(Nhà thơ danh tiếng Bruce Weigl (Mỹ) đã trở thành Đại sứ nước
mắm của công ty nước mắm Thanh Hà cách đây dăm năm. Trong nhà ông ở Oberlin,
Ohio lúc nào cũng có một hai chai nước mắm. Câu chuyện về nước mắm của ông là một
câu chuyện kỳ thú. Xin giới thiệu bài viết của ông qua bản dịch của nhà thơ
Phan Quế Mai)
Tôi ngửi thấy mùi nước mắm lần đầu tiên trong lúc tên lửa và
đạn cối pháo kích dữ dội, tại một nơi chúng tôi đặt tên là Trại Evans, một căn
cứ của Lữ đoàn Kỵ binh bay số 1, trong chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, cách Huế
35 km về phía bắc theo đường Quốc lộ số 1.
Đối diện với hầm trú ẩn của chúng tôi – cái hầm đã cứu mạng
chúng tôi rất nhiều lần – là một cái lều và hầm trú ẩn của những người lính Việt
Nam Cộng Hòa. Lúc đó chúng tôi đã bị hai quả tên lửa 122 li nổ rất gần, và một
mảnh tên lửa đã xé toang chiếc lều ngủ của những người lính Việt Nam Cộng Hòa,
mặc dù lúc đó họ thoát chết vì đã kịp ẩn náu dưới hầm. Sau đợt pháo kích, tôi
và một số đồng đội bước khoảng 50 mét, để quan sát mảnh tên lửa đã xé rách chiếc
lều. Khi cách lều chừng 15 mét, chúng tôi bị choáng váng bởi một mùi nồng nặc
hơn tất cả các loại mùi mà tôi từng tiếp xúc. Lúc đó tôi nghĩ phải có một người
hoặc con thú to lớn nào đó đã chết và thối rữa gần đó. Tôi không kìm nén được
cơn ho dữ dội, cơn ho đã khiến tôi phải hít thở rất sâu, và điều đó làm tôi mắc
nghẹn và tiếp tục ho không thể kiểm chế. Tôi di chuyển càng nhanh càng tốt xa
khỏi cái lều đã bị tên lửa đánh trúng, nơi mà những người lính Việt Nam Cộng
Hòa đã trữ một lu nước mắm trên 80 lít, một thứ không thể thiếu trong bữa ăn của
người Việt. Sau đó tôi mới biết điều này, và biết rằng lu nước mắm đậm đặc đó bị
mảnh tên lửa bắn vỡ. Nước mắm tràn vào lều, chảy xuống chiếc mương nhỏ gần đó.
Nhưng có điều gì trong cái mùi nồng nặc đó làm tôi thích và
nó lưu lại trong tôi. Một đôi lần ở trại căn cứ trên Quốc lộ số 1, nơi chiến
trường đầy bom và lửa đạn, hoặc ở bãi đậu máy bay gần đó, tôi đã ăn cùng với những
người lính Việt Nam Cộng Hòa – những người đã vui vẻ cho tôi nhập cuộc. Tôi rất
biết ơn họ vì tôi ghét cay ghét đắng lương khô được cung cấp cho lính Mỹ. Có một
lần trong những bữa ăn chung đó, tôi hỏi họ về nước mắm. Họ rất vui khi tôi đề
cập đến nó – lúc này tôi đã biết đôi chút về tính cách của người Việt – và họ
nhanh nhảu rót ra một ít, chan lên một chén cơm trắng nhỏ và đưa cho tôi. Thật
là ngon: một sự phối hợp tuyệt vời giữa sự đậm đà và ngọt ngào, và sự trù phú của
một dòng sông chảy về bóng tối nơi thời gian chiếm hữu.
Kể từ lúc đó, tôi ăn với nước mắm bất cứ khi nào có thể ở
chiến trường Việt Nam, nhưng cơ hội đó không nhiều. Dĩ nhiên nước mắm không nằm
trong khẩu phần lương khô hoặc trong những bữa ăn được chuẩn bị cho lính Mỹ nơi
căn cứ trại. Nhưng tôi luôn giữ hương vị của nó trong tâm trí tôi, và chỉ cần
nghĩ về nước mắm là tôi đã ứa nước bọt. Tôi tìm hiểu nhiều hơn về nước mắm: nước
mắm dùng làm nước chấm, dùng để nấu ăn để thêm hương vị và thay cho muối. Trong
chiến tranh, một số người Việt thậm chí còn uống nước mắm để giữ cho thân thể họ
ấm áp, đặc biệt là khi họ phải ngâm mình xuống nước trong thời gian dài. Với
cái mùi đặc biệt của nước mắm, nó cũng giúp mồi hoặc bẫy thú lợi hại hơn. Và nước
mắm làm cho tất cả những thứ bạn ăn ngon hơn.
Khi rời chiến trường Việt Nam, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không
bao giờ quay trở lại. Tôi mang theo rất ít văn hóa Việt về cùng, lý do chính là
bởi nền văn hóa đó đã bị ngăn cách với chúng tôi. Tôi biết rằng nó đã bị ngăn
cách với chúng tôi vì nó là một nền văn hóa lâu đời, giàu có. Nó bị ngăn cách với
chúng tôi để chúng tôi không thể nhìn thấy con người Việt Nam như những con người
thật, nhất là những con người đang chiến đấu cho miền Bắc, chống lại chúng tôi ở
chiến tuyến bên kia, để chúng tôi cảm thấy dễ dàng hơn khi giết họ. Tôi không
mang nhiều văn hóa Việt theo về cùng tôi sau chiến tranh, nhưng tôi mang theo một
tình yêu về một đất nước xanh như thiên đàng, nơi mà những con người tôi gặp
luôn luôn tỏ ra tốt bụng và rộng lượng. Tôi cũng đem theo về một ba lô đầy những
nỗi buồn sâu thẳm, một sự trống vắng niềm tin đối với chính phủ của mình. Và
tôi đem theo một sự nghiện ngập đối với nước mắm.
Ở Lorain, tiểu bang Ohio, một thị xã cho nhiều xưởng chế biến
sắt, nơi tôi sinh ra và lớn lên, không thể nào tìm thấy nước mắm vào tháng 12
năm 1968. Tôi cũng không thể tìm thấy nước mắm ở Cleveland, không có một nhà
hàng, cửa hiệu, hoặc chợ bán đồ ăn Việt Nam nào. Lúc đó chưa có một người Việt
nào sống ở khu vực xung quanh. Sau khi rời chiến trường, trở về quê hương, tôi
thường nhìn đăm đắm qua cửa sổ căn nhà cha tôi, quan sát tuyết phủ đầy trên những
chiếc sân để biết rằng không có ai đang trốn sau bụi cây để tìm cách giết tôi.
Tôi cảm thấy an toàn nhưng tôi cũng rất nhớ Việt Nam. Nhưng tôi không thể bày tỏ
nỗi nhớ đó với những cựu binh khác và với cả gia đình của mình. Nếu biết, họ sẽ
nghĩ rằng có điều gì đó không ổn với tôi, và chiến tranh đã làm tôi mất trí. Vì
thế tôi giữ nỗi nhớ đó cho riêng mình. Sau đó thời gian trôi đi như những mảnh
vụn trên sông, tôi bị lạc vào cơn mộng tưởng không thể gọi tên. Tôi không còn
là con người của một năm về trước; tôi đã bỏ lại một phần hồn vía của mình ở Việt
Nam.
Khi mùa xuân tới, tôi làm một việc mà tôi luôn làm trong mỗi
mùa xuân: câu những con cá hồi to đã nảy nở sinh sôi nơi những con sông, dòng
suối gần nhà. Sau một ngày may mắn, tôi đem về ba con cá to, mỗi con nặng khoảng
2 đến 3 cân. Khi tôi làm vảy chúng sau gara ô tô của cha tôi, tôi ngửi thấy mùi
cá. Lúc đó tôi nhớ về cuộc trò chuyện với một người lính Việt Nam Cộng Hòa.
Chúng tôi đã nói về nước mắm, về việc nó là gia vị quan trọng và đặc biệt nhất
trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt Nam, rằng nó có sức mạnh huyền bí để biến
đổi hương vị của những loại thức ăn khác nhau, theo những cách khác nhau, và về
cách làm nước mắm. Cuối câu chuyện, anh ta cho tôi biết cách làm nước mắm tại
nhà.
Tôi đã quên câu chuyện này cho đến khi tôi làm vảy cá, vào
mùa xuân mà tôi trở về nhà và bỏ lại rất nhiều trí nhớ của tôi nơi chiến trường
xưa. Tôi nhớ anh ấy đã bảo tôi rằng tôi chỉ cần mổ bụng, bỏ ruột, xẻ đôi con
cá, ướp muối và trải chúng trên những chiếc que xếp sẵn, sau đó cứ chờ chúng rã
xuống chiếc nồi bên dưới. Anh ấy nói rằng, khi mà chúng đã rã hết ra, tôi sẽ nấu
chúng với lửa nhỏ đến khi chúng thật nhừ và quánh đặc thành một chất lỏng tuyệt
đẹp. Ý nghĩ về nước mắm nơi căn lều của những người lính Việt Nam Cộng Hòa ở Trại
Evans đưa tôi trở về Việt Nam, và mùi nước mắm rất nặng thực sự đã trở thành
mùi của một đất nước.
Vì thế tôi quyết định mà không cần suy nghĩ nhiều, là mình sẽ
tự làm nước mắm. Tôi ra cửa hàng vật liệu tìm mua dây thép và đinh. Dùng những
thanh gỗ thừa trong gara ô tô của cha tôi, tôi dựng một giàn phơi nhỏ. Tôi lấy
một chiếc chảo từ bếp của mẹ tôi, dùng gạch kê nó dưới giàn phơi để đón lấy chất
lỏng từ những con cá đang rữa ra.
Tôi biết rằng tôi phải chờ chúng rữa ra, vì thế tôi vào nhà
và quên mất nước mắm của riêng tôi, đang lên men đằng sau gara ô tô của cha tôi
tại thị xã Lorain, tiểu bang Ohio, cách cuộc chiến vẫn đang ác liệt mười hai
nghìn dặm. Tôi quên như tôi đã để quên phần lớn trí nhớ của mình tại cuộc chiến
ấy. Tôi quên cho đến một buổi tối, tôi đang ngồi trong nhà của cha tôi, nhìn ra
cửa sổ. Tôi không nhớ tôi đã nghĩ gì, nhưng tôi nhớ rằng lúc đó tôi đã loay
hoay tìm lối đi cho mình. Tôi biết rằng chiến tranh đã ăn vào tôi và bám riết,
không buông tha tôi. Ngồi trong căn nhà của cha, tôi nghe có sự náo động bên
ngoài và bước sát đến cửa sổ, nhìn ra ngoài và thấy nửa tá xe cảnh sát đang đỗ
bên đường và những khoảng sân ngập xanh màu áo cảnh sát. Tôi đi ra ngoài và nhập
vào đám đông nơi hàng xóm của tôi đang tụ tập. Tôi hỏi người cảnh sát thường tuần
tra quanh khu vực tôi sống rằng điều gì đang xảy ra vậy,
“Có người báo với chúng tôi rằng có một xác chết ở một trong những căn nhà
này”, anh ta nói.
“Tại sao họ nghĩ thế?” tôi hỏi.
“Chúa ơi”, anh ta thốt lên “vì cái mùi nồng nặc này. Anh không ngửi thấy nó
sao?”
Đứng giữa con phố, ban đêm, xung quanh tôi hàng xóm đang đứng
tụ tập như thể một nghi lễ, những chiếc sân nhà đầy cảnh sát, tôi hít hơi thở
sâu đầu tiên từ khi tôi ra ngoài. Tôi biết ngay vấn đề, và báo cảnh sát và một
số hàng xóm đi theo tôi đến giàn phơi, đằng sau gara ô tô của cha tôi. Trước
khi họ thấy cảnh tượng phơi cá của tôi, họ choáng váng bởi mùi nồng nặc và buộc
phải quay chân.
“Đấy là xác chết của anh” người cảnh sát thường tuần tra khu vực của tôi đứng đằng
xa và nói, chỉ tay vào những con cá đang thối rữa.
Sau khi mọi việc đã được giải quyết với cảnh sát và với những
người hàng xóm tốt bụng của tôi, tôi hứa với họ rằng tôi sẽ tiêu hủy những con
cá càng sớm càng tốt. Tôi nhặt nhạnh những thứ còn lại của ba con cá hồi và bỏ
chúng vào nồi. Bên ngoài nhà, tôi nhóm lửa và nấu những con cá này với lửa thật
nhỏ, thật lâu cho đến khi chúng thật nát và hầu như biến thành chất lỏng. Tôi
lược bỏ phần xác qua một chiếc rây và lại nấu tiếp. Cuối cùng, màu của chất lỏng
trở nên giống màu mặt trời trước khi lặn xuống chân trời. Tôi đổ đầy chất lỏng
vào một cái lọ, đậy nắp thật chặt và giấu nó trong phòng ngủ của mình.
Năm 1968, ở cao nguyên Trung phần Việt Nam, một số người
lính Việt Nam Cộng Hòa đã chia cho tôi ăn nhu yếu phẩm của họ, đã dạy tôi cách
làm một loại nước từ cá lên men, loại nước giống như thuốc trường sinh bất lão
diệu kỳ, như một phương thuốc chữa cho tất cả các loại bệnh thể xác và linh hồn.
Đối với riêng tôi, mùi nước mắm đã trở thành mùi của đất nước Việt Nam khi tôi ở
Mỹ và thương nhớ về đất nước thứ hai của tôi. Mùa xuân năm ấy, tôi làm nước mắm
của riêng mình nơi sân sau của ngôi nhà cha tôi – một người công nhân làm ở xưởng
chế biến sắt. Nước mắm ấy tôi đã đậy nắp thật chặt như một loại tinh hoa mà tôi
cần phải mãi mãi giữ gìn. Tôi dùng nước mắm một cách bí mật cùng thức ăn, nhưng
luôn luôn phải rất cẩn trọng vì mùi của nó rất nặng và vì cảnh sát đã đến thăm
hỏi tôi chính vì cái mùi đó.
Sau rất nhiều năm, chiến tranh đã di trú vào tôi, mặc dù làm
đủ cách để quên nó, có những điều cứ khắc sâu vào tâm khảm. Khi tôi ăn ở những
cửa hiệu, nhà hàng Việt Nam trên đất Mỹ, tôi luôn nói với họ rằng hãy đừng cho
tôi nước mắm kiểu Mỹ, mà phải là kiểu chính hiệu Việt Nam. Tôi đã học được rằng
thức ăn Việt Nam ngon hơn khi nấu với nước mắm ngon, hoặc chấm với nước mắm được
pha khéo léo với đủ lượng tỏi, ớt, chanh, nước và đường. Từ một fan hâm mộ nước
mắm, tôi trở thành một người sành sỏi khó tính, lùng sục những cửa hiệu châu Á ở
Mỹ để tìm nước mắm ngon. Ở quê hương tôi, trong thập kỷ 80-90, mặc dù người Việt
bắt đầu di cư sang, rất khó tìm được nước mắm ngon.
Một số loại nước mắm hình như chỉ được pha bằng nước, muối
và màu thực phẩm nhưng đã đánh lừa được những cái mũi to. Chỉ qua một quá trình
tìm kiếm công phu, tôi mới tìm được những cửa hiệu tin cậy có thể cung cấp nước
mắm tốt cho tôi. Thỉnh thoảng, khi nấu ăn mời bạn bè, tôi dùng một ít nước mắm
để nấu những món ăn châu Âu mà họ yêu thích. Và thường sau bữa ăn bạn tôi sẽ nói
rằng thức ăn thật ngon và mùi vị rất đặc biệt, rồi hỏi “anh đã dùng gia vị gì
trong công thức chế biến đấy...? cái vị này rất đặc biệt?”. Tôi không bao giờ kể
cho họ nghe. Cho đến hôm nay, tôi muốn giữ bí mật đó cho riêng mình.
Đinh Bá Truyền