống tránh
né lâu ngày chầy tháng thấp thoáng trong ánh mắt nhìn mông lung đó. Hai tía con
ngồi ngó ra cửa hèn lâu, mọi người theo dòng suy gẫm của riêng mình...
Trời càng xế trưa, càng nhiều người túa ra từ mấy căn nhà xa
xa trong xóm, theo tiếng trống thúc giục. Con lân có hàm râu bạc dài ngót gang
tay đang quay bên nầy, nghinh bên kia chờn vờn như hí cầu, múa sừng như tranh
châu trước căn nhà có treo tiền. Cặp mắt lồi nhúc nhích, trợn dọc trợn ngang.
Cái miệng lớn tổ chảng hoác ra quặp lại như sẵn sàng nuốt trọng ai đó trong đám
người bu quanh. Cái sừng chiết đen thui, cong queo, mỗi lần chồm tới như muốn rạch
bụng người coi. Ghê thiệt. Nghề nầy mình đâu có phải tay mơ. Múa đầu lân bằng
hai tay đã đành mà múa luôn hai cẳng với những cái đá, cái co chưn, cái thủ bộ
lẹ làng gọn ghẽ, dòm sơ qua cũng biết tay nghề. Mười mấy phong pháo nối với
nhau rũ từ mái nhà xuống gần sát đất, được châm ngòi. Tiếng nổ lốp bốp đùng
đùng làm tai ai tai nấy đều kêu vo vo. Con lân, lạy thụt lùi ba lạy trước ngạch
cửa. Nó ngước lên ngó cái cờ đỏ thêu mấy chữ vàng “Cầu Ông Lãnh Hoa Việt
Thanh Niên Lân Hội” lòng thòng mấy cây cải “xà lách” và một dọc giấy
“ngẩu” mới tinh được treo chót vót trên nóc nhà rồi múa loạn xạ như giận
dữ. Những tiếng chắc lưỡi hít hà nổi lên đây đó. Đã thiệt. Nặng bộn chớ bộ chơi
đa. Múa coi nhẹ hổng, như Hạng Võ cử đỉnh. Cả giờ rồi coi bộ có thấm thía gì
đâu.
Một nhúm năm người lo dựng lên một cây tre tầm vong già, bự
bằng bắp tay, cao nghều nghệu. Họ lấy thế kềm cứng vây tre. Con lân múa một
vòng, ngó lên, ngó xuống như ước lượng trước khi leo. Trò nầy Lành đã được coi
một lần ở chợ Cần Thơ lúc nhỏ. Người múa lân máng cái đầu lân vô một cánh tay,
leo lên cây tre thẳng tắp, trơn lu. Tuốt trên chót vót có xỏ ngang một thanh
tre nhỏ, anh ta sẽ nhào lộn trên đó, trong tiếng trống. Chòm râu trắng phất phơ
theo chiều gió, oai phong lẫm liệt như lão tướng xung trận. Thình lình tiếng trống
gò lại nhỏ hơn, rời rạc hơn, con lân bỗng nhẩy phóc đứng trên một cái ghế đẩu
múa may một đổi rồi đưa ra một chưn thẳng tắp. Từ trong đám võ sĩ đứng đàng
sau, một con lân râu muối tiêu nhỏ thó, mặt mày cũng vằn vện vậy, nhưng có vẻ
nhu mì hơn, chầm chậm bước ra. Cách đi đứng múa may, chờn vờn cũng nhẹ nhàng
phong nhã, phiêu hốt. Nó lạy con lân râu bạc ba lạy rồi chun qua dưới chưn chầm
chậm, khép nép như sợ sệt. Lành ngạc nhiên. Thói thường chỉ có lân lạ mới lạy
chạy mặt nhau thôi. Còn đây hai con lân cùng đoàn mà. Họ làm ăn cái gì kỳ cục vậy?
Có tiếng oang oang của một người muốn cho thiên hạ biết mình
ta đây thông thạo:
“Lân Cầu Muối lạy tôn lân Cầu Ông Lãnh làm đại ca đó. Nó chịu
nhục lòn trôn giữa chợ. Như Hàn Tín lúc thất thời. Tám năm rồi, năm nào nó cũng
phải làm cái mửng nầy. Có năm còn bị phun nước miếng lên sừng. Có năm bị giựt
râu...”
Người khác kể rành rọt lớp lang ý chừng là dân cố cựu, nhau
rún ở đây:
“Từ hồi có trận chém lộn ở xóm họ đạo Chợ Đũi gần chỗ mả của
Á Thánh Gẫm vì chuyện giành múa cho nhà thông gia của Bá hộ Xường, Sáu Tiết,
anh chị của lân Cầu Muối, bị chém chết, đoàn lân rã đám. Nhưng Út Hồng, anh chị
bự của lân Cầu Ông Lãnh, cứ cho làm chuyện kỳ cục nầy hoài. Mỗi lần coi là mỗi
lần tức muốn bể bụng, nhứt là nhà mình ở xóm Cầu Muối. Tuy hổng ăn nhập gì tới
mình, nhưng mà khó chịu...”
“Anh biết tại sao không? Út Hồng thấy một vùng nhỏ híu bằng
bụm tay mà có hai anh hùng. Như nước có hai vua vậy mà... Làm sao anh ta chịu
được nên bắt tay với đám “mã thầu dậu” ở Chợ Lớn, đám Tây u xếp tụi bồi
bếp ở Bồn Kèn lừa dịp chém lén Sáu Tiết trong khi hai đàng đã hứa với nhau là bất
tương xâm, chỗ ai nấy ở, đường ai nấy đi...”
Ngừng một lúc như để lấy hơi, ông ta nói thêm, có dây có nhợ:
“Tội nghiệp đám em út, lớp bị mua chuộc, lớp giải nghệ, tứ
tán hết. Đã vậy mà Út Hồng còn chưa bằng bụng nên diễn tích nầy để làm nhục mấy
tay anh chị còn sót lại của lân Cầu Muối chơi. Thêm nữa, để dằn mặt mấy người
muốn làm sống lại đoàn lân cũ. Bây giờ họ một mình một chợ, muốn làm mưa làm
gió gì hổng được? Ai vô đó mà cản họ? Nhưng mà... làm vừa vừa chứ. Làm quá ai
mà nhịn...”
Lành nghe hết câu chuyện. Cô lắc đầu. Thiệt hết chỗ nói. Chết
rồi mà cũng không yên. Người ta giải tán rồi còn kéo ra làm xấu làm hổ. Vậy
cũng mang tiếng anh chị một khúc sông, một bến chợ. Người theo mình trùng trùng
điệp điệp đâu cũng ngót nghét cả trăm có ai tranh cãi gì đâu? Làm chi chuyện
thù vơ oán chạ. Nhẹ thể mà thêm mất lòng mất bề?
Tiếng trống vẫn tiếp tục nhẹ nhàng, lơi nhịp. Con lân râu muối
tiêu vẫn kiên nhẫn lòn tới lòn lui dưới chưn con lân râu bạc vênh vang. Những
giọng cười thinh thích hăng hắc chen giữa những cái nhăn mặt xốn xang trong
đoàn võ sĩ. Một vài tên anh chị đâu đây xì xào mấy tiếng chửi thề bất bằng “đ.
họ” và những cái háy nguýt nháng lửa. Không khí căng thẳng như bữa dàn trận
chém lộn hồi năm ngoái ở Lăng Tô giữa đám anh chị bên Khánh Hội với mấy tay tổ
xóm Cầu Kiệu mà Tây Tà phải trầy vi tróc vẩy mới giải tán được...
Nghe chuyện, mình là đàn bà con gái mà cũng giận tím gan,
cũng bứt rứt khó chịu. Như bến mình đậu ghe thiếu mặt anh hùng. Như đã lầm trao
thân gởi phận nhằm anh chồng bị thịt, giá áo túi cơm...
Nhưng Lành không phải bực bội gì lâu. Chuyện tức nước bể bờ
trước sau phải có... Con chó dồn nó vô chưn tường nó còn quay lại cắn, huống
chi người. Một tiếng hét muốn bể lỗ nhĩ từ trong đám võ sĩ rồi một người hai
tay cầm hai thanh mã tấu bự bản, đưa thẳng lên trời nói trong nước mắt:
“Đại ca ơi... Em chết bữa nay. Em chịu hết nổi rồi. Tụi nó
làm ô nhục mình quá. Em chết thiệt đẹp, thiệt ngọt để rửa nhục cho anh em mình
nè đại ca...”
Anh ta hươi đôi mã tấu sáng loáng a thần phù vô chém con lân
Cầu Ông Lãnh. Anh chàng múa lân hết hồn lật đật đưa đầu lân ra đỡ. Hai thanh mã
tấu phụp xuống ngọt như thể lướt qua thân cây chuối non. Cái đầu lân bị xả làm
ba miếng lủng lẳng trên nan tre. Một tiếng ra lệnh bằng giọng Việt Nam trại trại
nhưng sắc như dao thét lên từ đám người bận đồ xá xẩu đứng lu bu chỗ ông địa
làm trò.
“Chém nó. Chém chết cha nó đi, thằng phá đám, thằng phản
thùng..”
Đoàn người đi chợ Tết coi lân kinh hoàng chạy túa như ong bể
ổ. Tiếng hét, tiếng la, tiếng dao chặt vô thịt, tiếng người ngã, cả thảy hợp
thành một âm thanh khiếp đảm, chết chóc như trận giặc chòm. Lành bụm mặt chạy
thục mạng để khỏi phải thấy loạn đao trên thân thể một người. Trong cơn hoảng hốt
bất chợt Lành mơ hồ thấy người anh chị yên hùng đó có gương mặt phảng phất anh
Nam...
Ngày Tết qua lâu như cả chục năm dài. Câu chuyện thằng Nam Cầu
Muối chém lân Cầu Ông Lãnh để chịu chết chuyền từ miệng người nầy sang người
khác. Nhiều người thán phục, lắm kẻ chê bai, ai cũng có lý riêng: Anh hùng! Xuẩn
động! Nhưng ai cũng là người đứng ngoài. Bàng quan mạnh miệng. Riêng Lành đau
thấu tim gan. Người chết xuất hiện trong đời một lần thôi, nhưng như từng nối kết
thân thuộc từ muôn trùng thời gian của thời Bàn Cổ. Việc ghi ơn giờ đây trở
thành nhỏ nhoi so với hành động yên hùng. Câu nói, chết để rửa nhục cho anh em
nhảy múa trong đầu Lành khi ăn khi ngủ, vang dội trong trí lúc đi chợ, nấu cơm.
Nó kéo hồn Lành ra khỏi thân xác, nhập vô cảnh giới nào đó mù xa trên chín từng
trời. Nó giở hổng Lành lên khỏi mặt đất, lửng lơ, tách khỏi thế giới trần tục bợn
nhơ. Lành trở thành xa vắng trong khi có mặt, ngủ say trong khi đi đứng bình
thường.
Nhiều lần bà chủ ghe liếc Lành chắc lưỡi nói với chồng:
“Tội nghiệp. Con nhỏ sao mà như mất hồn. Nó lơ ngơ láo ngáo
cả ngày. Điệu nầy làm sao nó kiếm cho được nhà bà con. Hổng biết rồi mình giải
quyết làm sao. Bỏ thì thương, vương thì tội...”
Lành bắt gặp tiếng thở dài chấm câu sau câu nói. Tiếng thở
dài thương hại đặc biệt đàn bà. Nàng nghĩ mau về Nam. Về Vân Tiên. Về Nguyệt
Nga. Về trường hợp mình. Sao lại tự nối kết đời mình với một người chưa chắc đã
biết tên mình, chưa tỏ một chút gì tình ý, hơn nữa đã chết rồi. Chắc mình bị
oan hồn xui ghẹo. Hồn người chết đâm chết chém vất vưởng không siêu độ được phải
tìm chỗ nào đó tạm trú. Làm cô hồn. Làm một thứ ma đưa lối quỷ đưa đường. Phải
đi ra chỗ Một Hình van vái mới được. Mình thề sẽ thương yêu kính mến anh ấy trọn
đời và cầu vong hồn anh được siêu độ. Vừa thề vừa vái. Một công hai ba chuyện.
Bộ đồ bà ba cổ bà lai bà chủ cho hôm Tết được lấy ra mặc.
Cái áo hơi rộng, nhưng coi bộ còn tốt, cái quần vừa vặn. Lành vắt ngang cái
khăn rằn quanh cổ, buông lòng thòng hai đầu xuống, đong đưa trước ngực, xăm xoi
ngó vô kiếng, mỉm cười với mình, rồi đon đả lên bờ. Trời xê xế, đèn đường bắt đầu
được thắp. Trên đường Lò Heo, mấy con heo bị dồn trên xe cá chở vô lò kêu eng
éc buồn thảm đến nhức đầu. Phía gần Đường Giữa chỗ hẻm nhỏ nối với đường
Boresse, xóm Lồng Đèn Kỹ Nữ, đã bắt đầu thắp sáng đỏ xanh. Lành bước mau, đỏ mắt
vì mấy cái nhìn sàm sỡ của khách tìm hoa. Mấy cái xe kiếng lộp bộp móng ngựa
trên đường chen với tiếng ken két ê răng của niền bánh nghiến trên mặt đường
đá. Từ xa, xe lửa điển Sài Gòn – Chợ Lớn xẹt lửa trên nóc, in một đóm lửa tua tủa
ra như pháo bông trong đêm càng lúc càng rõ, tới gần, qua mặt Lành rồi ngưng ở
nhà ga Cuniac. Lành vui vui với xứ văn minh về đêm. Đèn đuốc sáng trưng, người
ta đi lại dập dìu. Chẳng bù với xứ khỉ ho cò gáy quê mình, mới sụp mặt trời ai ở
nhà nấy, buồn thỉu, buồn thiu …
Từ Một Hình, Lành thả dài theo bờ sông, về lại ghe, kiểng
nhà thờ Nhà Nước rềnh rang đổ tám giờ. Nam thanh nữ tú dập dìu chỗ vườn bông Đô
Đốc.
Mấy thầy thông thầy ký mang giầy “ăn phón” da bóng ướt
sức giở lên làm kiếng soi mặt nhổ râu được, áo bành tô vải ka ki bốn túi, đầu
chải bảy ba, cặp tay mấy cô tân thời, đầu tóc lòng thòng khỏi vai, có cái đuôi
bánh lái, coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Thấy xốn mắt.
Đánh đôi đánh đọ cũng có khi có thì, có nơi có chốn,
sao lại đem ra chỗ thập mục sở thị. Mấy ông mấy ngài còn theo nếp xưa,
áo dài nhiễu đại đóa dài tới gối, quần the rộng ống, chân mang giày Canavaggio,
đội nón cối trắng, râu ngạnh trê vuốt sáp nhọn lễu, đề huề dạo với vợ con, nói
năng nhỏ nhẹ, cử chỉ từ tốn. Mấy thầy chú ngó Lành lườm lườm như ngạc nhiên,
như muốn nuốt sống. Con gái sao một mình lang thang chỗ nầy. Lăng Tô là chỗ của
những cặp tình nhân, những người có gia đình. Lành thẹn thùng ngó xuống đất, rảo
bước thẳng. Xứ gì kỳ cục, đàn ông, đàn bà cặp kè. Cột cờ Thủ Ngữ cao nghệu, Tây
Tà rượu chè ồn ào thấy sợ. Phía cầu Quây, khúc giữa giòng sông đương được quây
xuôi theo dòng nước nhường chỗ cho tàu đò chạy qua. Mấy người đi chơi đứng hai
bên cái cầu thiếu đó cười cười nói nói, chỉ chỏ vui vẻ. Chuyện lạ lùng. Chừng
nào về quê phải kể cho má nghe mới được. Cầu Quây đương là cầu biến thành sông.
Từ bến Khánh Hội, mấy tay anh chị bến tàu thả xe đạp Alcyon trắng nõn qua dốc cầu
Móng dài dằng dặc. Coi vui vui.
Tiếng người nào đó bên tai Lành nhột nhột khi Lành qua chỗ
nhà băng xây bằng đá cao nghều nghệu. ‘Xin lỗi cô Hai... dám nào cô dừng chân
cho hỏi...’ Mắc cở đỏ mặt. Lành ngúng nguẩy bỏ đi. Chuyện chưa có gì hết nhưng
mà thấy có tang lòng. Mấy lời van vái trước ông Một Hình làm mình nhẹ nhõm hơn.
Bây giờ trên tinh thần mình thuộc về hương hồn anh ấy. Phải xứng đáng với người
chết anh hùng. Chết rửa nhục. Chết để khỏi cúi gầm mặt cho chúng bôi tro trét
trấu. Thiệt thòi phận gái một chút cũng không sao. Thiên hạ có ai xứng đáng hơn
đâu. Cuộc đời lạ lùng. Câu hò trên sông của tụi bối Ba Cụm ứng như lời thầy bói
linh. Rồi đây cuộc đời mình tuy buồn thiệt nhưng đẹp, thơm như hoa dạ lý tỏa
hương, như tiểu thơ họ Kiều kia thề không để tiếng chê cười, như người bội bạc:
Dầu ai buông tiếng ngọc
dầu ai đọc lời vàng
bông sen hết nhụy bông sen tàn
em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga....
chẳng thà em chịu đói, chịu rách theo cách bà Mạnh, bà Khương…...
chớ không như Võ Hậu đời Đường làm cho bại hoại cang thường nhơ danh,
chẳng thà nghèo khó ở túp lều tranh
chớ không đành bội nghĩa như cha con Võ Công tham tài...
Anh Nam đã thắp một ngọn đèn cho bạn hữu để họ thấy cái nhục.
Rồi sẽ có những ngọn đèn khác. Rồi sẽ có người nhờ yến sáng đó mà mở mắt ra. Rồi
những người trai trẻ đang rèn tập võ nghệ mỗi chiều ở đường Lò Heo sẽ thấy lại
được cái nghĩa sống. Mình có đớn đau trong dạ cũng có nhằm nhò gì đâu đối với
cái chết của người anh hùng. Lành nói với mình chắc như đinh đóng cột: “Mình sẽ
thủ tiết. Phải thủ tiết. Có gió đông hung mới biết tùng bá cứng, có ngọn lửa
hồng mới biết thức vàng cao. Mình sẽ ở vậy. Hay ít ra chờ đến khi gặp được
một anh Nam khác.” Nụ cười sung sướng nở trên môi Lành. Bên kia sông mấy ngọn
đèn lù mù trước mặt Sở Nhà Rồng bỗng nhiên sáng rực như nhà đèn Chợ Quán vừa đổ
thêm than vô lò. Lành bước mau về phía Cầu Chong. Gần tới chỗ ghe đậu rồi. Phải
thắp cho anh ấy mấy cọng nhang. Gió sông Quai de Belgique thổi lên phơi phới,
mát rượi. Chỗ ga Cuniac, ban nhạc kèn đồng vẫn say sưa biểu diễn, âm thanh xập
xình vang dội xuống mé sông làm bập bềnh mấy chiếc ghe thương hồ đương triền
miên trong giấc ngủ. Lành mỉm cười, bước mau, trong trí vang dội mấy câu thơ Vân
Tiên vừa chợt hiện:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình...
San Marcos, Texas tháng 9/83
Nguyễn Văn Sâm