Tao vui vì luôn nhìn thấy Đảng loạng choạng lùi trước thằng
… Thằng Thời Đại.
Tuy hơi muộn màng nhưng vào ngày 19 tháng 7 năm 2019
vừa qua, trên trang FB của nhà báo Huynh
Ngoc Chenh, độc giả đã đọc được những lời phân ưu vô cùng trang
trọng:
Vĩnh biệt giáo sư Hoàng Tụy
Ông là một nhà toán học lỗi lạc, một trí thức yêu nước
nhiệt tình. Ông và những người cùng thế hệ của ông hay trước ông như các triết
gia, nhà khoa học, văn nghệ sĩ... Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Phan Khôi,
Phùng Quán... vì yêu nước nên hồn nhiên theo đảng, phục vụ đảng, nhưng đảng
không cần đến tài năng và trí thức của các ông.
Các ông lần lượt ra đi để lại trong lòng thế hệ chúng tôi
sự cảm phục và tiếc nuối…
Tháng trước chia tay nhà giáo Phạm Toàn, hôm nay chia tay
ông và nhà thơ Phan Vũ.
Tôi không sinh cùng thời, và sống khác nơi, với tam
vị thức giả vừa từ giã cõi trần. Sự hiểu biết của tôi về những
công trình biên khảo, hay sáng tác, của họ cũng có phần giới hạn.
Tuy thế, chỉ cần đọc những dòng chữ ưu ái mà bạn bè, thân hữu, môn
sinh hay độc giả dành cho G.S Hoàng Tụy, G.S Phạm Toàn, và thi sỹ Phan
Vũ (và được xem hình ảnh trang trọng qua tang lễ) cũng đủ khiến kẻ
hậu sinh cảm thấy ấm lòng và vô cùng cảm động.
Nghĩ cho cùng thì cả ba ông đều là những người may
mắn. Ít nhất thì cũng may mắn hơn nhiều nhân vật khác (cùng thời)
cũng chỉ mới lìa đời, không lâu, trước đó.
Tôi đoán chưa chắc đã đúng nhưng có lẽ cũng không sai
(lắm) là nhà thơ Phan Vũ chưa bao giờ vì những câu thơ của mình mà
phải “rượu chịu, cá trộm, văn chui” hay phải ngồi tù hằng chục năm
trời như hai ông bạn khác: Phùng Quán và Tuân Nguyễn.
Tương tự, tuy không bao giờ G.S Phạm Toàn được trọng
thị (hay ưu đãi) nhưng ông vẫn được sống yên thân, và cũng được nhiều
người xung quanh kính mến. Với chế độ hiện hành thì có những ông
giáo đã phải lâm vào cảnh tệ bệ rạc hơn, trông cứ “như anh hề làm
xiếc” vậy:
“Dễ có đến hai năm tôi không đến khu tập thể Kim Liên. Lần
này trở lại, tôi ngạc nhiên thấy cái quán của bà cụ móm dưới gốc xà cừ, mà mười
năm trước tôi thường ghé hút thuốc uống nước, vẫn còn nguyên ở đó. Tôi vào quán
uống chén rượu thay bữa ăn sáng. Bà cụ đang rôm rả nói chuyện với mấy anh xích
lô, chắc là những khách quen…
Con cháu nhà tôi nó vừa sắm được cái ti vi màu nội địa. Tối
hôm kia, bắt dây rợ xong, bật lên thấy đang chiếu cảnh tang lễ một ông tên là
gì gì Thảo đó. Người ta giới thiệu cái ông Thảo này là nhà triết học nổi tiếng
thế giới, làm đến sáu, bảy chức, chức nào cũng dài dài là, chắc là toàn chức
to, được tặng Huân chương Độc lập hạng Hai. Ông ta sang tận bên Tây mà chết, cả
Tây cả ta đều làm lễ truy điệu. Toàn cán bộ cấp cao, có danh giá đến dự.
Trong khu nhà B6 đằng kia cũng có một ông tên Thảo, nhưng
lôi thôi nhếch nhác quá mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ,
mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai,
đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp ‘Pơ-giô con vịt’ mà mấy bà đồng nát cũng
chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại
tủm tỉm cười một mình, một anh dở người…”
Đấy, cũng là Thảo cả đấy, mà Thảo này thì sống cơ cực trần
ai – bà cụ chép miệng thương cảm: Một vài năm nay không thấy ông đạp xe ngang
qua đây, dễ chết rồi cũng nên…Tôi uống cạn chén rượu, cười góp chuyện: ‘Cái ông
Thảo mà bà kể đó chính là cái ông Thảo người ta chiếu tang lễ trên ti-vi…’. Bà
già bĩu môi: ‘Ông đừng cho tôi già cả mà nói lỡm tôi!” (Phùng Quán. “Chuyện
Vui Về Triết Gia Trần Đức.” Ba Phút Sự Thực. NXB Văn Hoá – Văn
Nghệ: Việt Nam, 2018).
Với G.S Hoàng Tụy thì dường như suốt đời không có
những chuyện vui (cười ra nước mắt) tương tự. Mọi người đều biết ông
là thành viên sáng lập, và là chủ tịch Hội đồng của IDS, cũng như chuyện
Viện Nghiên Cứu Phát Triển này đã bị Nhà Nước VN o ép đến độ phải
“tự giải thể” ra sao. Điều đáng mừng là giải thể xong thì thôi, chả
ai bị đụng tới một sợi lông chân nào cả. Không những thế, nghe nói,
Nguyễn Xuân Phúc còn mang hoa hoè và quà tặng đến thăm G.S Hoàng Tụy
– đôi ba lần – nữa.
Tôi có đọc cuốn Un Excommunié – Hanoi 1954-1991: Procès
d’un intellectuel (Kẻ Bị Mất Phép
Thông Công Hà Nội, 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức–translated by
Nguyễn Quốc Vỹ) nhưng không thấy Phạm Văn Đồng – trong suốt 32 năm giữ
chức Thủ Tướng – đến viếng thăm G.S Nguyễn Mạnh Tường một lần nào
cả mà chỉ nhớ đến những câu chữ được viết bởi “những dòng nước mắt và
một nỗi buồn sâu thẳm”của tác giả thôi:
Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu: đó là
cái đói.
Cả mấy tháng qua, buộc phải mua thực phẩm và những thứ
nhu yếu trên chợ đen vì tôi không còn được phát tem phiếu kể từ khi tôi bị loại,
mặc dù với tất cả dành dụm có được, số tiền dự trữ ngày càng thu hẹp. Ngay từ
lúc đầu, với viễn tượng những ngày khó khăn trước mắt, với dự trữ ít oi, chúng
tôi bắt đầu một giai đoạn hạn chế, tiết kiệm… Chúng tôi có một con chó do bạn
bè cho. Nó rất khôn và chúng tôi yêu nó lắm. Nhưng nó đã già và chúng tôi không
còn khả năng mua cho nó thịt và những thức ăn tăng sức, nó không còn sức đứng
lên trong chuồng, ngẩng đầu nhìn tất cả chúng tôi, với một ánh mắt tin yêu của
loài vật, chắc chắn với những dòng nước mắt và một nỗi buồn sâu thẳm vì đã đến
lúc phải rời chủ. Chúng tôi bật khóc khi nó nấc những hơi thở cuối
cùng.
Chung cuộc,Wikipedia
(tiếng Việt) cũng có đôi dòng ngắn ngủi: “Ngày 13 tháng 6 năm 1997, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
qua đời vì tuổi già tại nhà số 34 phố Tăng Bạt
Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, thọ 88 tuổi.”
Chỉ giản dị thế thôi. Không ai phân ưu, cũng chả ai
trống kèn gì ráo trọi.Tang ma của G.S Hoàng Tụy thì lại hoàn toàn
khác, đình đám hơn thấy rõ:
Những bản tin trang trọng thượng dẫn khiến tôi thốt
nhớ đến cái hôm đưa Phan
Khôi đến nơi an nghỉ cuối cùng:
Quan tài cha tôi đặt trên chiếc xe song mã màu đen. Đó là
loại quan tài xấu nhất được mua phân phối giá hai đồng bảy hào năm xu. Sáu mảnh
gỗ tạp, bào qua loa, vênh vẹo đóng đinh qua loa, không sơn phết,tấm thiên, tấm
địa và bốn góc đều hở. Trên nóc quan tài chỉ có ba nén nhang cắm vào quả trứng
luộc để trong chén cơm. Không nến, không hoa. Không có một vòng hoa, một bông
hoa nào trong đám tang cha tôi. Ngoài con ngựa già kéo xe, chỉ có 10 người đưa
đám, kể cả hai nhân viên dịch vụ mai táng và người đánh xe ngựa. Người bạn, người
đồng nghiệp duy nhất của cha tôi là nhà thơ Yến Lan, còn lại là người trong gia
đình. Chúng tôi bấu víu vào nhau, đẩy chiếc xe ngựa lăn bánh chậm chạp ra khỏi
con hẻm, đi về hướng cửa Đông. Người hàng phố đứng nhìn đám tang vội vã quay
đi. Không ai dám tới dự và đưa cha tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng …
Về sự kiện đắng lòng này, nhà phê bình văn học Thụy Khuê có lời
bình luận:
Nếu ngày nay có một sự xám hối nào đó về phía chính quyền,
hẳn không phải là những lễ kỷ niệm, với những bài ca tụng vô bổ, mà là việc tìm
lại hài cốt Phan Khôi trong đám mộ ở Yên Kỳ, xác định ADN, để dựng lại ngôi mộ
Phan Khôi, cho xứng đáng với địa vị của một trong những nhà văn, nhà trí thức
và tư tưởng hàng đầu của Việt Nam trong thế kỷ XX.
Tôi thì e rằng đã quá muộn màng rồi. Thời gian không
đứng về phía Đảng Cộng Sản Việt Nam. Thời đại và thời thế cũng
vậy nên họ buộc phải có “những bước lùi ngoạn mục” (hay nói theo
nhà văn Trần Đĩnh là phải “loạng choạng lùi”) như hiện cảnh. Họ sẽ
ngã trước khi có cơ may “xám hối.”
Tưởng
Năng Tiến