Đến định cư tại miền Bắc California
Hoa Kỳ hơn nửa năm, bỗng một hôm, tôi nhận được cú điện thoại của Thung từ
Texas gọi qua. Thung là bạn học, cũng là chiến hữu của tôi ngày xưa. Hắn đề
nghị gởi vé máy bay mời tôi qua Houston chơi.. Nhân tiện thăm viếng khu vực dễ
làm ăn và giá nhà cửa cũng dễ thở hơn nhiều so với San Jose. Tôi đồng ý. Một
tuần lễ sau, một vé máy bay và một cái check 300 Mỹ kim trong bì thư gởi đến.
Đây là một món quà khá hậu hỉ ở đất lạ quê người. Ba ngày sau, tôi lên máy bay
của hãng Continental Airlines đi Texas.
Bay suốt bốn tiếng đồng hồ, chiếc
Boeing mới hạ cánh xuống phi trường Houston. Thung đón tôi tại lối ra của khu
hành khách. Lần gặp nhau cuối cùng ở quê nhà vào năm 1973, tại Đại Học CTCT Đà
Lạt. Ngày ấy, trông hắn rắn rỏi, khuôn mặt sạm nắng mà hôm nay, sau mười sáu
năm định cư tại Mỹ, hắn hoàn toàn lột xác.. Nước da trắng hồng đỏ au, cái bụng
căng tròn, dáng người bệ vệ trông “rất ông chủ”. Mà chủ thực. Thung làm chủ cái
chợ bán đồ biển. Vợ và con quản lý còn Thung lo chạy vòng ngoài.
Ngày hôm sau Thung đưa tôi đến thăm
cơ sở làm ăn của gia đình. Nào phòng mạch nha sĩ của đứa con trai đầu lòng,
phòng dịch vụ về bảo hiểm của đứa con gái. Sau đó Thung mời tôi đi ăn trưa.
Nhà hàng có tên Cổ Lũy Restaurant
tọa lạc tại khu sầm uất nhất của người Việt và Hoa tại thành phố Houston. Vào
giờ xế trưa, nhà hàng vắng khách nên chúng tôi chọn chiếc bàn đặt gần quầy thu
tiền. Người bồi bàn trao cho chúng tôi bản thực đơn. Cái tên Cổ Lũy nghe quen
thân quá. Tôi nghĩ, có lẽ chủ nhà hàng là người Quảng Ngãi. Bởi Cổ Lũy là tên
một cửa biển từ hai dòng sông Trà Khúc và Sông Vệ nhập vào. Nơi đây thuyền bè
tấp nập ra vào bến tàu Phú Thọ. Trong tờ thực đơn có món “Hến xúc bánh tráng”.
Nhìn thấy hến mình lại nhớ đến món don.. Chẳng cần xem tiếp tờ thực đơn, tôi
gọi ngay một tô don. Cô bồi bàn giọng miền Nam nhìn tôi ngạc nhiên hỏi:
– Don là món gì vậy, nghe lạ quá hỡ
ông? Thực đơn nhà hàng này không có món đó.
– Cái món “Hến xúc bánh tráng” trong
thực đơn có ghi, tại sao lại không có món don ?
Tôi vừa cự nự (kiểu Quảng Ngãi hay
co) vừa chỉ cho cô chạy bàn cái món ruột hến, rồi tiếp:
– Nếu không có don thì cho tôi cái
món số 15 này.
Cô gái bồi bàn đi vào bếp. Ngay sau
đó, một phụ nữ đứng tuổi ăn mặc sang trọng từ quầy thu tiền đi thẳng đến bàn
chúng tôi. Bà có mái tóc ngắn làm nổi bật khuôn mặt trái soan đầy đặn với làn
da trắng mịn. Thung khều chân tôi nói nhỏ : “Bà chủ”
– Chào hai anh. Người đàn bà nở nụ
cười thân thiện.
– Chào bà chủ, Thung đáp lễ.
– Vị nào thích món don ? bà chủ tươi
cười hỏi.
– Thưa bà, tôi ạ.
– Xin lỗi, anh người quê Quảng Ngãi
?
– Tại sao bà biết ?
– Tôi chỉ đoán thôi, bởi vì chỉ có
dân sống tại Quảng Ngãi mới thấy thích thú món don. Thế bà cũng là người Quảng
Ngãi, đúng không?
– Anh nghĩ sao mà đoán ra thế?
– Chỉ nhìn cái tên hiệu Cổ Lũy của
nhà hàng là biết ngay.
– Nầy ông anh, trước kia ở Quảng
Ngãi, anh sống ở huyện nào vậy?
– Tôi ở thị xã, trên đường Quang
Trung.
Ngã Tư Chính Quảng Ngãi
Người đàn bà nhìn tôi một chặp lâu rồi
quay vào bên trong nhà hàng. Lát sau, món ăn được bưng ra. Một tô bún chả cá
cho Thung và một dĩa ruột hến xúc bánh tráng cho tôi. Lâu lắm rồi tôi mới nghe
lại mùi hến. Hến ở quê nhà ruột nhỏ, dai và thơm. Còn hến đóng hộp nhập cảng
con lớn, mềm lại mất hết mùi vị. Ngày xưa, mỗi lần đi Huế, tôi nhất định phải
ăn cho được một lần cơm hến. Đi đâu xa trở về Quảng Ngãi, tôi không thể nào
quên ăn một bữa don cho đã cơn ghiền.
Cô bồi bàn bưng hai ly nước cam vắt
đến bàn chúng tôi nói của bà chủ mời, có kèm theo một tấm danh thiếp trao cho
tôi. Mặt sau danh thiếp là chữ viết của bà chủ nhà hàng mời riêng tôi đến nhà
vào chiều Thứ Bảy. Đặc biệt, bà khoản đãi món don do bà nấu. Phần dưới là số
phone và địa chỉ nhà riêng. Trên đường về, tôi hỏi Thung:
– Cậu nghĩ sao cái trường hợp lạ
lùng này ?
– Ở quê người, nhớ cố hương, gặp
người Việt đã mừng rồi huống chi lại là đồng hương Quảng Ngãi. Bà ấy mời cậu
đến nhà có lẽ để hỏi thăm tin tức bà con ở quê nhà. Cứ nhìn dáng dấp bà ấy với
cái cơ ngơi nầy là cậu hiểu ngay bà ta là dân trụ ở đây khá lâu. Biết đâu cơ
may đem đến cho cậu công ăn việc làm ở thành phố này. Bạn tôi suy luận như thế.
Riêng tôi, vì lạ đất lạ người nên có phần bồn chồn, áy náy.
Hương vị của món hến xúc bánh tráng
làm tôi nhớ đến kỷ niệm ngày mới lớn nơi quê nhà. Tôi từ trên quê xuống tỉnh
học, ở trọ nhà người chị thứ Tư trên đường Quang Trung Thị xã Quảng Ngãi. Anh
chị dành cho tôi căn phòng trên căn gác lửng. Có ban-công nhô ra làm mái hiên
cho tầng dưới. Thông thường mỗi sáng, tôi thức dậy học bài rất sớm. Đường phố
vẫn còn sương mù vướng mắc đó đây. Hàng cây bên đường trĩu nặng những hạt sương
khuya, dấu kín bóng đêm trong vòm lá sum sê. Khi chân trời vừa rựng đỏ khuất
sau hàng tre hướng Đông, là tiếng rao hàng ăn buổi sáng bắt đầu râm ran trước đường
nhựa. Nào xôi, bánh bột lọc, cháo gà, bánh canh, bánh mì… đủ các loại hàng ăn
vặt, và cũng đủ các loại âm thanh. Tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng hơi khàn,
giọng Huế, giọng Bắc, giọng Nam… Duy có tiếng rao: “Ai ăn don ho..o..o.. ông”
là khiến tôi để ý. Tiếng “ho..o..o..ông” sau cùng kéo dài không đủ hơi chứng tỏ
người rao hàng không phải giọng của người đứng tuổi. Tiếng rao nghe lánh lót
như chim non mới tập hót, âm điệu ngây thơ rời rạc. Tôi ngồi học mà vẫn để ý
đến tiếng rao bán don vang lên trước nhà. Tiếng rao như bị sương lạnh buổi sáng
sớm làm đông lại không thoát ra được, nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi hút mất ngoài xa.
Một hôm, tôi đang đứng tập mấy động
tác hít thở trên ban-công, chợt tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông” quen thuộc
vang lên phía dưới đường. Tôi vạch bức mành nhìn xuống thấy một người con gái
mặc chiếc áo bà ba trắng thân hình mỏng mảnh với gánh don trên vai.
“Ê don”, tôi gọi cô nàng đứng lại
rồi vộï vàng xuống thang gác.
Gánh don đã được đặt trước hiên nhà,
nàng đứng đó chờ tôi mở cửa.
– Anh ăn don? Nàng hỏi khi tôi nhẹ
nhàng lách mình qua cánh cửa sắt. Là một cô bé ước chừng mười mười bốn, mười
lăm. Mái tóc vừa chấm vai che một bên khuôn mặt trái soan còn măng tơ. Tôi nhìn
vào ngực cô bé, đôi nhũ hoa hồng hồng như hai núm quả cau nhú bên trong làn vải
mỏng không áo lót, khiến cô bé cúi mặt thẹn thùng. Bạn học của tôi, những cô nữ
sinh cùng cỡ tuổi đã bắt đầu chưng diện se sua, áo ngoài áo trong, phần trên
phần dưới đủ cả, không khác chi người lớn. Còn cô bé, với chiếc quần đen, áo bà
ba trắng mộc mạc nổi bật nét đẹp của người con gái chân quê.
– Anh ăn don?
Cô bé nhắc lại lần nữa, tôi sực tỉnh
trả lời :
– Không ăn don, kêu cô lại làm gì?
Cô bé chợt hiểu nở miệng cười chữa
thẹn khoe hàm răng trắng đều như những hạt bắp nếp. Nụ cười hồn nhiên khiến
người đối diện cũng thấy lòng dạt dào, xao xuyến. Cô bé hai tay thoăn thoắt múc
don. Mùi don thơm nồng pha chút hương biển từ ui don bay lên ngào ngạt. Cô bé
trao cho tôi tô don còn bốc hơi cùng với chiếc bánh tráng nướng và hai trái ớt
xiêm tươi xanh. Ăn don đâu cần phải bàn ghế. Tôi đặt bát don xuống nền xi măng,
bẻ bánh tráng bỏ vào tô giằm luôn hai trái ớt. Nước don ngọt và béo. Cái ngọt
độc đáo không phải vị ngọt của thịt, cá mà vị ngọt rất đậm đà hương vị quê
hương. Lại thêm vị nồng cay của ớt, mùi thơm của bánh tráng nướng nó quyện vào
lưỡi, ngấm vào chân răng, kích thích tận cùng tế bào vị giác. Nước don nuốt tới
đâu ấm tới đó. Trời lạnh mà ta ăn don vào buổi sáng thì mới thưởng thức được
hết cái thú ăn don ở quê nhà. Miếng don cuối cùng để lại trong miệng, trong cổ
của ta vị ngọt ngọt, cay cay, nồng nồng, béo béo quyến rũ lạ kỳ. Nó khiến người
ăn don không muốn dừng ở tô thứ nhất.
Tôi ăn ngon lành. Miệng hít hà vì ớt
cay. Cái lưỡi tê tê mùi cay nồng của loại ớt xiêm vô cùng hấp dẫn làm cho nước
mắt nước mũi tuôn ra. Nhìn cách ăn rất thật tình của tôi, cô bé cứ che miệng
cười. Một tô, hai tô rồi ba tô. Cô bé trợn trừng đôi mắt, đôi mắt bồ câu đen
lay láy. Cô kêu lên :
– Coi chừng bể bụng đó, anh Hai !
Ô, lần đầu tiên tôi được một người
con gái gọi bằng anh. Anh Hai. Mười sáu tuổi, học lớp đệ Tứ rồi đấy nhé. Thế mà
cha mẹ, anh chị cứ gọi tôi là Út Đẹt. Mẹ tôi thường nhắc chuyện hồi tôi còn
nhỏ. Đã bốn, năm tuổi rồi mà vẫn còn bú và ăn cháo. Các bà chị tôi chế nhạo
hoài mỗi lần tôi ôm vú mẹ. Chị Hai tôi hay trách mẹ tôi nhiều nhất :
– Mẹ ơi, mẹ cưng chiều nó quá làm
sao nó thành người lớn. Mẹ tôi cười, nhỏ nhẹ bảo :
– Các chị lớn cả rồi còn em nó út ít
mà”. Chị tôi bực mình bảo:
– Chừng đó tuổi mà chưa chịu dứt
sữa. Chẳng lẽ đến khi đi học, mẹ phải mang vú đến trường cho Út sao?
Chị Hai nói xong bỏ đi. Mẹ vò đầu
tôi, tóc còn ướt nhẹp mồ hôi, âu yếm :
– Giàu út ăn, khó út chịu, Mẹ có sữa
con nhờ.
Cái hòn đá bàn dưới bến sông, nơi để
giặt áo quần là chỗ ngủ của tôi trong những buổi trưa hè. Nền nhà lót gạch
trước bàn thờ là giường ngủ của tôi trong những đêm nóng bức. Các chị tôi
thường hay đùa cợt:
– Thằng Út cứ ăn chay nằm đất kiểu
nầy, lớn lên nó trở thành thầy chùa là cái chắc.
học sinh
Tôi là đứa con thứ bảy trong gia
đình. Những tá điền, người làm cho cha mẹ tôi đều gọi tôi là cậu Bảy Út. Thế mà
bác Tám Đang ở xóm dưới dám đặt cho tôi biệt danh “Bảy Thưa” chỉ vì mấy cái
răng cửa của tôi mọc hơi sưa một chút. Cái thân hình của tôi hồi đó mỏng như
thân con nhái bén. Da dẻ sần sùi khô khốc bởi suốt ngày cứ để lưng trần chạy
ngoài nắng. Mỗi lần bạn bè rủ tôi đá banh trên ruộng lúa mới cắt, chúng nó cứ
la oang oang cái tên “Bảy Thưa” nghe chẳng đẹp tý nào ấy:
– Ê, Bảy Thưa đưa banh qua cho tao.
Nào, Bảy Thưa banh đây sút vào…
Tức lắm, tôi bèn ra một điều kiện:
– Nếu bọn bay còn gọi cái tên “Bảy
Thưa” nữa là tao bỏ chơi. Nhóm thằng Thới xóm Thọ Đông đang chiêu dụ tao đó.
Liệu hồn!…
– Nầy cô bé, sao không múc tiếp một
tô nữa?
– Anh à, em chưa hề thấy người nào
ăn đến ba tô don mà còn kêu thêm nữa, ăn no quá mất ngon, thôi để ngày mai nghe
anh,
Tiếng “nghe anh” của cô bé sao mà êm
đềm quá, ngọt ngào quá. Bỗng nhiên tim tôi đập rộn ràng. Tôi muốn hỏi tên cô bé
nhưng cứ ngại ngùng, đành phải móc tiền ra trả. Cô bé đi rồi, tiếng rao “Ai ăn
don ho..o..ông” đã văng vẳng ngoài xa mà tôi vẫn còn đứng nhìn theo thẫn thờ.
Sáng hôm sau, cô bé cất tiếng rao hàng rồi đặt gánh don trước hiên nhà chờ đợi.
Tôi lại vội vàng mở cửa :
– Nầy, đằng ấy tên gì vậy ?
– Em tên Thuyền
Cô bé trả rồi dạn dĩ nhìn tôi hỏi:
-Thế còn tên anh ?”
– Hạo.. Hạo, cái tên lạ quá ! Cô bé
nhắc lại tên tôi rồi cười bẽn lẽn. Đôi tay Thuyền múc don lẹ làng, vén khéo
không hề rơi rớt. Tôi để ý lần này, cô bé đem theo một cái tô cỡ lớn hơn, khác
hẳn với những cái tô khác chồng trên miệng ui. Cô tự ý bẻ bánh tráng cho vào tô
trước khi đổ don vào. Vừa làm cô bé vừa giải thích :
– Làm thế nầy don còn giữ được độ
nóng, và hương don không bị loãng.
Cô bé trao tô don cho tôi, vô tình
tôi đặt bàn tay chạm phải tay nàng. Bé cúi mặt thẹn thùng khiến hai tai nàng
rựng đỏ, Thuyền bảo :
– Mỗi sáng anh ăn hai tô nầy là đủ
rồi.
Từ đó, sáng nào tôi cũng ăn don của
cô bé Thuyền. Thỉnh thoảng chị tôi mua ốc don tươi về nấu.. Thông thường chị
thêm vào nồi don cả thịt bằm, tóp mỡ, nhưng tôi ăn một cách lơ đãng chẳng thấy
hấp dẫn tý nào. Chị tôi chế giễu :
– Thằng Út nó đâu có mê don, chỉ mê
con nhỏ bán don.
Có lần tôi cố tình giữ bàn tay
Thuyền bên dưới tô don, cô bé cứ để nguyên nhìn tôi với ánh mắt long lanh tình
tứ.
Chặp lâu sau, nàng rút tay về hối
thúc:
– Người ta thấy kìa, ăn đi kẻo
nguội.
Thế là suốt mùa don, cô bé Thuyền ít
có buổi sáng nào vắng mặt. Ăn hoài tôi đâm ghiền. Ngày nào Thuyền không đến là
suốt ngày đó tôi thấy trống vắng lạ thường. Tôi nhớ hương vị của don, tôi nhớ
khuôn mặt của Thuyền. Suốt ba tháng hè tôi không về quê lấy cớ học bài thi. Có
lẽ nhờ ăn don mà thân thể tôi đẫy đà. Da dẻ tôi thêm hồng hào trắng mịn. Bà chị
tôi phát giác sự “thay da đổi thịt” của thằng em út. Chị chế nhạo: “Nghèo
nghèo, nợ nợ kiếm cô vợ bán don. Mai sau có chết cũng còn cặp ui”.
Năm đó tôi đậu bằng Trung Hoc Đệ
Nhất Cấp, cha mẹ tôi cho tôi theo người anh họ vào Sài Gòn tiếp tục học. Tôi từ
biệt Quảng Ngãi mà nghe lòng mình buồn tê tái. Tôi ra đi lúc trời chớm Thu,
những cơn mưa đầu mùa đã làm cho nước sông dâng cao. Tôi còn nhớ lời Thuyền
dặn: “Khi nào nước sông dâng cao thì don không còn nữa. Chừng ấy em sẽ không
còn dịp gặp anh, chỉ còn biết hẹn anh vào mùa don tới đầu tháng Hai âm lịch”.
Biết như thế nhưng sáng nào tôi cũng
trông tiếng rao của Thuyền. Tôi mong gặp nàng để nói lời từ biệt. Giờ phút chót
ngồi trên xe đò mà tôi vẫn dõi mắt đợi chờ, hy vọng Thuyền xuất hiện. Khi xe
chuyển bánh, mẹ và chị tôi mắt rưng rưng lệ nắm tay tôi từ giã. Tôi không cầm
được xúc động đã òa khóc. Lần đầu tiên tôi xa mẹ xa chị, xa gia đình cách gần
ngàn cây số. Tôi cảm thấy nỗi cô đơn như đè nặng lên lồng ngực mình. Tôi thương
mẹ, thương chị. Nhưng tình của tôi đối với Thuyền vừa nồng nàn vừa xót xa. Tôi
xót thương vì cuộc sống của nàng quá lam lũ. Tuổi vừa lên ba, cha Thuyền đã tử
nạn theo tàu đánh cá ngoài khơi khi bị cơn bão bất ngờ ập tới. Mồ côi cha, mẹ ở
vậy nuôi Thuyền ăn học hết bậc Tiểu học. Mới chừng ấy tuổi mà phải từ giã ghế
nhà trường, lăn lộn vào trường đời. Mẹ nấu don, Thuyền gánh bán dạo hàng ngày
đi về trên mười cây số.
* * *
Những đêm đầu tiên ở Sài Gòn, tôi
nhớ day dứt nụ cười rạng rỡ của Thuyền. Nhớ đôi bàn tay nhỏ nhắn của nàng run
run trong bàn tay tôi. Nhớ đến hương vị thơm lừng của tô don với chất béo của
ruột don trộn mùi cay nồng của ớt, mùi bánh tráng nướng, mùi hành lá tươi. Nó
tổng hợp thành hương vị không có món ăn nào so sánh được. Don Quảng Ngãi chiếm
lĩnh cương vị độc tôn đối với người dân Quảng Ngãi bởi nó là món ăn quê hương.
Và đối với riêng tôi có pha cả mùi hương con gái của Thuyền.
mỏ than lộ thiênXa nơi chôn nhau cắt
rún lần đầu, tôi nhớ nhất là những chuyến đi chơi với bạn bè trên núi Thiên Ấn.
Sau một hồi leo giốc mệt bở hơi tai, khát nước khô cả cổ chỉ cần uống mấy ngụm
nước giếng của nhà chùa là cơn mệt cùng mồ hôi tan đi hết. Có người bảo đó là
nước của Tiên Phật độ trì. Một truyền thuyết kể rằng có một vị sư đến đào giếng
này suốt cả năm trời, khi giếng có nước thì vị sư ấy biến mất. Ngôi chùa Thiên
Ấn tọa lạc trên đỉnh núi có mặt bằng vuông vức, cao hơn mặt nước biển trên trăm
mét, nhưng nước giếng trong và ngọt cung cấp cho chùa không bao giờ cạn. Quả là
điều rất hiếm. Đây là “Đệ nhất thắng cảnh” của quê nhà có tên là “Thiên Ấn Niêm
Hà” do quan Tuần Vũ Nguyễn Cư Trinh đặt tên trong mười hai bài thơ Đường Luật.
Mỗi bài ca ngợi một thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngãi. Đứng trên đỉnh núi nhìn bao
quát ta thấy dòng sông Trà Khúc óng ánh bạc uốn mình theo những lũy tre xanh
đến tận cùng cửa Cổ Lũy trước khi nhập vào biển Đông. Nơi đây ta có thể thưởng
ngoạn thêm “Đệ nhị Thắng cảnh” của quê hương, đó là “Cổ Lũy Cô Thôn” nằm im lìm
nơi cửa biển, nước bủa mênh mông. Nhìn chệch qua bên trái là mũi Ba-Tâng-Gâng
phơi mình với sóng bão đại dương. Để hồn trải rộng đến cuối chân trời, ta có
cảm tưởng như người được thoát tục về nơi tiên cảnh. Kẻ nào có tham vọng, mang
ý đồ đen tối mà đối diện với cảnh sắc nầy, trong thoáng chốc cũng tạm thời quên
đi.
Vào những ngày sắp nghỉ Hè, tôi nhận
được thư của chị tôi : “…Đầu mùa don năm nầy, con bé bán don trở lại. Sáng nào
nó cũng đặt gánh don trước cửa nhà chị. Lâu lâu nó rao lên “Ai ăn don hông” rồi
đứng đó đợi chờ. Người ta không biết nó đợi chờ ai, nhưng chị, thì chị đoán
biết. Thời gian kéo dài cả tháng trời, chị thấy tội nghiệp nên thỉnh thoảng kêu
don của nó cho cả nhà ăn buổi sáng. Đôi mắt nó thật buồn, cứ lén nhìn sâu vào
trong nhà mà không dám hỏi. Một hôm, cầm lòng không được, chị cho nó biết là em
vào Sài Gòn học đã gần một năm. Sau đó chị không còn thấy con bé bán don trên
con đường nầy nữa…”
Đêm đó tôi nằm mơ nghe thấy tiếng
rao: “Ai ăn don ho..o..ông” như tiếng chim cuốc lẻ đôi khắc khoải gào khan suốt
mùa Hè thương nhớ rồi cuối cùng chết khô theo con trống, chung tình. Thuyền ơi,
hãy tha thứ cho tôi. Những rạo rực tình yêu đầu đời đã làm cho con tim em phải
se thắt vì phân ly.
Rồi thời gian trôi qua, ba năm miệt
mài đèn sách đã giúp tôi quên hình ảnh cô gái bán don ngày nào. Sau khi lấy
xong bằng Tú Tài toàn phần, tôi về thăm Quảng Ngãi. Vào buổị sáng, tôi dậy sớm
cùng chị tôi chuẩn bị về quê thăm cha mẹ. Đang xếp áo quần vào va-li chợt tôi
nghe tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông”. Tôi vội vàng chạy ra ban-công gọi :
– Ê ! Cô bán don.
Tôi nhanh chân xuống thang gác mở
cửa. Cô bán don đứng đợi dưới mái hiên nhà. Thoáng nhìn, tôi tưởng một thiếu
phụ nào khác không phải Thuyền. Nhưng không, làm sao tôi nhầm lẫn được. Âm
thanh tiếng rao của Thuyền như mọc rễ trong ký ức của tôi. Cũng thân hình mảnh
khảnh đó nhưng cao hơn và già dặn hơn. Chính là Thuyền của ba năm về trước.Tôi
hỏi:
Thuyền phải không? Nàng nhìn tôi đăm
đăm, rồi những giọt nước mắt lăn tròn trên má. Tôi thấy loáng thoáng trên ngực
áo nàng vết ố của những giọt sữa đã khô. Đứng sát vào Thuyền, tôi đặt tay lên
vai nàng bảo:
– Em để gánh xuống đây, múc don cho
anh ăn nhé.
– Không. Don em đã cuối mùa, gặp
luồng nước bạc (nước lụt), em không bán cho anh đâu.
Nói xong, nàng đưa tay áo quệt nước
mắt, trở gánh quay lại con đường cũ. Tôi đứng nhìn theo nàng mà nghe hồn trĩu
nặng. Tôi cố lắng nghe tiếng rao “ai ăn don ho..o...ông” lần cuối cùng của
Thuyền lẫn lộn với tiếng rao hàng khác nhưng tuyệt nhiên im lặng, chỉ còn sót
lại hương don thoảng bay trong gió.
* * *
Chiều Thứ Bảy, Thung bỏ tôi trước
căn nhà số 28… trên đường White Forge thành phố Sugarland. Căn nhà lầu ở khu
mới xây khá đồ sộ. Vách tường áp gạch màu nâu đỏ trông thật mát mắt. Tôi đứng
tần ngần một hồi lâu mới bấm chuông. Người phụ nữ ở quán Cổ Lũy hôm trước mở
cửa, gục đầu chào rồi mời tôi vào khu phòng khách trang hoàng lộng lẫy. Bộ
sô-pha da màu vàng nhạt choán cả một góc phòng. Chiếc TV cỡ lớn cùng dàn
karaoke với hệ thống âm thanh chiếm trọn góc phòng đối diện. Bà chủ rót trà :
– Mời anh dùng nước, nàng trao tôi
tách nước rồi tự giới thiệu:
– Tôi tên là Mary, chồng tôi là
người Mỹ đưa tôi sang đây từ năm 1972. Xa quê mình lâu quá, nay gặp người đồng
hương tôi mừng lắm. Và đặc biệt là dân ở Quảng Ngãi mà lại thích ăn don như
anh.
– Bà ở huyện nào ? tôi tò mò hỏi :
– Huyện Tư Nghĩa xã Tư Nguyên.
Bà Mary nhìn tôi định hỏi tiếp điều
gì, nhưng bà lại đổi thế ngồi, xoay người sang hướng khác bưng bình trà rót
thêm nước vào tách cho tôi. Bà nói :
– Thôi, để lát sau mình nói chuyện
tiếp, giờ mời anh dùng món ăn quê nhà kẻo nguội mất.
Tôi theo nàng đến phòng ăn. Mùi don
từ trên bếp bốc hơi thơm lừng.. Bà chủ nhà bưng hai tô don hơi lên nghi ngút
đặt trên bàn có cả bánh tráng nướng, đĩa ớt xiêm và lá hành xắt nhỏ.
Bà tươi cười bảo :
– Đây là don chính hiệu từ Quảng
Ngãi đấy nhé. Người ở ngoài tỉnh cứ hiểu lầm don là hến. Thực ra don và hến là
hai loại ốc khác nhau. Ốc don dài, vỏ mỏng, ruột don có tua màu hồng thoạt
trông như cái đuôi. Nước don ngọt và ít nồng hơn hến vì don chỉ sống nơi vùng
sông nước lợ gần cửa biển. Tôi bưng tô don ăn ngon lành, ăn thật tình. Ớt cay,
don nóng, tôi hít hà, nước mắt nước mũi chảy ra. Bà chủ nhà đưa tissues cho tôi
với ánh mắt đầy xúc động.. Một tô rồi hai tô, bà ngồi nhìn tôi ăn và khuyến
khích thêm tô nữa nhưng tôi vỗ bụng lắc đầu từ chối. Nàng bảo :
– Anh sợ vỡ bụng đấy à?
Câu nói của bà chủ khiến tôi sực nhớ
đến Thuyền, cô gái bán don thời tôi còn trung học ở Quảng Ngãi. Cô bé đã từ
chối bán cho tôi tô thứ tư với câu : “Coi chừng bể bụng”.
Tôi ngước nhìn bà Mary, tâm sự:
– Ăn don hôm nay khiến tôi nhớ đến
kỷ niệm thời niên thiếu ở quê nhà. Tôi là khách ăn thường xuyên của cô gái bán
don tên Thuyền. Tôi thương nàng và tội nghiệp hoàn cảnh cô ấy. Mới mười mấy tuổi
đầu đã phải bỏ học thay Mẹ đi bán don dạo. Buổi sáng nào Thuyền cũng gánh don
đến trước nhà tôi trọ học và chăm sóc tô don cho tôi như người chị lo cho em.
Sau nầy tôi vào Sài Gòn học đã quên bẵng cô bé bán don. Ba năm sau trở về Quảng
Ngãi, tôi tình cờ gặp lại nàng cũng với gánh don trên vai, nhưng cô bé đã trở
thành thiếu phụ. Thuyền đã từ chối không bán don cho tôi còn bảo… Vừa nói đến
đây, chợt bà Mary cướp lời tôi, lên tiếng :
– Em không bán cho anh đâu, don em
cuối mùa lại gặp luồng nước bạc!
Bà chủ nhà đã nói lên nguyên văn câu
nói của Thuyền ngày xưa, ẩn chứa sự trách móc giận hờn, khiến tôi giật mình
sửng sốt. Tôi nhìn vào mắt bà Mary, hình như long lanh ánh nước. Tôi kêu lên:
– Thuyền phải không?
Thuyền ngày xưa không trả lời câu
hỏi của tôi chỉ đưa tay áo lau dòng lệ. Mary bây giờ với giọng ngậm ngùi:
– Vâng, em là Thuyền của 37 năm về
trước. Em đã nhận ra anh ngay khi anh cho biết chỗ ở trước kia là đường Quang
Trung. Đó là con đường dạt dào hạnh phúc trên mỗi bước đi của em hồi đó, mà
cũng là con đường mang đầy xót xa thương nhớ ngày anh rời xa. Thuyền đứng dậy
đến ôm vai tôi :
– Cảm ơn anh đã cho em một tình cảm
trân quý, dù là đối với một cô gái bán don nghèo hèn. Suốt quảng đời đen tối về
sau này, tình anh là ngọn đèn thắp sáng cho em trong những đêm mịt mù sương
tuyết. Hạo ơi – cái tên nghe lạ quá – ngày đó em đã nói với anh như thế. Nhưng
sau nầy mỗi khi gặp những đau khổ chất chồng, chính cái tên Hạo trở nên thân
thương sưởi ấm lòng em.
Tôi nắm lấy tay nàng, nói như một
triết gia:
– Đời như một dòng sông, chuyển đổi
không ngừng. Xưa kia Thuyền là cô gái bán don, ngày nay Mary là chủ một nhà
hàng lớn nhất nhì ở đây. Chúc mừng em. Chúc mừng người đồng hương Quảng Ngãi đã
nắm bắt được cơ hội vươn lên trên xứ người.
Sau buổi hàn huyên, Thuyền đưa tôi
ra tận xe khi bạn tôi đến đón. Lên xe rồi, tôi thấy nàng còn quyến luyến nhìn
theo, đưa mấy đầu ngón tay áp vào môi hôn. Tôi hít một hơi thật sâu vào lồng
ngực, chợt nghe hương don còn nồng trong hơi thở.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích