Rất mực gian nan để kể lại chuyện của rất nhiều
thập niên trước. Trí nhớ tôi bây giờ lúc nào cũng lãng đãng, sương mù. Khi khởi
lên ý định kể lại mấy chuyện thời nhỏ, chỉ thấy hiện lại trong tri nhớ một
khoảng sân trắng, mấy đứa nhóc quậy phá, những lọ mực tím, những tập vở kẻ
hàng, mấy bàn học, lối đi có hai hàng tre xanh, âm vang trong đầu là tiếng ê a
đánh vần… Tôi đã điện thoại để hỏi chị tôi về tên của vài người xa thật xa,
nhưng cũng chỉ được vài phần, những nét kể lạ cứ như hư, như thực.
Xóm Chuồng Bò thì nhớ tên rồi. Hình ảnh con bò thực ra lúc đó không còn nữa.
Đúng ra cứ khi rạng sáng, khi nghe lộp cộp trên đường là biết ngay xe thổ mộ
(may quá, còn nhớ chữ này, chứ không lại bảo là xe ngựa thì chẳng giống ai) từ
trong Xóm Chuồng Bò chạy ra Chợ Hòa Hưng. Còn xóm ao rau muống thì chẳng thể
nhớ tên gì. Lối đi từ nhà tôi vào Xóm Chuồng Bò có vài hẻm, những bụi tre xanh
cao vút bên đường, dẫn tới mấy ao rau muống trong tận mấy xóm sâu. Lúc đó phía
dưới là cát trắng.
Tôi hỏi chị tôi về tên của mấy đứa trong lớp má
tôi dạy thời đó. Gọi là lớp cho oai, thực ra chỉ có vài đứa trong xóm. Liên,
Linh, Minh, Hiền… Hồi đó có lẽ là lớp tự phát, chỉ từ mẫu giáo cho tới lớp hai.
Tôi không biết có đúng là lớp tự phát hay không, vì có thể má tôi có giấy phép,
vì thấy lớp học có ba bàn dài có hộc tủ cho học trò, và đứa nào học hết là được
dẫn ra trường ngoài phố học tiếp. Có lý do hiểu được, vì mấy đứa nhỏ quá không
thể đi bộ ra trường lớn, dù có người lớn dắt đi. Thời đó xe đạp cũng là hiếm,
nên chủ yếu là đi bộ. Vì chỉ có má tôi là cô giáo duy nhất cho khoảng năm đứa,
có khi là sáu đứa con nít, nên tới trưa, có một bà dì tôi từ ngoài trường Áo
Tím đi học về, là tạm thay má tôi. Má tôi, dì Hà, dì Hương và dì Hoa đều khuất
núi cả rồi.
Cả ba dì lúc đó cũng chưa qua trung học, nên
cũng bận bài vở, nói là dạy có lẽ chỉ là giữ cho mấy đứa khỏi quậy phá, chờ tới
chiều đưa tụi nhỏ về nhà ba má tụi nó. Như thế, có lẽ chức năng chính của lớp
này chỉ là giữ trẻ chứ dạy chỉ là một phần. Vì thực ra, má tôi học cũng không
cao, theo tôi nghĩ. Nhưng trong xóm ai cũng gọi má là Cô Ba. Lẽ ra, phải gọi Cô
Hai mới đúng kiểu Sài Gòn, vì trên má tôi không có ai nữa. Có thể vì hàng xóm
quen gọi như thế với ba tôi? Không nhớ. Nhưng ba tôi làm nghề trên xe lửa, đi thường
xuyên, có khi vắng nhà cả tuần lễ, cũng không có anh hay chị nào để được gọi
thứ tự là Thầy Ba. Hồi đó, hễ thấy làm chính phủ, dù là bấm thẻ hay trưởng tàu
xe lửa, là được dân trong xóm gọi là Thầy liền; thầy đây là thầy ký, không mang
nghĩa thầy giáo hay nhà sư trong chùa.
Không nhớ hết khuôn mặt mấy đứa nhỏ trong lớp. Nhỏ Liên thì ban đầu tôi nhầm
với nhỏ Linh. Chị tôi nói qua điện thoại rằng nhỏ Liên hồi đó ưa ngồi một chỗ
thu lu, có vẻ như thích lặng lẽ. Còn nhỏ Linh thì ưa quậy phá, lại ưa ồn ào. Tôi
không biết chính xác chị tôi nói đúng không, vì tuổi lớn như chị thì trí nhớ
hẳn là còn mù sương hơn mình nữa, tôi tự nhủ. Trong khi chị nhớ về cá tính ưa
tĩnh của Liên, ưa động của Linh, thì tôi nhớ rằng nhỏ Liên mặt gầy, thường để
tóc bum-bê, còn nhỏ Linh mặt chữ xoan, y hệt hình ảnh xi nê; cả hai đều ưa mặc
đồ với vải in hoa, màu dịu. Bây giờ không nghe gì về hai nhỏ đó nữa. Còn tên
Minh thì ưa làm trò, lâu lâu bước ra sân, lấy cây viết chấm vào lọ mực tím rồi
vảy ra sân cát trắng. Tôi nhớ hình ảnh mấy đứa nhỏ đứng trên sân cát trắng, nơi
góc sân là một cây le-ki-ma lớn, lùi phía sau là một mộ cổ bằng đá tổ ong màu
nâu đỏ. Lâu lâu nhớ tới, là thấy những đốm mực trên cát trắng hiện ra trong
đầu. Còn tên Hiền thì tôi không nhớ nổi chút gì. Còn một hay hai tên học trò
nữa, thì chị tôi và tôi không nhớ gì. Chị không nhớ thì dễ hiểu, vì lúc đó chị
đã vào lớp ba ở trường tiểu học Chí Hòa. Nhưng tại sao chị nhớ tính tình, còn
tôi lại chỉ nhớ màu sắc của cát trắng và mực tím, thì cũng chẳng hiểu.
Sau ngôi mộ cổ là một ngôi chùa. Cả chị tôi và
tôi đều không nhớ chính xác chùa tên gì. Có thể là Phổ Quang hay Phổ Minh, hay
Phổ Hiền. Chùa lúc đó có hai thầy trò, một ông sư và một chú tiểu. Trí nhớ của
tôi về chùa này chỉ là một cổng tam quan nhỏ, căn nhà hai tầng được biến làm
chùa, khoảng sân nhỏ tráng xi măng, bên trong có nhiều tượng Phật và Bồ Tát.
Mấy đứa nhỏ tụi tôi ưa thích vào chùa này. Hễ vào là được ông thầy tặng mỗi đưa
một trái chuối, hay trái quýt… Về sau, tôi dò theo kinh điển thì nghiệm ra đó
hình như là hạnh bố thí, hễ là sư là phải tặng cho chúng sinh cái gì. Người thọ
nhận cái gì từ chùa là có đi đâu xa, nhiều kiếp sau cũng tìm lại mái chùa.
Cũng có lúc, chú tiểu mang một mâm trái cây sang tặng cho cả lớp má tôi dạy.
Chú tiểu thì chỉ nhớ tên la Đăng, còn gì Đăng thì không nhớ. Thầy Đăng này học
đâu đó miệt Sài Gòn, đi xe đạp hàng ngày tới trường, trong khi ông sư lớn ở
chùa. Về sau, đọc về lược sử Sài Gòn, tôi đoán là Thầy Đăng, lúc đó là học ở
Phật Học Viện nào ở Phú Lâm.
Nhà sư lớn tuổi thì chị tôi cũng không nhớ tên.
Chị nói qua điện thoại, lúc đó giọng chị trầm xuống như đang nói bí mật về
những người còn ở cõi này, rằng có lúc nghe má tôi nói chú tiểu là con nhà sư.
Hồi đó nhà sư từ xứ Huế hay xứ Quảng đó vào Nam, đi vòng vòng mấy tỉnh, có lẽ tìm
Thầy học đạo, thế rồi bị Tây bắt vì nghi ngờ chi đó, bắt giam mấy tháng, đánh
gãy giò rồi thả. Có nữ Phật tử mang về, thế là nhà sư ra đời. Vài năm sau, nhà
sư dắt đứa nhỏ về xóm này, dựng chùa. Còn người nữ Phật tử kia không nghe gì
nữa. Có thể họ bí mật thăm nhau, vì không lẽ má lại bỏ con luôn, chị tôi giải
thích thì thầm qua điện thoại; giọng chị y hệt tiếng gió thổi qua mấy bụi tre.
Tôi không tin mấy vào trí nhớ của chị, nhưng đành chịu. Thôi thì cứ nghe. Vì
hiển nhiên, ai cũng có một bà mẹ.
Hình ảnh tôi thường nhớ là chú tiểu Đăng khi có gì tặng cho lớp, bước vào là
đứng ngay cửa, hai tay bưng mâm trái cây. Thường là dì Hà, hễ có mặt khi đó, là
đứng bật dậy, bước tới cửa và đưa hai tay nhận mâm này. Bây giờ, nhớ lại, tôi
nhớ y hệt như một cuốn phim đen trắng đã trôi thật xa. Tôi nghĩ, nếu lúc đó dì
Hà điểm trang môi son má phấn, mặc áo dài, trong khi chú Đăng mặc áo dài khăn
đóng, thì trông y hệt một đám hỏi. Nhưng không phải đâu. Tôi nghiệm ra rằng
nghĩ lung tung là không nên, kinh gọi là tâm phan duyên. Huống gì tất cả những
người đó đều là bậc trưởng thượng, cho dù lúc đó họ còn là niên thiếu.
Chị tôi kể rằng ba má tôi cũng là người Miền
Trung vào. Ba tôi là gốc Hà Tĩnh; hồi đó vùng này có phong trào chống Tây, bị
đàn áp dữ dội, rồi ba chạy loạn, tìm được việc trong ngành xe lửa. Khi xe qua
những chuyến ghé Nha Trang, gặp má tôi nơi đây, mới cưới nhau. Khi bà ngoại
khuất núi, ba má tôi dẫn mấy dì vào Sài Gòn ở, ban đầu ở Dĩ An, một thị trấn
đâu đó phía Đông của Sài Gòn, rồi về ngõ Nguyễn Thông nối dài, sau các rặng tre
xanh này.
Tôi nghiệm ra rằng âm thanh dễ nhớ hơn hình
ảnh. Như để hình dung ra các hình ảnh trong khu xóm đó, không thể nhớ nổi khuôn
mặt mọi người. Chỉ là mang máng thôi. Mấy đứa nhỏ vài năm sau là thay đổi, thì
chẳng nói gì. Nhưng hình ảnh nhà sư gầy, tôi không hình dung nổi khuôn mặt. Chỉ
nhớ là giọng Huế hay Quảng gì đó. Mà tại sao nhóc tì như tôi lại nhớ nổi giọng
nói mới lạ. Có thể vì những thời kinh chăng… Nhưng nhớ nhất là trái cây: ba má
tôi thường qua chùa cúng trái cây, những lúc ba tôi trong các chuyến xe lửa về,
thường mang theo các trái mít khổng lồ mua từ Dầu Giây hay Biên Hòa về.
Có những lúc má tôi đi khám bệnh hay thăm bệnh
đâu đó cả ngày, lớp học bàn giao cho dì Hà. Lúc đó chú Đăng lại vào lớp ngồi.
Làm sau chú Đăng canh ngày giờ để vào lớp thì cũng lạ; hồi đó làm gì có điện
thoại di động mà nhắn nhau. Hình ảnh nhà sư trẻ, tôi nhớ là cỡ mười mấy tuổi,
vào ngồi chung lớp học mầm non là cái gì rất dị kỳ. Nhưng dì tôi, tức là cô
giáo Hà, xem là chuyện tự nhiên. Chị tôi kể lại, chắc họ thích nhau. Sau này,
tôi nghĩ là dùng chữ như thế không chính xác. Cho dù là, trong trí nhớ nhóc tì
của tôi lúc đó vẫn nhớ hình ảnh một chú tiểu ngồi sau lưng bốn hay năm đứa con
nít mầm non hay lớp một, tay chú tiểu chống cằm ngó lên bảng phấn, trong khi dì
tôi, thường lúc đó là lúng túng bắt tụi nhỏ đánh vần, bất kể rằng dì cũng là vị
thành niên. Thế rồi, khi đoán tới giờ má tôi sắp về tới, lại thấy chú Đăng lặng
lẽ biến đi.
Hình ảnh một thời đó y hệt sương khói. Cho tới
khi tình cờ, dì Hoa kể cho má tôi nghe rằng có một học trò ngoài sổ như thế
tới, trong những khi má tôi đi cả buổi hay cả ngày. Chị kể rằng, có lẽ ba má
tôi sang nói gì với nhà sư lớn. Thế là, những lần như thế giảm đi, nhưng lại
thấy dì Hà ưa qua thăm chùa nhiều hơn, bất kể là mấy dì bài vở nhà trường mang
về nhà rất nhiều.
Một lần, trong giờ ra chơi, nhỏ Linh đứng nhìn
tôi, rồi đưa hay tay nắm hai tay tôi. Cảm giác lúc đó của tôi là tự nhiên giựt
ra. Hai đứa nhỏ lớp mầm non nắm tay nhau có lẽ là bình thường bây giờ, nhưng
hồi đó là lạ lắm. Nhỏ Linh nói rằng vậy là đúng như nhỏ này đoán là tôi sẽ tự
động phản xạ giựt tay ra, vì nhỏ này chỉ thử để xem, vì mấy hôm trước nhỏ này
thấy dì Hà đứng nơi sân chùa đột ngột nắm tay Thầy Đăng, rồi nhà sư trẻ này
cũng đột ngột giựt tay ra. Tôi nghĩ, chuyện nắm tay của dì Hà cũng là phản xạ,
rồi nhà sư này giựt tay ra cũng là phản xạ. Vì tất cả những người đó trong trí
nhớ tôi là tuyệt vời đạo đức, không hề làm phiền muộn bất kỳ ai, không hề làm
động gì tới thế gian này, không hề làm chết một con kiến hay con muỗi. Họ là
những phiến thủy tinh trong vắt.
Tuy nhiên, những gì nhìn thấy hay nghe thấy vẫn
cứ thỉnh thoảng lảng vảng trong trí nhớ nhiều năm. Tới hồi năm tôi học đệ nhất,
vào học thi trong sân chùa Xá Lợi, nơi lúc đó thường im vắng, dễ tập trung tư
tưởng. Nhỏ Linh cũng học đệ nhất Gia Long. Một buổi chiều, tôi và nhỏ Linh đứng
nơi cổng tam quan của chùa Xá Lợi, con đường nhỏ bên hông chùa bỗng vắng dị
thường. Tự nhiên nhỏ Linh, lúc đó là một nữ sinh áo trắng xinh đẹp rồi, nhìn
thẳng vào mắt tôi, nói là tụi mình nhìn thẳng mắt nhau đi, xem ai thành thật
thì sẽ không chớp mắt. Tôi không hiểu sao lại có định kiến gì về chớp mắt hay
không chớp mắt như thế. Nhưng tự nhiên, bảo nhìn thì nhìn. Thế là tôi nhìn và
rồi như dường có người vô hình nào sau lưng mình, muốn xô mình tới. Tôi sợ té
vào nhỏ Linh, nghĩa là sẽ bị hiểu là ôm chầm cô bạn dễ thương này, nên gượng
lại, hai tay tự nhiên đưa ra nắm tay nhỏ Linh. Và rồi bất chợt hai tay tôi giựt
ra. Nhỏ Linh nói là tôi đã chớp mắt trước. Hai tay tôi như điện giựt. Về tới
nhà, tôi bệnh liệt giường mấy ngày. Rồi có lúc, tôi chợt thắc mắc, sao nhỏ Linh
nói là tôi chớp mắt trước, mà không nói chuyện tôi đột ngột nắm tay nhỏ này. Và
dĩ nhiên, tôi không hề nói gì với nhỏ Linh là lúc đó như có người vô hình xô
tôi, hay phải chăng thầm kín trong tôi là ôm nhỏ Linh.
Và rồi, học thi nặng nhọc đã làm quên hết mọi
chuyện thường ngày. Tôi nghĩ, có thể vì lúc đó, mùi nước hoa trên tóc nhỏ Linh
có sức hấp dẫn. Tôi kể lại cho chị tôi nghe, rằng mùi nước hoa thoang thoảng có
sức mạnh xô người nam vào người nữ. Chị tôi cười trên điện thoại là mày làm tao
mắc cười gần chết, mới nói chuyện ngó mắt nhau, lại kể chuyện mùi hương trên
tóc, mà phải gần cỡ nào mới ngửi thấy hương tóc được. Tôi nói lãng đi, có khi
mùi hương từ kiếp trước, nhưng thiệt sự là chỉ mới nắm tay thôi, rồi giựt ra,
chưa từng ôm nhỏ Linh bao giờ.
Chị kể, rằng đúng là có chuyện dì Hà đứng nắm
tay Thầy Đăng ở sân chùa, nhưng đó là khi trao nhau kinh sách, hay sách truyện
gì đó, thì tự nhiên, chắc là dì Hà muốn nắm tay Thầy Đăng thử xem có giống Lan
và Ngọc trong tiểu thuyết Khái Hưng hay không. Chị tôi cười, chẳng có gì đâu.
Tôi nói, vậy còn hôm dì Hà đi bụi đời thì sao. Chuyện dì Hà bụi đời thì tôi
không nhớ, chỉ về sau mới nghe người lớn kể. Thời đó, không ai nói chuyện linh
tinh như thế.
Chị tôi kể lại rằng, có một lần, chú tiểu Đăng
rủ dì Hà và dì Hoa đi xe đạp sang miệt Tham Lương để thăm ngôi chùa nào nơi đó.
Khu vực tôi đoán, có thể là Hóc Môn, hay Bà Điểm, vì qua cầu Tham Lương cũng
không chỉ rõ là nơi nào. Nhưng rồi mưa chiều bất chợt lớn kinh khủng, ào ạt.
Thế là ba người, đi trên hai xe đạp, không dám về cho kịp ban chiều, phải ở lại
đêm nơi ngôi chùa kia. Thời đó không có điện thoại, cho nên má tôi lo lắm. Nghe
kể lại là, ban đầu má bảo dì Hương qua chùa, hỏi nhà sư lớn xem vì sao chú Đăng
biến mất cùng dì Hà và dì Hoa, có đúng là qua chơi miệt Tham Lương như ba người
dặn dì Hương trước khi dì Hoa lên xe đạp ngồi sau lưng dì Hà đạp theo chú Đăng
hay không.
Tôi hoàn toàn không nhớ mấy chuyện đó, cũng vì sáng hôm sau ba người về. Ba tôi
lúc đó còn trên một chuyến xe lửa nào đó, không có nhà. Má tôi rầy dì Hà và dì
Hoa liên tục, nhưng sau đó chỉ giám sát chặt chẽ; hình như không kể lại cho ba
tôi nghe. Má tôi lúc đó kéo hai dì Hà và Hoa, từng người ra tra hỏi riêng. Chị
tôi kể, lúc đó má hỏi là có bị ai làm gì không, nấu ăn gì hôm đó, lại còn ngó
kỹ từng lai áo, bâu quần xem có dính bùn hay đất gì không, và các thứ.
Nhưng nhà sư trụ trì hôm sau dẫn chú tiểu Đăng
sang để xin lỗi cô Ba, vì tụi nhỏ đi chơi không về. Nhà sư bắt chú Đăng ngồi
trước mặt má tôi, trước mặt dì Hà và dì Hoa, lập đi lập lại những câu xin lỗi.
Chị tôi kể rằng, chị nhớ mang máng là, Thầy trụ
trì bảo chú tiểu Đăng lập lại theo lời Thầy. Trước mặt mấy nữ cư sĩ, lời xin
lỗi là bình thường. Nhưng chị kể, là sau đó chị nghe hai dì kể lại, lời Thầy
trụ trì bắt chú Đăng đọc từng câu như lời xin lỗi Đức Phật. Nghĩa là, Thầy bắt
chú Đăng xin lỗi chúng sinh trước, rồi xin lỗi Đức Phật sau. Nhiều năm trước,
có lúc, tôi nghĩ đó là văn sám hối.
Thầy bảo với giọng nghiêm nghị, Đăng, lập lại lời Thầy, “Con không ưa thích
những gì được thấy.”
Chú Đăng lập lại lời Thầy trụ trì, giọng đều
đều buồn thảm, “Con không ưa thích những gì được thấy.”
Thầy trụ trì tiếp, “Con không ưa thích những gì
được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm thọ, được suy nghĩ…”
Chú Đăng lập lại, trong khi chị kể là lúc đó,
theo chị dòm lén thì thấy, dì Hà và dì Hoa cúi gầm mặt, “Con không ưa thích
những gì được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm thọ, được suy nghĩ…”
Thầy trụ trì nói, lập lại, “Con không ưa thích
những gì được thấy hôm qua, hôm kia, tuần trước, trong quá khứ…”
Chú Đăng lập lại, giọng sầu thảm hơn.
Thầy trụ trì tiếp, “Con không ưa thích những gì
được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm thọ, được suy nghĩ… hôm qua, hôm kia,
tuần trước, trong quá khứ.”
Chú Đăng lập lại y như thế.
Rồi Thầy dẫn chú Đăng về. Hình phạt cũng lạ.
Đọc mấy câu như thế mà gọi là phạt.
Không ưa thích những gì được thấy, được nghe
hôm qua, có phải là ám chỉ rằng chú Đăng phải xóa trong ký ức hình ảnh và lời
nói của mấy dì xinh đẹp của tôi?
Tuy nhiên, chuyện động trời như thế, chuyện hai
dì ngủ một đêm ngoài nhà vì kẹt mưa không về kịp, má dặn mấy dì giấu ba; lúc đó
ba tôi còn trên một chuyến xe lửa, mấy hôm sau mới về. Má chỉ lo là ba lấy roi đánh
mấy dì. Thêm nữa, hên mà hai dì đi kèm nhau, chớ rủi mà chỉ một dì ngủ đêm
ngoài nhà là sẽ bị nghi ngờ táo bạo.
Lần đầu tiên được nghe kể chuyện đó, khoảng
thập niên 1970s, tôi nghĩ rằng câu chuyện giống như tiểu thuyết Kim Dung. Vì
tôi chợt nhớ ra một câu trong một bài kinh của Minh Giáo Ba Tư, hình như là
“sống không lấy gì vui, chết không lấy gì buồn…”
Về sau, nhiều thập niên sau, tôi nhắc chị tôi
chuyện đó, nhưng nói rằng thực ra, có lẽ là từ một bản Kinh Phật tôi đọc gần
đây.
Tôi đọc qua điện thoại cho chị nghe, một đoạn
từ Kinh Bất Lạc trong Tạp A Hàm: “Vì nếu Tỳ kheo không ưa sắc, không khen ngợi
sắc, không chấp thủ sắc, không đắm trước sắc, thì đối với sắc sẽ không ưa
thích, tâm được giải thoát…”
Chị tôi nói, không hoàn toàn giống, vì thời đó
chưa có bản Việt dịch này. Thêm nữa, sắc gì mà sắc, con nít trân mà…
Tôi nói, hẳn là Thầy trụ trì đọc bản Hán văn,
và bắt chú Đăng đọc để xin lỗi má và hai dì.
Chị tôi nói, buổi xin lỗi chỉ có khoảng 15
phút, nhưng sau đó dì Hà không dám một mình đi gặp chú Đăng nữa.
Tôi cãi, sắc đây là cái mình thấy, không phải
nhan sắc, mà thiệt ra, sau đó má dặn dì Hương và dì Hoa là tụi bay phải bám sát
chị Hà, không để một mình đi đâu hết.
Chị tôi bật cười qua điện thoại, hóa ra má chơi trò kềm kẹp, cảnh sát và công
an nơi nào, thời nào cũng có.
Tôi nói, không biết dì Hà sau đó có ý định lãng
mạn gì xa hơn không, mấy chuyện này mà không liều mạng, là không thành tiểu
thuyết.
Thiệt ra, khi tôi nói như thế, là hình ảnh nhỏ Linh hiện ra trong đầu tôi. Nơi
cổng Chùa Xá Lợi, thay vì chỉ ngó vào mắt nhau, thay vì chỉ đột ngột nắm tay và
rồi giựt tay ra, mà ôm nhau là lịch sử đời tôi biến đổi rồi. Dĩ nhiên, tôi
không bao giờ kể cho chị tôi nghe chuyện nhỏ Linh. Có thể, khi đọc truyện này,
chị tôi mới biết.
Từ khi tôi được nghe kể, đôi khi khởi lên mấy
chữ thì thầm bên tai tôi rằng không có gì để ưa thích… Những lúc như thế, hình
ảnh khoảng sân cát trắng và lũ nhỏ ê a hiện lên trước mắt tôi lãng đãng y hệt
như từ một giấc mơ nhiều ngàn đêm trước.
Vài năm sau, cả nhà tôi dọn vào Chợ Lớn. Những âm vang và hình ảnh từ Xóm
Chuồng Bò nhạt dần trong trí nhớ tôi, hệt như làn khói ban chiều mỏng dần và
tan đi.
Phan Tấn Hải