TS Nguyễn Thanh Giang (1936 – 2019)
Sống trong một đất nước mà những kẻ tổ chức làm bạc giả đang ở địa vị
cầm quyền, khi khám phá ra những đồng tiền giả – lẽ ra – ông Nguyễn Thanh Giang
không nên tri hô (ầm ĩ) lên như vậy. (tnt)
Qua bán tuần san Thời Báo Kinh Tế VN – số ra ngày 3 tháng 4 năm 99 – phó
tiến sĩ Nguyễn Hữu Hải, có phát biểu rằng “nghèo đói thường gắn liền với
phong tục tập quán lạc hậu, với địa hình nơi cư trú…” Điều ông Hải nói
đúng nhưng không đủ. Tuy nhiên, ông ta không nói hết lời, cố tránh đề cập đến
nguyên nhân của sự nghèo đói ở VN một cách rõ ràng hay rốt ráo hơn.
Cũng trong số báo này, khi được hỏi “liệu năm 1999 số hộ đói có giảm so với
những năm trước hay không?” – Thứ Trưởng Bộ Thương Binh Xã Hội VN, ông Đàm Hữu
Đắc đã trả lời: “Nếu tình hình thời tiết không có đột biến xấu như hai năm
1997, 1998 thì tình hình nghèo đói ở Việt Nam trong những năm 1999 và những năm
tiếp theo sẽ giảm đáng kể.”
Khác với ông Hải, ông Đắc nhấn mạnh đến thiên tai (chứ không phải phong tục tập
quán) như là nguyên nhân chính gây ra nghèo đói. Tương tự như ông Hải, ông Đắc
cũng (“né”) không muốn nói đến nhiều nguyên nhân khác – và là nguyên chính – đã
gây ra sự bần cùng, khốn khó cho xứ sở của mình.
Trước đó hai hôm – báo Nhân Dân số ra ngày 1 tháng 4 năm 99, tại Hà Nội – có
đăng bài xã luận “Thực Hiện Tốt Tổng Điều Tra Dân Số Và Nhà Ở Trên Cả Nước.”
Người viết (không ký tên) đề cập đến tất cả mọi vấn đề liên quan đến việc điều
tra dân số thực hiện năm đó, trừ mỗi một chuyện – và chuyện này lại được tiết
lộ ở một tờ báo khác (báo Thời Luận, số ra ngày 24 tháng 3 năm 99, tại Los
Angeles, Hoa Kỳ) qua hình thức một mẩu tin ngắn, nguyên văn như sau:
“Ngày 23 tháng 3 năm 99, ông Erick Palstar, Trưởng Đại Diện Quĩ Dân Số Liên
Hiệp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam cho biết vào lúc không giờ ngày 1 tháng 4 năm 99
Việt Nam sẽ tiến hành cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở. Công việc này lại
tiếp tục được đài thọ bởi Liên Hiệp Quốc, và- vẫn theo lời ông Erick Palstar –
đây là một trường hợp ngoại lệ chưa từng có trong lịch sử. Chưa có quốc gia nào
cần phải được Quĩ Dân Số Liên Hiệp Quốc giúp tới ba lần liên tiếp với lý do là
không có khả năng tài chánh để thực hiện một mình.”
Khác với ông phó tiến sĩ Nguyễn Hữu Hải, ông thứ trưởng Đàm Hữu Đắc, tác giả
bài báo vừa dẫn lờ luôn mọi chuyện có liên quan đến sự thiếu thốn và yếu kém
của cái xã hội mà mình đang sống. Tuy nhiên, tựu trung, cả ba nhân vật kể trên
đều có điểm này giống hệt nhau: họ ăn nói, viết lách hết sức dè chừng và cẩn
thận, cứ y như những kẻ luôn luôn bị rình rập hay đe dọa bởi những bóng ma vô
hình lẩn quất quanh mình.
Đây là một trong những nét đặc trưng trong đời sống hàng ngày của cả dân tộc
Việt, từ nhiều thập niên qua, chứ không riêng một giới người nào. Tất cả đều ý
thức, một cách thường trực, về những điều cấm kỵ của xã hội mà họ đang sống,
những sự thực cần được che dấu, hay những nhân vật không thể đụng đến. Đó là
một hình thức ta bu mới, và là ta bu giả, vừa được áp đặt vào xã hội Việt Nam –
hơn nửa thế kỷ qua.
Từ “ta bu” (taboo – tapu) có nguồn gốc từ quần đảo Polynesia. Nó có nghĩa là
sự nghiêm cấm hoặc sự giới hạn chặt chẽ mọi đụng chạm, hiểu theo nghĩa đen, với
một số đồ vật hay nhân vật đặc biệt – trong những hoàn cảnh đặc thù nào đó
(Gollier Multimedia Encyclopedia, 1997).
Ta Bu hiện diện ở mọi nơi, nhưng thường chỉ có vai trò rõ nét ở những xã hội
sơ khai – nơi mà luật chưa thành nên cần lệ để duy trì trật tự tối thiểu và cần
thiết cho những sinh hoạt của cộng đồng. Có những cấm kỵ rất phổ biến, được
chia sẻ bởi hầu hết mọi nơi, như sự loạn luân hay ăn thịt đồng loại. Cũng có
những điều cấm kỵ rất đặc thù, chỉ hiện diện ở một số dân tộc hay bộ tộc. Có
nơi, mọi sự đụng chạm đến thầy mo hoặc tù trưởng của bộ lạc đều bị nghiêm cấm.
Cá nhân nào vi phạm đến sự cấm kỵ này đều có thể bị tai họa vào thân (Compton’s
Encyclopedia On Line V3.01, 1998).
Theo truyền thống, ta bu thường có tính tự phát và được sự đồng thuận (có
thể là một cách vô thức) bởi mọi thành viên vì lợi ích chung của cộng đồng.
Chúng ta sống trong một thời đại mà ta bu có thể được “sáng tạo” bởi một cá
nhân hay một tập thể lãnh đạo, và được mang áp đặt vào xã hội – bằng mọi cách –
cho phù hợp với đường lối cai trị hay quyền lợi của giai cấp thống trị. Tương
tự như tiền giả, ta bu giả vẫn có thể được xã hội chấp nhận cho đến khi … bị
phát hiện!
Ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN có thể được coi là những thí dụ tiêu biểu, minh
thị cho chuyện những ta bu giả ở đất nước này. Ngay sau khi nắm được quyền
bính, họ tự tạo ra một số những ta bu và áp đặt trên quần chúng. Họ nghiễm
nhiên đều trở thành những nhân vật bất khả xâm phạm – the untouchables, nếu nói
theo ngôn ngữ Mafia của thời đại chúng ta. Mọi va chạm đến họ đều bị ngăn cấm,
và nghiêm trị. Sự nghiêm trị này có thể kéo dài nhiều thế hệ, dựa theo lý lịch.
Đấy là điều mà những vị tù trưởng bộ lạc (và những trùm Mafia tân thời) đều
không thể tưởng tượng nổi, chứ đừng nói chi đến chuyện thi hành.
Để đối phó với sự dụng chạm thường xuyên của quần chúng với những ta bu
(giả), ngày 20 tháng 6 năm 61, nhà nước ban hành nghị quyết số 49NQ/TVHQ. NQ
này, do Trường Chinh ký, cho phép ủy ban nhân dân thành phố và các tỉnh bắt
giam vào trại tập trung tất cả những thành phần bất mãn với chế độ, hoặc khó
thích ứng với XHCN. Thời gian tập trung được qui định trên văn bản là 3 năm
nhưng thường kéo dài từ 9, 12, 15 năm hay lâu hơn nữa.
Một trong những nạn nhân tiêu biểu của Nghị Quyết 49 là nhà thơ Nguyễn Chí
Thiện. Ông bị ở tù (dài dài) vì đã không ngần ngại “đụng” đến những ta bu của
thời đại mình, dù đụng rất nhẹ nhàng, bằng những câu thơ mộc mạc:
Miếng thịt lợn chao ơi là vĩ đại.
Miếng thịt bò vĩ đại gấp hai.
Gạo muối, chanh đường, lạc bắp, ngô khoai…
Đảng rớ tới bỗng nhiên thành vĩ đại!
Sau đảng, tới Bác:
“Không có gì quí hơn độc lập tự do”
Tôi biết thằng nói ra câu đó.
Tôi biết nó, cả nước này biết nó.
Việc nó làm, tội ác nó ra sao?
Sau khi ông Hồ chết (hay còn gọi là “đi chơi xa”, nếu muốn nói một cách cẩn
tắc theo tinh thần ta bu của thời đại mới) những người kế tục không ai tạo được
một uy thế như kẻ tiền nhiệm nên những ta bu liên quan đến vị chủ tịch Đảng –
với thời gian – mất dần hiệu lực. Bác Hồ mất nhưng Đảng còn. Những ta bu liên
quan đến Đảng không hề mất theo hay thay đổi, nếu chưa muốn nói là còn trở nên
“khắt khe” hơn – ít nhất thì cũng là trong thời gian Bác Thọ và Bác Duẩn “chưa
khuất núi.” Bởi vậy nhiều vụ đụng chạm cũng như trừng phạt vẫn tiếp tục xẩy ra,
và với thời gian người ta ghi nhận là có sự gia tốc về vấn đề này – nhất là kể
từ khi đảng CSVN không còn dấu được rằng đối với nó không có gì quí hơn là
quyền lợi của chính mình.
Nạn nhân mới nhất, vì đã đụng chạm những tabu của đảng CSVN là ông Nguyễn
Thanh Giang. Vụ việc này, theo tường trình của BBC, nghe được hôm 19 tháng 4
năm 2005, như sau:
“Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang, một nhân vật bất đồng chính kiến có tiếng ở
trong nước, cho đài BBC biết ông đang lo lắng về an ninh của bản thân sau khi
nhận được những lời đe dọa của một số người được coi là cựu chiến binh… Phản
ứng giận dữ của những cựu chiến binh này, theo ông Giang, xảy ra vì họ phẫn nộ
rằng ông đã gọi cuộc chiến chống Mỹ của Việt Nam là phi nghĩa.”
Sau Thế Chiến Thứ Hai, khi phong trào giải thực lan rộng trên toàn cầu (và
việc trao trả độc lập cho những quốc gia bị trị trở thành một xu hướng không
thể đảo ngược ở khắp mọi nơi) đảng CSVN vẫn cố tạo ra một cuộc chiến “đánh đuổi
thực dân để dành độc lập”. Sau đó, họ tiến hành một cuộc chiến tranh chống xâm
lược (giả) khác bằng cách bắt ép nửa phần dân tộc Việt đi chém giết nửa phần
còn lại.
Trong cả hai cuộc chiến (rất) “thần thánh” và (hoàn toàn) không cần thiết
đó, họ đều thắng lợi một cách vẻ vang. Chỉ có những kẻ bị bắt ép hay bị lừa gạt
phải lao vào lửa đạn (và thân nhân của họ) là đại bại. Tuy thế, họ không cho
phép bất cứ ai được nói ra điều này. Khi lên tiếng rằng: “Cuộc chiến chống Mỹ
vừa qua thực sự là vô nghĩa đối với cả Việt Nam và Hoa Kỳ” là ông Nguyễn Thanh
Giang đã phạm vào điều cấm kỵ, đã đụng chạm tới ta bu giả của thời đại mình –
một thứ ta bu giả.
Sống trong một đất nước mà những kẻ tổ chức làm bạc giả đang ở địa vị cầm
quyền, khi khám phá ra những đồng tiền giả – lẽ ra – ông Nguyễn Thanh Giang
không nên tri hô (ầm ĩ) lên như vậy. Có ai lại thiếu tế nhị đến thế, hả Giời?
Tưởng Năng Tiến