Mọi chuyện dường như là có sự sắp đặt. Trong cuộc đời tui,
bao nhiêu lần vào sanh ra tử, cứ tưởng là sắp đi thăm ông bà ông vải, nhưng lại
chưa. Bà xã, thỉnh thoảng vẫn chọc quê, "Nghèo mà ham; anh tưởng muốn đi
là đi hả? Tui chưa cho anh đi thì hổng được đi đó. Nghe chưa?". Chuyện
tình duyên thì cũng rụp, rụp, rụp - ý tui muốn nói là suôn sẻ đó. Còn chuyện
người anh kết nghĩa thì như trên trời rớt xuống. Đúng là người tính hổng bằng
Trời tính mà. Tía hay nói như dzậy.
Nói xa nói gần hổng bằng nói thiệt tui là con một trong gia
đình nông dân nghèo. Nghe Má kể lại thì lúc được 1 tuổi rưỡi, tui bị bịnh ban
gì đó, mà hai thầy thuốc Nam trong miệt cồn Dừa (tỉnh Phong Dinh) này đều bó
tay. Tía bằng lòng bán miếng ruộng duy nhất của gia đình để có tiền đưa tui lên
Sài Gòn chữa bịnh, nhưng đường đi quá cực khổ, và có thể tui sẽ chết trên đường
trước khi tới nhà thương, thành ra lại phải trở về khi đi chưa được một phần
năm đường. Hổng lẽ ngồi khoanh tay nhìn con mình chết, Tía nghe người ta mách
hái mấy lá gì đó trộn với xả nấu cho tôi uống. Uống xong, nghe Má kể lại, tôi
giựt giựt mấy cái rồi nằm xụi lơ, rồi ngủ luôn 2 ngày. Khi tui thức dậy, Má
khóc quá trời vì quá mừng. Qua được cơn bịnh này thì tui hơi chậm lớn và cũng
hơi chậm nói - nghe Má nói như dậy. Giờ ngồi nghĩ lại thấy thương ổng bả quá trời.
Khi được 5 hay 6 tuổi tui hay theo Tía ra đồng coi dùm Tía mấy
cái cần câu trong lúc ổng làm ruộng. Ngồi hổng có gì làm, tui thường lượm gạch
hay sỏi để chọi chim, rắn hay chuột đồng. Nhiều hôm tui chọi trúng được vài con
chuột hay chim đem về cho Má nướng. Còn cá trê Tía câu Má kho tiêu ngon lắm. Thỉnh
thoảng Tía uống rượu đế với mồi cá kho tiêu, và khi uống rượu Tía nói nhiều hơn
mọi ngày. Phải nói là cuộc sống khá êm đềm.
Tới 8 tuổi tui mới đi học, nhưng tui học dở lắm, chắc là tại
quá ham chơi. Khi rảnh tui làm ná bắn chim (thay vì chọi đá như hồi nhỏ). Tui
cũng hay chơi bắn bi với tụi nhỏ hàng xóm. Phải nói là tui dùng ná rất giỏi vì
ngày nào tui cũng đem chim, vịt trời hay chuột về cho Má làm đồ ăn. Khi bắn bi
cũng vậy, tụi bạn thua tui dài dài, thành ra có tiền mua bánh tráng, xôi với cà
lem ăn. Chỉ có học là tui dở thôi. Học đó rồi quên đó. Phải học lớp Năm đến 2
hay 3 lần mới được lên lớp Tư.
Có lần tan học, trên đường về, tui theo bạn bè vào vườn mía
đỏ bỏ hoang (thân mía màu ưng đỏ hồng, mềm và ngọt khỏi chê luôn). Muốn được
mía lớn tui phải đi tuốt vô trong sâu. Đang kéo chiến lợi phẩm ra, thì tui thấy
đau điếng dưới chưn. Nhìn xuống thì trời ơi, một con trăn bự đang cắn chặt vô
cái bắp chuối. Tui cố kéo chưn ra nhưng hổng xong vì con trăn mạnh quá. Thân nó
trườn tới và quấn luôn chưn kia. Biết là hổng xong nếu tiếp tục cá đà này, tui
la cầu cứu nhưng vì ở tuốt trong sâu, hổng ai nghe. Hai chưn bị trăn cột xiết rồi,
tui ngã xóng xoài - chuyện đi thăm ông bà là cầm chắc trong tay. Hai chưn đã tê
cứng. Chợt nghĩ tới Tía và Má, tui như bừng tỉnh và quơ đại cái cặp táp. Đang
dùng cái cặp táp da đập vô đầu con trăn, cây viết văng ra. Tui dùng cây viết
đâm túi bụi vào mắt con trăn. Đâm hết mắt này rồi đâm qua mắt kia. Chắc là bị
tui đâm khá sâu vào mắt, con trăn tự nhiên nhả chưn ra, lăn lộn, hổng xiết nữa,
và bò đi nơi khác. Hôm đó Má khóc nhiều lắm. Má cứ lẩm bẩm cám ơn ông bà che chở.
Má nói là cái số tui chưa rụng. Tía tới vườn mía hoang và bắt được con trăn mù
cổ bà chảng. Đem ra chợ bán thịt được gần hai chục đồng. Lúc đó 1 lượng vàng chỉ
có 65 đồng. Tía nói sẽ dùng tiền này cho tui khi đi học xa, hay lúc cưới vợ.
Tía cấm hổng được đi vô rừng mía đó nữa. Nói cho cùng, sau cái vụ trăn quấn thì
có cho tiền tui cũng hổng dám vô.
Tui học ạch đụi tới năm 15 tuổi mới học xong lớp Nhứt. Thấy
tôi học chậm, Tía cho tui ở nhà phụ làm rẫy. Mùa hè năm sau nhóm trẻ tụi tui đá
banh thắng nhóm bên cồn Cát 3-2. Tui đá vô gôn luôn 2 trái trong vài phút chót
vì tui chạy lẹ lắm. Được 80 đồng phần thưởng, tui dẫn "đội banh nhà"
ra chợ ăn gỏi đu đủ và uống nước mía. Thắm, cô bán nước mía, nhận ra tui, nhưng
tui hổng nhận ra cổ. Hỏi ra mới hay là tui học cùng lớp với Thắm 6 năm trước. Cổ
khác hẳn con nhỏ ốm nhom, đen thui hồi đó. Thắm giờ có da có thịt, da bánh mật,
nói chuyện có duyên, và biết buôn bán. Sau lần đó, tụi tui kết nhau. Đưa Thắm về
nhà, Tía và Má mừng lắm. Má nói là Má luôn muốn tui có người anh để giúp đở bảo
bọc vì tui chậm chạp và thật thà. Nay có người bạn đời giỏi như Thắm đến với
tui, Má vui lắm. Tám tháng sau, tụi tui lập gia đình. Khoảng 1 năm sau khi cưới
vợ thì tui phải nhập ngũ.
Chỉ sau vài tháng trong Quân Trường Quang Trung, vì được nhiều
sự chú ý của các huấn luyện viên cao cấp bởi tui chạy đua rất mau (chắc vì muốn
thắng đá banh để có tiền mua nước mía), và tui bắn súng hết xẩy (hay là vì chọi
đá bắt chuột, dùng ná bắn chim, bắn bi kiếm tiền mua đồ ăn ... hồi nhỏ), tui được
huấn luyện đặc biêt để trở thành xạ thủ. Khi mãn khóa ở Quang Trung, tui được
chuyển đi Kontum với cấp bực binh nhì trong đội Biệt Kích. Nhiệm vụ của tui là
trốn trên những đồi cao có nhiều cây, quan sát, truyền tin và bắn tẻ khi được lịnh.
Có khi tui đi chung nhóm 3 hay 5 người, và có khi chỉ có mình ên. Thường được
thả trên rặng Trường Sơn vào những đêm sương mù dầy đặc. Những lúc đi xa, tui
nhớ Thắm, nhớ Má và Tía lắm. Cái sướng của công việc này là tui dùng sở trường
của mình (chạy mau và bắn giỏi) để phục vụ đất nước. Tui cũng khoái vụ trốn
trên núi cao vì hồi nhỏ thích chơi Năm Mười. Xếp tui dặn là bất cứ ai hỏi thì
tui phải nói tui là lính kiểng gác kho gạo trên Đà Lạt. Mà cũng hay, vì sau khi
núp trên núi vài tháng nên da trắng và tóc dài, tui dòm cũng giống lính kiểng lắm
chớ bộ. Sau mỗi lần đi công tác vài tháng tui được nghỉ phép cả tháng với rất
nhiều tiền (hình như là tiền tử) khi về thăm gia đình. Tiền bạc dồi dào, tui
mua đồ cho mọi người mút chỉ. Vì vậy bạn bè, hàng xóm thương, che chở và giúp đỡ
tui.
Lần đó sau khi về thăm nhà chưa được 2 tuần lễ, tui bị gọi về
gấp vì có chuyện lớn. Đi lẹ ra Ô Môn, vô sân bay Trà Nóc, bay thẳng về KonTum để
nhận lịnh. Trước khi được điều động lên một địa điểm bí mật trên rặng Trường
Sơn để thăm dò như các lần trước, tui được dặn là phải cố gắng nhiều vì 2 đồng
nghiệp Biệt Kích (BK) đã mất tích trong vùng đó. Điều may mắn lần này là tui
tìm được 2 người BK kia không xa nơi đáp xuống. Một người đang bị bịnh. Máy
truyền tin bị hư, và đạn dược thiếu thốn tại một số lớn quân nhu bị rớt mất khi
thả dù. Tụi tui núp trong 1 hang núi có nhiều cây rậm rạp. Điều không may mắn lần
này là tụi Việt Cộng biết được sự có mặt của nhóm BK vì họ tìm ra số quân nhu
và dụng cụ bị rớt. Họ lùng kiếm ráo riết. Để được an toàn, tụi tui im hơi lặng
tiếng và chỉ bắn khi thiệt cần. Sau cùng cũng phải bắn trả vì tụi nó tới quá gần,
nhưng tụi tui bắn thật ít vì thiếu thốn đạn dược. Tụi Việt Cộng dù đông hơn,
nhiều đạn hơn, nhưng hổng dám mạnh dạn tiến lên vì họ ở vị trí dưới thấp, trong
khi nhóm tụi tui phía trên cao bắn xuống phát nào trúng phát nấy. Cầm cự được
hơn 6 tiếng đồng hồ, thì nhóm tui gần như hết đạn. Chỉ còn vài trái lựu đạn để
tử thủ. Tui không nghĩ là mình qua được con trăng này. Nghĩ tới Thắm, Tía và
Má, tui chạnh lòng.. Trong cơn nguy hiểm như chỉ mành treo chuông, bỗng nhiên máy
bay trực thăng tiếp cứu tới. Máy bay phải đánh đông phạt tây (điệu hổ ly sơn)
và dùng hỏa mù để cứu nhóm tui. Trong phi vụ này, tui bị thương vì té gẫy tay
và được đưa về Chẩn Y Viện Cộng Hòa điều trị. Sau thời gian dưỡng thương, tại
tay hổng còn khỏe và chính xác như ngày trước, tui được chuyển về 1 quận lỵ nhỏ
gần Suối Dây, tỉnh Tây Ninh với cấp bực Hạ Sĩ Nhứt và giã từ cuộc sống BK Đặc
Biệt từ đó.
Khoảng 4 tháng sau thì Thiếu Úy Đức (TUĐ) người Bắc tới làm
Phó quận trưởng. Tui được lựa làm gạc đờ co (bảo vệ) cho ông Phó. Vài lần đang
lái xe jeep chở ông Phó đi quan sát ngoài biên giới quận thì tụi Việt Cộng bên
kia rừng Tràm bắn lén. Vừa nghe tiếng nổ là tui phản xạ đẩy TUĐ nằm xuống, che
cho ông, và cùng lúc tui nhả hàng loạt đạn về phía tiếng nổ. Sau vài lần như vậy,
tui được tin cẩn hơn và trở thành cánh tay trái của ổng. Tui luôn khuyên ổng phải
cẩn thận, vì đây là vùng xôi đậu không biết ai là địch, ai là thù. TUĐ là thượng
cấp, nhưng ổng cũng xem tui như người nhà. Một lần đưa ổng đi xem nhà cửa của
dân làng do nhóm lính sửa chữa, TUĐ gặp cô Hân (con gái bà chủ căn nhà ở cuối
quận, kế bên con sông nhỏ ngăn cách khu rừng Tràm âm u bên kia). Theo như tui
thấy thì hình như lúc gặp cô Hân, TUĐ bị tiếng sét ái tình hay sao đó vì ổng đứng
như trời trồng và nói năng lắp bắp. Thấy kỳ quá, thêm nữa khu này nguy hiểm khi
trời sâm sẩm tối, tui nói thay cho ổng:
- Trễ rồi, Thiếu Úy. Mình phải đi dzề. Chào cô.
Cô Hân đẹp, ăn nói khéo léo, ... chắc là người bên kia, gài
lại đây. Tía của cô vắng mặt. Hay là ông ta đã tập kết ra Bắc? Thêm nữa, tên Ba
Thọt (ở đối diện nhà cô) - một người có tiểu sử và hành động rất khả nghi - thường
qua lại nhà cô thăm viếng.
Mỗi sáng khi cô Hân đi làm ngang văn phòng quận, tui thấy cô
cố tình đi chậm lại. Hay là cô đang nghe ngóng tin tức? hay là xem cá có cắn
câu chưa? hay là đang dò sét tình hình trong văn phòng quận để tường trình cho
phe bên kia?... Hàng trăm câu hỏi, nhưng hổng có câu trả lời. Thôi, tốt nhứt là
đề phòng thì vẫn hơn.
Vài tháng sau, Kontum, Ban Mê Thuột và nhiều vùng cao nguyên
thất thủ. Rồi Bảo Lộc-Madagui vào tay bọn qủy đỏ, ... Một buổi chiều tháng tư,
tụi Việt Cộng đem xe tăng, súng lớn tới tấn công quận. Đại Úy Long quận trưởng
mất tích. TUĐ và các anh em quân đội tụi tui liều chết bắn chặn quân địch. Trước
hỏa lực quá mạnh của địch, lực lượng tiểu đoàn phòng thủ quận tan rã. Kẻ chết,
người bị thương, người chạy trốn. Tui và TUĐ đều bị thương nhẹ. Cùng đường, hai
thầy trò chạy về phía cuối quận. Đinh ninh là Ba Thọt hay cô Hân sẽ chờ để bắt
sống hay thanh toán tụi tui ở đó, tui cầm chắc khẩu tiểu liên sẳn sàng mạng đổi
mạng. Khi chạy tới gần con sông cuối quận (gần nhà cô Hân), TUĐ ngã quỵ vì kiệt
sức. Đang đỡ TUĐ lên, thì cô Hân chạy ra mở cửa rào ra dấu cho tụi tui vào nhà
gấp. Khi vào trong, cô băng bó cánh tay của TUĐ. Cô đưa cho tụi tôi 2 nắm cơm
và ít nước lạnh để ăn cầm hơi. Trong lúc tui và TUĐ ăn, cô lấy 2 ruột xe đạp,
bơm lên, và đưa cho tụi tui. Cô ta chỉ tay vào con sông sau nhà:
- Hai anh thả nổi chừng 8 hay 9 cây số tới nhà thờ Suối Dây.
Nhớ tìm người linh mục gốc Nam Định xin giúp đỡ. Chừng nào khỏe lại thì đi. Nếu
tình hình lộn xộn quá, thi trốn qua Kampuchia. Hai anh đi cho lẹ trước khi họ tới
đây.
Lúc đó tui mới biết là mình sai. Cô Hân là người ơn, chứ
không phải là vẹm như tui nghĩ. Món nợ cứu mạng này lớn lắm.
Khi tụi tôi xuống sông thì trời đã tối. Nương theo dòng nước
hai thầy trò tới nhà thờ Suối Dây khoảng 2 giờ sáng. Người Linh Mục dấu tụi tui
ở đó gần 3 tuần lễ dưỡng thương. Khi gần như hồi phục hoàn toàn, TUĐ và tui
chia tay. Hôm đó cả hai đều khóc. TUĐ nghẹn ngào:
- Hạ Sĩ Nhất Sơn. Tôi bao giờ cũng xem chú ... như người
nhà. Cám ơn chú ... đã làm việc với tôi trong 2 năm qua, và ... đã giúp đỡ tôi
trong cơn hoạn nạn này. Nếu còn duyên thì anh em mình sẽ gặp lại.
Sau khi từ giã TUĐ và người Linh Mục, tui về Cần Thơ đoàn tụ
với gia đình. Mất mấy ngày mới về tới Sài Gòn. Thành phố giờ có tên mới -cái
tên của kẻ sát nhơn. Tui hổng quen dùng cái tên mới đó. Phải mất thêm cả tuần nữa
mới quá giang về đến cồn Dừa vì xe cộ bị đình trệ sau ngày đổi đời - cái ngày
mà hàng vạn người vui, nhưng hàng triệu người buồn. Khi bước vô nhà, Má bật
khóc vì quá mừng. Thắm thấy tui tiều tụy quá cũng khóc. Tía thì nhờ người hàng
xóm đi mua ít đồ ăn mừng ngày đoàn tụ.
Hai hôm sau, 3 người Công An tới nhà chỉa súng bắt tui đi
lên xã. Xã trưởng là 1 tên Bắc Kỳ răng hô mã tấu với khuôn mặt khắc khổ nhăn
nheo như cái mền rách. Hắn đập bàn đánh phủ đầu với giọng Bắc đặc sệt:
- Mày có biết tội phản động làm việc cho CIA cũa Mỹ Ngụy nặng
như thế nào không? Tội ác của mày lớn lắm. Mày có nợ máu với nhân dân.
- Thưa đồng chí xã trưởng ...
- Ai là đồng chí với bọn phản động như mày.
- Dạ thưa xã trưởng. Tui chỉ là lính kiểng gác kho ở Đà Lạt.
Tui có bắn giết ai đâu?
- Tao có hồ sơ của mày. Đừng chối cãi nữa. Nhận tội đi. May
ra được Đảng khoan hồng.
- Thưa Xã Trưởng, chắc là có người trùng tên, chứ tui đâu có
làm gì như dậy.
- Giam thằng này lại. Đồ ngoan cố, mất dạy. Tuần tới đưa nó
lên phòng Công An tỉnh để giải quyết.
Tui bị nhốt 8 ngày trước khi bị chuyển lên ty Công An tỉnh Cần
Thơ. Khi vào gặp Trưởng phòng Công An, tui không dè đó là thằng Huân trong đội
đá banh ngày nào. Nó ăn gỏi đu đủ bò khô và uống nước mía với tui sau các trận
đá banh vài lần. Thêm nữa mỗi lần tui về thăm nhà, tui đều có mua đồ cho thằng
Huân và cho dì Tám má nó. Tui cũng nói là làm lính kiểng trên Đà Lạt, khi nó hỏi.
Thằng Huân nhận ra tui ngay. Tui chỉ trả lời bằng những gì
mà Xếp cũ của tui dặn nói. Tui đổ thừa là có người trùng tên. Nhờ thằng Huân dễ
dãi, tui thoát nạn.
Tui đi cải tạo mấy ngày dành cho Hạ Sĩ Quan. Sau đó được
"khoan hồng" về làm rẫy với gia đình ở Cồn Dừa.
Xã hội dưới tay đảng CSVN xuống dốc như xe hổng thắng. Ai
cũng nghèo, đói, và khổ cực. Gia đình tui làm rẫy, cũng bữa đói, bữa no, nhưng
đỡ hơn nhiều người. Tui lại bắn chim sẻ, vịt trời như hồi nhỏ. Tiếp tục bắt chuột
đồng, bắt cá lóc hay cá trê dưới ruộng làm khô lén để dành cho những ngày mưa
gió. Hai năm sau Thắm cho gia đình tui 1 tin vui là thằng con trai đầu tiên. Rồi
năm sau nữa thì thằng thứ hai. Khi miếng ruộng duy nhất của gia đình bị sung
công, Tía rầu rĩ sanh bệnh và ra đi năm sau đó. Mất đất trồng trọt, gia đình dọn
về Ô Môn năm 1979. Vợ chồng tui làm công làm mướn bất cứ thứ gì ở chợ Ô Môn để
kiếm tiền.
Đã 8 năm từ ngày rời Suối Dây, tui hổng có tin tức gì về Thiếu
Úy Đức (TUĐ). Tình cờ năm 1983 khi đi mua bán đồ ở chợ Cái Răng, tui gặp Đại Úy
Long (ĐUL) Quận Trưởng năm nào. ĐUL mới được thả về từ trại cải tạo trước đó 6
tháng, và còn đang bị quản chế. Đi đâu cũng phải xin phép và trình diện mỗi tuần.
Thấy tình trạng ĐUL thảm quá, tui cho ổng 1 con khô mực và nửa ký gạo dấu trong
sách tay. ĐUL nói là có gặp TUĐ trong tại cải tạo mùa thu năm 1977. Khoảng 2
năm sau, nghe nói là TUĐ vượt ngục rồi bị bắn chết ở gần biên giới Lào làm
gương cho kẻ khác. ĐUL cũng cho biết là khi được thả, trên đường về ổng nghỉ 1
đêm tại quận lỵ ngày xưa vì không còn xe về Sài Gòn. Quận tiêu điều lắm. Tui hỏi
về mấy người ở cuối quận kế bên con sông nhỏ. ĐUL nói là 2 căn nhà đó đã bỏ
hoang, xiêu vẹo, không người ở. Nghe làng xóm nói là bà già (má cô Hân) đã chết
và chôn trong ngôi mộ nhỏ sau nhà. Đứa con gái (cô Hân) thì biệt tăm. Hình như
đã chết trôi vì người ta tìm thấy dép của cổ và cục xà bông ở bờ sông sau nhà.
Tui nghe xong cảm thấy choáng váng như bị trúng gió. Hôm đó tui về nhà khóc. Vợ
tui hỏi. Tui kể lại sự tình. Tội nghiệp vợ tui. Thắm làm 1 bàn thờ cho TUĐ trên
nóc tủ kế bên bàn thờ của Tía và Má, và tối đó cúng 1 chén cháo trắng.
Làm ăn ở chợ Ô Môn khó khăn, gia đình tui mướn 1 miếng đất
cách Ô Môn 20 cây số để trồng khoai mì và khoai lang. Tui dậy 2 đứa nhỏ làm bẫy
bắt chuột đồng, làm ná bắn chim, ... Vợ chồng tui thì quen cảnh nghèo rồi. Chỉ
tội 2 đứa nhỏ thiếu ăn và tương lai mù mịt. Nhiều đêm nóng nực hổng ngủ được,
tui cứ nhớ lại những ngày tui ở Suối Dây. Nhớ TUĐ và nhớ cả người đã cứu hai thầy
trò. Chỉ biết chắc lưỡi thở dài cho người vắn số.
Sau nhiều kế hoạch kinh tế đảng CS đưa ra đều thất bại,
chính quyền thả lỏng và có ý muốn đi theo kinh tế thị trường tự do. Cuộc sống
dân nghèo trở nên dễ thở hơn một chút.. Gia đình tui bắt đầu nuôi heo để thanh
toán số khoai lang ung thúi khi bán hổng hết.
Làm sao tui quên được buồi chiều hôm ấy. Đó là một buổi chiều
đầu tháng Tư năm 1995, khi tui đang làm rẫy, ngăn nước không cho vào đất trồng
trọt quá nhiều, thì Thắm ra rẫy gọi về nhà có khách. Khi về nhà thì thấy 2 người
ăn mặc sang trọng có vẻ đàng hoàng. Tui không nhận ra người đàn bà, nhưng người
đàn ông thì nhìn quen lắm. Sau vài giây ngỡ ngàng, người đàn ông nhìn tui và
nói một cách ngậm ngùi trong nước mắt:
- Chú Sơn có nhận ra tôi không? ... anh Đức đây?
- "Hả, ... ôi trời, Thiếu Úy Đức, ... ông
Phó!..."; Tui trả lời khi nước mắt bắt đầu ứa ra vì quá mừng.
- Đừng gọi như vậy. Gọi là anh hay anh Đức vì chú là em của
tôi mà.
- Dạ, dạ ... ông Phó, à quên, ... anh Đức. Tưởng là anh đã
... Gia đình tui làm bàn thờ cho anh mười mấy năm nay.
- Thắm ơi, đây là anh Đức. Thằng Tân, thằng Hoàng, ra chào
Bác Đức.
- Còn đây là bà xã của anh.
- "Dạ, chào chị. Dạ, chị tên gì?"; Tui hỏi.
- "Chú nhìn kỹ xem ai ? Cô Hân ở Suối Dây đó"; TUĐ
trả lời.
Tui lặng cả người và đứng chết trân. Người ơn của tui bằng
xương bằng thịt ngay trước mặt. Thời gian như dừng lại. Nước mắt bắt đầu chảy
tràn trên mặt, và giọng nói lạc đi:
- Tui hổng có dè có ngày này... 20 năm rồi. Cám ơn anh chị
... đã nhớ đến tui... Tui mừng quá. Sao ... tới bây giờ anh chị mới tới ? Tui
có nằm mơ hông ?
TUĐ lau nước mắt, rồi chậm rãi nói:
- Chuyện dài lắm. Sẽ kể sau. Bây giờ anh chị mời cả nhà đi
ăn mừng. Tốn cả tuần đi kiếm cô chú đó.
* * *
Nghe anh kể lại chuyện trốn khỏi trại tù năm 1979, và bao
nhiêu lần vượt biên hụt, tui nể quá. Chuyện chị giả chết trôi để trốn khỏi Suối
Dây và những lần vượt biên bị bắt thì cũng ly kỳ quá trời. Rồi đến khúc hai người
gặp lại nhau bên Mỹ, tui mừng như là chuyện của mình. Tui hãnh diện có được ông
anh và bà chị dâu giỏi như vậy.
Mấy bữa sau, vợ chồng anh mướn xe đưa gia đình tui đi thăm
Suối Dây. Trên đường về, có ghé Vũng Tàu tắm biển. Thấy thương bà xã và 2 đứa
con tui quá. Lần đầu tiên vợ con tui được đi xe hơi, được đi ra khỏi Cần Thơ,
được lên Sài Gòn, được đi Suối Dây, được ra tắm biển Vũng Tàu, được đi ăn nhà
hàng, được uống nước ngọt cô ca cô la.
Trước khi về Mỹ, tui hổng dè vợ chồng anh lại giúp một số tiền
lớn để mua một cửa hàng gần chợ Ô Môn buôn bán nông phẩm cho gia đình tui đỡ cực.
Anh chị nói sẽ về thăm thường xuyên hơn.
Tối hôm đó tui thắp nhang cho Tía và Má. Tui thì thầm
"Má ơi, Má luôn muốn là con có người anh để che chở cho con. Má ơi, điều
Má muốn đã xẩy ra. Con cám ơn Tía và Má"
Như tui đã nói, cuôc đời tui như có sự an bài hay sắp xếp.
Vào sanh ra tử bao lần, mà hổng sao. Duyên phận củng thẳng tắp. Khúc sau cuộc đời,
cực thiệt, nhưng lại có thêm người anh nuôi và chị dâu hổ trợ. Bây giờ tui hổng
có kỳ vọng nào hơn là sẽ có một ngày cái nhóm mắc dịch, khốn nạn, vô thần, vô đạo
đức này tan rã cho tui nhờ và cho người dân bớt khổ.
Ngày đó chắc là phẻ re, há?
Nguyễn Vô Danh