Thành kính tưởng
niệm Ba tôi nhân Father’s Day
Trong khi “lang thang” trên internet, thấy câu hô hào, kêu
gọi của thủ tướng cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) Nguyễn Xuân Phúc: “Phải
đồng cam cộng khổ với chính phủ để trả nợ công?” tự dưng tôi nghĩ đến Ba tôi
– Cụ Điệp Linh Nguyễn Văn Ngữ – người đã từ bỏ cuộc sống an nhàn, đầy
tiện nghi của một công chức trong “vùng bị chiếm” thanh bình, theo
tiếng gọi thanh niên, ra “vùng giải phóng” để chống Tây.
Thời điểm đó, Má tôi đang mang thai đứa con thứ hai.
Bà Nội của tôi tu tại gia, không để ý bất cứ việc gì của thế tục.
Bà ngoại của tôi khóc hết nước mắt, không cho Má tôi theo Ba tôi; nhưng
Má tôi vẫn vừa theo Ba tôi vừa khóc!
Đến “vùng giải
phóng” được một thời gian, Má tôi sinh bé trai. Ba tôi đặt tên em là
Nguyễn Phiêu Linh. Tôi chưa hiểu biết cho nên chẳng thắc mắc gì về nghĩa
của hai chữ “Phiêu Linh”!
Ba tôi làm việc ở
đâu, tôi cũng không biết; chỉ thấy mỗi khi Ba tôi về nhà với “ruột
tượng” gạo thì tôi vui lắm; vì có Ba ở nhà tôi được nhõng nhẽo và
được ăn cơm không trộn khoai mì. Thời gian đó chưa có bo bo. Sau này tôi
mới biết, mỗi tháng chỉ một mình Ba tôi được lãnh 08 ký – xin lập
lại, tám ký – gạo; ngoài ra không có bất cứ nguồn cung cấp nào khác
cho Má và chị em tôi. Má tôi phải bán từ từ số nữ trang mà Má tôi
giấu kỷ trong người để nuôi chồng con. Thế mà nay Việt Minh (tiền thân
của đảng c.s.V.N.) kêu gọi, ép buộc dân chúng phải tận lực yểm trợ
“tuần lễ bạc”; mai đảng c.s.V.N. lại bắt người dân phải dốc toàn lực
để thực hiện “tuần lễ vàng”; vì vậy, số nữ trang Má tôi giấu
trong người cứ từ từ “biến” dần, “biến” dần theo các cuộc quyên góp
quy mô của đảng c.s.V.N..
Đôi khi tôi thấy
Má tôi khóc và than nho nhỏ:
-Đi mần chi mà
khổ như ri, Trời!
Hiện nay, Nguyễn
Phiêu Linh không còn nữa và tôi cũng không còn trẻ để nhớ rõ về
khoảng thời gian đói khổ của gia đình trong “vùng giải phóng”; nhưng
không hiểu tại sao tôi không thể quên được hình dáng của Ba tôi – sau
mỗi lần bị kiểm thảo tư tưởng – ngồi trên chiếc “đòn ngồi” bằng gỗ,
hai ngón tay của bàn tay phải kẹp điếu thuốc rê được vấn bằng lá
chuối non phơi cho heo héo một tý.
Chiếc “đòn ngồi”
gồm hai mảnh gỗ nhỏ, bằng nhau, được đặt song, phía trên là một
miếng gỗ hơi lớn, cỡ hai bàn tay, rồi dùng đinh đóng miếng gỗ lớn
vào hai mảnh gỗ nhỏ. “Đòn ngồi” chỉ thấy ở
“vùng giải phóng!”
Nhiều khi Ba tôi
cứ ngồi trên “đòn ngồi”, hai tay ôm hai đầu gối, môi phì phà điếu
thuốc rê, mắt nhìn vào cõi không gian u ẩn nào đó; đôi khi Ba tôi ôm
Mandoline, ngồi trên chiếc “đòn ngồi”, chân duỗi thằng ra và đàn những
tình khúc quen thuộc của Pháp mà tôi thường nghe khi còn trong “vùng
bị chiếm”.
Khi nào cũng vậy,
nghe Ba tôi đàn nhạc Pháp, Má tôi cũng nhắc:
-Đàn mấy bài nớ
rủi bị kiểm thảo thì khổ thân đó!
-Tụi nó “dốt đặc
cán mai” làm sao biết được nhạc nào của Tây, nhạc nào của ta mà em
lo!
Má tôi im lặng.
Tôi không biết, không nhớ, sau đó, Má tôi còn lo sợ mỗi khi Ba tôi đàn
nhạc Pháp hay không; nhưng khi Ba tôi tập cho tôi hát tác phẩm đầu tiên
của Ông – Người Tản Cư – tôi thấy Má tôi có vẻ rất lo lắng. Nhạc
phẩm Người Tản Cư cung “Ré” trưởng, slow, được Ba tôi viết lời ca như
thế này – tôi chỉ nhớ được những dòng sau đây: “Nắng vàng vừa tắt đi đêm âm u trong rừng, hoàng hôn ôm hoang vu.
Đây sương lam mờ, mờ trắng trên đồi cao. Trăng non bâng khuâng chiếu ánh nhạt xanh, rừng đắm u hoài.
Đêm về người tản cư đang mòn trông sống trong tình mến yêu nồng nàn
gia đình. Chinh phu xa vời trông cố hương người dừng cho nhắn đôi lời…”
Tôi chỉ là đứa
bé con thích ca hát, vừa được Ba tôi tập hát tình khúc của chính Ông
– tuy chưa hiểu được ý nghĩa lời ca – tôi cũng thích lắm! Suốt ngày
ngồi chơi với Phiêu Linh cạnh hầm tròn, để dễ nhảy xuống hầm khi máy
bay đến, tôi cứ “nghêu ngao” bài đó hoài.
Tôi không hiểu vì
tôi cứ “nghêu ngao” bài Người Tản Cư hoài mà “thiên hạ” nghe rồi báo
cáo hay là vì Má tôi bắt đầu dạy tôi học tiếng Pháp mà Ba tôi bị
kiểm thảo tư tưởng liên miên. Tinh thần của Ba tôi rất căn thẳng. Cuối
cùng Ba tôi dặn Má tôi, khi nào dạy tôi học tiếng Tây, Má tôi phải
cẩn thận, để Ba tôi khỏi bị họ đày đọa tinh thần.
Tuy còn là bé
con, tôi vẫn thắc mắc và tự hỏi: Tại sao mỗi tối cán bộ cao cấp
đến nhà Ba Má tôi, bảo tôi hoặc Phiêu Linh đóng cửa trước lại để Ba
tôi dạy cán bộ học Pháp văn thì Ba tôi không bị kiểm thảo tư tưởng
mà khi Má tôi dạy tôi học tiếng Tây thì Ba tôi lại bị “cấp trên”
khiển trách nặng nề?
Một hôm tôi nghe
Má tôi hỏi Ba tôi:
-Bài Người Tản Cư
có chi mô mà tụi hắn ghép anh vô tội việt gian, phản động?
-Tụi nó kết tội
anh vì câu: “Đêm về người tản cư đang
mòn trông sống trong tình mến yêu nồng nàn gia đình”.
-Anh theo tụi hắn
ra đây, chừ mình “tứ cố vô thân”, mình mong tình thương yêu gia đình
thì có chi quá đáng mà tụi hắn bắt tội anh?
-Tụi nó nói anh
ra đây sống trong tình đồng đội, trong sự quan tâm rất tích cực của
đảng, trong tình thương bao la của “bác” Hồ vĩ đại. Anh phải “giác
ngộ”, “tuân thủ” theo chủ nghĩa tam vô: Vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn
giáo thì anh mới có thể trở thành một đảng viên nồng cốt.
-Anh vô đảng cộng
sản để làm cái chi?
-Đâu có. Tụi nó
thúc hối hoài, nhưng anh – cũng như đa số bạn anh từ miền Nam thoát ly
ra đây – cứ hẹn dần; vì tụi anh đã nhận ra được bề trái bỉ ổi của
Việt Minh rồi!
Thời gian này Ba
tôi sáng tác nhạc phẩm thứ hai, tựa là Bến Thu, cung “Ré” trưởng,
slow. Mở bài là hai câu thơ:
Ai mòn mõi bên chân trời kia nhỉ!
Thấy Thu về tựa cửa mong con!
Và lời ca như thế
này: “Nắng mênh mang êm đềm tràn dòng sông vắng. Tiếng Thu rơi nhẹ
nhàng cùng áng khói lam. Chiều đến đìu hiu mang cả niềm thương
nhớ. Sương mờ thoáng rơi trên đồi Thu trầm mơ.,Ly hương, kiếp tha
phương nhuộm vết tang bồng. Chiều nay tôi thấy thoáng bóng mờ mờ trắng, đi
ngoài xa xa. Lòng bâng khuâng tôi nhớ đến người Mẹ già miền Nam, ôi xót xa! Tủi
thân người lữ thứ ôm mối sầu ly hương. Sống không một tình thương, không gia
đình, không quê quán. Mòn mỏi dừng chân sau những ngày mưa gió. Phong
trần xóa tan chuỗi ngày xanh đời tôi. Nghe chăng, tiếng thiết tha buồn nhớ quê
nhà!”
Ba tôi lại bị
kiểm thảo tư tưởng từng đêm vì câu: “Phong trần xóa tan chuỗi ngày
xanh đời tôi!”
Sau thời gian dài
bị kiểm thảo tư tưởng nặng nề mà Ba tôi cũng vẫn không thể tách rời
được sự rung động nhạy cảm của một tâm hồn ướt lệ, Ba tôi bị “điều”
về làng Sơn Tịnh, Quảng Ngãi.
Khi đến Sơn Tịnh,
Ba tôi gặp lại Bác Nguyễn Hữu Dưỡng – người thoát ly ra “vùng giải
phóng” cùng thời với Ba tôi. Nhờ Bác Dưỡng đề bạc với cấp trên, Ba
tôi nhận chức Trưởng Ban Văn Nghệ Liên Khu V, thay thế người tiền nhiệm
không biết đọc “notes” nhạc.
Sau khi trốn về
Nam, Bác Dưỡng là một giáo sư toán nổi tiếng tại các trường trung
học ở Nha Trang và Ba tôi làm việc tại Khu Công Chánh, kiêm Trưởng Ban
Văn Nghệ Khu Công Chánh miền Nam Trung phần và Ba tôi cũng là sáng lập
viên của Ban Ca Nhạc Bình Minh Đài Phát Thanh Nha Trang.
Về sau, Ba tôi thi
đỗ ngạch Hành Chánh Trung Ương và được thuyên chuyển vào Cam Ranh,
nhận chức Trưởng Ty Nội An Thị Xã Cam Ranh kiêm giáo sư Pháp văn các
lớp đệ nhị cấp – lớp đệ tam và đê nhị trường trung học công lập
Cam-Ranh – vào cuối thập niên 60 cho
đến 1975.
Cuộc đời của Ba
tôi gắn liền với âm nhạc, kịch nghệ và giáo dục, thế thì tại sao,
sau khi cưỡng chiếm miền Nam, đảng và người c.s.V.N kết tội Ba tôi là
“Ngụy” quyền rồi nhốt Ba tôi trong nhà tù Nghĩa Phú cùng với Nguyễn
Phiêu Linh – bị động viên vào khóa 6/68 trường sĩ quan Bộ Binh Thủ
Đức?
Bị người đồng chủng – c.s.V.N. – cướp phần đất mà
người miền Nam chúng tôi đã bảo vệ, vun bồi, chúng tôi vươn lên từ
tuyệt vọng! Mảnh đất này – U.S.A. – và người dân khác chủng tộc đã
dang tay ân cần đón nhận chúng tôi trong mọi địa hạc, mọi lãnh vực;
trong khi đó, tại Việt Nam, người c.s.V.N. lại nhốt tù người thân của
chúng tôi và không cho con, cháu của chúng tôi theo học đại học.
Sau khi chúng tôi tìm được sự sống an lành, chúng tôi
đã chắc mót từng đồng đô-la gửi về Việt Nam. Nếu không có những
đồng đô la của chúng tôi gửi về, liệu người dân Việt Nam trong nước
có thể qua được thời bao cấp hay không? Thế mà chúng tôi lại bị
người c.s.V.N. mạ lỵ là chúng tôi chạy theo “liếm” gót giày của đế
quốc Mỹ để ăn bơ thừa, sữa cặn!
Chúng tôi có ăn bơ thừa, sữa cặn hay không, chúng tôi
tự biết. Nhưng, từ hành động và lời nói thiếu giáo dục của người
c.s.V.N. sau năm 1975, tôi nhớ lại thái độ của các cán bộ ngày xưa
đến nhà Ba Má tôi học Pháp văn do Ba tôi dạy.
Tôi nhận ra rằng, người c.s.V.N. chỉ thích “chui” vào
cái vỏ bọc – không phải của họ – để che giấu sự yếu kém, sự thiếu
tự tin của họ chứ người c.s.V.N. không muốn và không thể sống thật
với bản chất của họ và những gì họ thật sự có.
Nhìn vào hệ quả
hiện tại của đất nước Việt Nam sau gần nửa thế kỷ bị đảng c.s.V.N.
thống trị và đời sống của người Việt tỵ nạn c.s.V.N.
tại hải ngoại, người c.s.V.N. thấy gì? Có phải người c.s.V.N. thấy
rõ sự thành công vượt bực của thế hệ tỵ nạn thứ II hay không?
Và cũng chính sự thành công vượt bực của thế hệ tỵ nạn thứ II làm
cho đảng và người c.s.V.N….thèm lắm, đúng không? Vì thèm quá cho nên
c.s.V.N. đưa ra chiêu bài “hòa hợp hòa giải” dân tộc; chiêu dụ chuyên
viên và nhân tài từ “nước
ngoài” về Việt Nam giúp Quê Hương phát triễn.
Làm thế nào để
“hòa hợp hòa giải” với những người đã nhốt tù Cha, chồng, anh, em
của chúng tôi rồi đuổi Mẹ và chị em gái của chúng tôi đi kính tế
mới để tịch thu nhà, tài sản và đất đai của Cha Mẹ chúng tôi?
Tôi hiểu, sau năm 1975, không phải chỉ có Ba Má tôi bị c.s.V.N.
tịch thu tài sản mà hầu như 99.9% tài sản của người miền Nam, của
chùa, của nhà thờ đều bị c.s.V.N. tịch thu.
Thế thì, với số tài sản người c.s.V.N. vơ vét của người dân,
kể từ năm 1975 đến nay; tài sản tịch thu của chùa, của nhà thờ cùng
với tiền người c.s.V.N. bán hoặc cho Trung cộng thuê đất xây hãng
xưởng và 500 triệu đô la do hãng Formosa bồi thường cho nạn nhân của
chất độc do Formasa thải ra người c.s.V.N. đã dùng vào mục đích gì
mà nay thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lại kêu gọi người dân “Phải đồng
cam cộng khổ với chính phủ để trả nợ công”?
Lời kêu gọi vô
trách nhiệm của thủ tướng c.s.V.N. Nguyễn Xuân Phúc mà chỉ có mấy
phản ứng trên facebook thì… đáng buồn thật!
Bao nhiêu biến
động đã xảy ra trên Quê Hương Việt Nam và nay thêm lời kêu gọi phi lý
của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mà Người Trẻ Việt Nam cũng vẫn an
nhiên, tự tại để người c.s.V.N. “ru ngủ” bằng những lễ hội “hoành
tráng” làm cho tôi nhớ đến đoạn điệp khúc trong bài hát Khánh Hòa
Niềm Thương, do Ba tôi sáng tác “ngầm” trong trại tù Nghĩa Phú. Năm
1990, sau khi Ba tôi sang Mỹ, Ba tôi mới chép lại cho tôi.
Bản nhạc được
viết với âm giai “Do” trưởng, nhịp 2/4. Sau đây là lời ca của đoạn
điệp khúc: “…Bao tiếng thét oai hùng đoàn xung phong tiến về dành
Quê Hương. Đất Khánh Hòa nhìn năm niềm thân yêu giờ đây vang tiếng than!
Người lìa Quê Hương, sông núi, đọa đày thân sống xa xôi. Quê Hương ơi!
Giờ đây thấu chăng Mẹ hiền thổn thức? Quê Hương ơi! Giờ đây thấu chăng
tiếng khóc của đàn con!...”
Năm 1990, lần đầu
tiên đàn và hát ca khúc này, tôi âm thầm quẹt nước mắt; vì tôi hiểu
được niềm kỳ vọng của Ba tôi.
Bây giờ, sắp đến đoạn kết của tùy bút này, tôi cũng không
thể nén ngậm ngùi; vì tôi không thể biết được người Việt trong nước
và người Việt ở hải ngoại còn được bao nhiêu người có cùng niềm kỳ
vọng với Ba tôi!
Điệp Mỹ Linh