Trong Facebook của nhóm Diartlogue - Văn đàm có đăng bài viết "Lục Bát: Của Ta Hay Của Tàu", của tác giả Đỗ Quý Dân, nhà văn có tầm ảnh hưởng rộng đến giới trẻ, cùng với lời mời tranh biện. Thấy tầm quan trọng của vấn đề nguồn gốc này, tôi xin ghi ra đây nguyên văn bài viết của ông Đỗ Quý Dân cùng lời phản biện của tôi.
Sau đây là nguyên văn bài viết của ông Đỗ:
LỤC BÁT:
CỦA TA HAY CỦA TÀU?[*]
Từ trước đến nay nhiều
người cho rằng thể thơ lục bát là do người Việt chúng ta đặt ra.
Tuy nhiên, thể lục bát
đã được sử dụng trong kinh, truyện,
và sử của Trung Quốc (Kinh Dịch,
sách Trung Dung và Tống Sử).
Vậy phải chăng chúng ta đã mượn lục bát từ người Tàu?
Phần diễn giảng hào
lục tam của quẻ Khôn trong
Kinh Dịch có hai câu như sau:
“Lục tam, hàm
chương khả trinh
Hoặc tòng
vương sự, vô thành, hữu chung.”
Đúng là lục bát. Từ số chữ đến cách gieo vần.
Trong sách
truyện (Trung Dung) có hai
câu:
“Phù thủy, nhất thước
chi đa
Cập kỳ bất trắc,
ngoan đà giao long.”
Rõ ràng là lục bát.
Có khác chăng là lời thơ bằng Hán
tự.
Còn sách Tống Sử có hai câu:
”Đế sĩ Sái
Xác hữu công,
Sử chi tòng
tự Triết tông miếu đình..."
Cũng lại lục bát.
Trước khi nên thơ văn của Việt Nam được phát triển.
Khi nhắc đến vấn
đề này, cụ Ngô Tất Tố mượn nhân vật “ Cụ bảng”, thầy dạy học của Đào Vân Hạc trong “Lều chõng”, để bàn như sau:
“ Cũng vì có mấy câu đó cho nên từ xưa đến nay đã có nhiều người cho rằng: lối văn trên sáu dưới tám của ta gốc ở kinh, truyện và sử mà ra. Nhưng theo ý ta, thì nói
như vậy có lẽ cũng quá khiên cưỡng. Trời đã sinh ra mỗi nước có một thứ tiếng, thì tất nhiên mỗi nước cũng phải có một điệu hát. Nếu bảo điệu hát lục bát gốc ở kinh, truyện và sử, thì sao ở Tầu lại không có cái thể văn ấy? Tuy vậy, các cụ đời trước nói thế, bây giờ mình cũng hãy hay rằng thế, để rồi kê cứu dần dần, không nên vội vàng bài bác.” – trích “Lều Chõng” của Ngô Tất Tô
Không biết đúng
sai thế nào, tôi chỉ biết người Việt chúng ta tự ái rất cao, tìm đủ mọi lý lẽ để chứng minh mình không lệ thuộc Tàu, nhưng cái mà chúng ta hay gọi là “chứng minh” chỉ là những ý
kiến hết sức chủ quan, không
dựa trên căn bản biện chứng vững chắc. Người Nhật cũng mượn nhiều
từ văn hóa Trung Quốc, nhưng
họ không phủ nhận điều đó
mà chỉ đem mấy cái đã “mượn” kia làm cho hoàn hảo hơn rồi lấy đó làm tự hào. Sao người Việt chúng ta không làm được như người Nhật nhỉ? Cứ nhận là lục bát gốc ở Tàu, nhưng người Việt chúng ta đã biến nó thành thể thơ riêng, đặc biệt của mình đi, có làm sao đâu?
Chỉ sợ cái
tự ái rất Việt Nam sẽ ngăn cản chúng ta làm chuyện đó.
Đỗ Quý Dân
NHỮNG LỜI
PHẢN BIỆN
Đọc qua bài viết của ông Đỗ Quý Dân, tôi nhận xét như thế này:
- Sau khi viện dẫn 3 câu "thơ" Tàu mà ông cho là thể thơ Lục
bát, Đỗ Quý Dân đưa ra câu nói rất nặng: "Không biết đúng sai thế nào, tôi chỉ biết người Việt chúng ta tự ái rất cao, tìm đủ mọi lý lẽ để chứng minh mình không lệ thuộc Tàu, nhưng cái mà chúng ta
hay gọi là “chứng minh” chỉ là những ý kiến hết sức chủ quan, không dựa trên căn bản biện chứng vững chắc" (Đỗ Quý Dân)
Có nghĩa
là chuyện ăn cắp thể thơ Lục bát rành rành ra đó mà còn tự ái, còn cãi nữa.
Tôi sẽ lần lượt phản biện về câu "thơ"
trong Kinh Dịch cùng 2 câu trong Trung Dung và Tống sử mà ông Đỗ cho là thơ Lục bát, cùng vài điểm nhỏ về "tự ái" dân tộc.
1. Về Kinh Dịch
Vì trong
bài viết của Đỗ Quý Dân có liên hệ đến Quẻ Dịch - hào Lục tam - nên tôi ghi ra đây sơ lược vài hàng về Dịch:
Kinh Dịch là
một trong ba bộ kinh cổ nhất của
Trung quốc, sau Kinh Thi và Kinh Thư, nhưng nguồn gốc của nó (tức bát quái) thì có thể sớm hơn, vào cuối đời Ân, khoảng 1.200 năm trước Tây Lịch.
Nó không
do một người viết, mà do nhiều người góp sức trong một ngàn năm, từ Văn Vương nhà Chu mãi đến đầu đời Tây Hán.
Vì nó được "tập đại thành" có hệ thống và giảng giải sơ khởi bởi Chu
Văn Vương, và được giải thích rõ thêm bởi con ông là Chu Công nên thường được gọi là Chu Dịch.(
Cũng có nhiều nguồn khả
tín cho biết Dịch phát xuất từ nước nông nghiệp: Lạc Việt nên còn
được gọi là Việt Dịch) .
Điều kỳ dị nhất của
Dịch là nó chỉ dựng trên
thuyết âm dương, trên một vạch liền ____ tượng trưng cho dương, một
vạch đứt __ __ tượng trưng cho âm. Hai vạch đó chồng lên
nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành
ra tám hình/ quẻ - bát quái, rồi tám hình/ bát quái này lại chồng
lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình/quẻ mới: Lục thập tứ quái: 64 quẻ.
Sáu mươi bốn quẻ
mới này gọi là trùng
quái (quẻ trùng) để phân biệt với tám quẻ nguyên thủy gọi là đơn quái (quẻ
đơn).
Mỗi quẻ trùng có 6 vạch - gọi là hào - thứ tự
từ dưới lên trên là: Sơ, nhị, tam, tứ, ngũ và thượng. Gọi là thượng mà không gọi là lục vì trong Kinh Dịch Lục
(6) là Âm: (vạch đứt: _ _ ),
Cửu (9) là Dương: (vạch liền:
___ ). Riêng đặc biệt 2 quẻ Thuần Càn và Thuần Khôn có thêm hào 7 gọi là dụng
Thí dụ: Thượng lục là hào 6 âm, Thượng cửu là hào 6 dương, Cửu ngũ là hào 5 dương v.v ...
[Trích Quẻ Dịch,
Cách Lập Và Giải Đoán - Nguyên Lạc ] [*]
Trong bài, Đỗ Quý
Quân nói hào "lục tam"
nghĩa là hào 3 âm của quẻ Khôn/ Thuần Khôn
Thử xét quẻ trùng này:
QUẺ THUẦN KHÔN
Quẻ Thuần Khôn là quẻ thứ 2 trong 64 quẻ Dịch, nó gồm 6 vạch âm: (vạch đứt: _ _ ). Hào từ của quẻ Khôn (có thêm hào dụng như đã nói) từ dưới lên trên, kể cả lời Kinh là:
7. DỤNG LỤC: Lợi
vĩnh trinh.
6. LỤC THƯỢNG:
Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng.
5. LỤC NGŨ: hoàng
thường, nguyên cát.
4. LỤC TỨ: quát
nang, vô cữu, vô dự.
3. LỤC TAM:
hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.
2. LỤC NHỊ: trực
phương đại, bất tập vô
bất lợi.
1. SƠ LỤC: Lý sương, kiên băng chí.
(Hào từ của quẻ Khôn từ dưới lên trên)
Hào Lục
Tam mà Đỗ Quý Quân liên hệ là hào 3 âm.
Sau đây là lời hào Lục Tam - Hào 3 Âm - qua
các lời giải:
六三:含章可真,或從王事,無成有終.
Lục Tam:
Hàm
chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.
Dịch nghĩa:
- Hào Sáu
Ba:
Ngậm văn vẻ, có
thể chính; hoặc theo đuổi việc nhà vua, không cậy công? Thì được tốt lành về sau.- Lời giải của Ngô Tất Tố:
- Hào 3,
âm:
Ngậm chứa (đừng để lộ ra) đức tốt mà giữ vững
được, có khi theo người trên mà làm việc nước, đừng chiếm lấy sự
thành công thì sau cùng sẽ có kết quả - Lời giải của Nguyễn Hiến Lê
Lời hào lục tam là "Hàm chương khả trinh; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung" viết liền và chỉ có 12 âm tiết. Ông Đỗ Quý Dân đã không lương
thiện khi ghép thêm tên hào LỤC TAM vào 12 âm tiết của nội dung HÀO, cho đủ 14 âm tiết theo cách “mập mờ đánh
lận con đen”, rồi viết xuống dòng kiểu “trên 6, dưới 8”, và gọi đó là THƠ LỤC BÁT:
“Lục
tam, hàm chương khả
trinh
Hoặc tòng
vương sự, vô thành, hữu chung.”
(Đỗ Quý Dân)
Rõ ràng có sự "nhập nhằng",
có ý đồ ở đây!
2. Về hai câu thơ Trung Dung và Tống Sử
Trong sách
truyện (Trung Dung) có hai
câu:
“Phù thủy, nhất thước chi đa
Cập kỳ bất trắc,
ngoan đà giao long.”
Sách Tống Sử có
hai câu:
”Đế sĩ
Sái Xác hữu công,
Sử chi
tòng tự Triết tông
miếu đình..."
Đúng là các
câu lục bát âm Hán Việt dẫn trên đều là có đủ 6 thanh điệu: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngã và nặng. Nhưng ông Đỗ nên nhớ rằng tiếng Tàu chỉ có 4 thanh điệu: âm
bình, dương bình, thượng thanh và
khứ thanh. Hán Việt là đọc chữ Hán theo âm Việt chứ âm Tàu đâu phải vậy. [Mời các bạn đọc thêm phần thanh điệu ở phụ chú dưới của Thiếu Khanh và nhà giáo, nhà thơ La Thụy] [@.Phụ Lục]
Theo riêng tôi, đây là cách các cụ đồ nho Việt Nam hồi trước
dùng thể lục bát để diễn giải Trung Dung (của Khổng Tử) và
Tống Sử cho các môn sinh hoặc người sau dễ dàng hiểu mà thôi.
3.Về sự tự ái của người Việt
Ông Đồ Quý Dân nói:
"Không
biết đúng sai thế nào, tôi chỉ biết người Việt chúng ta tự ái rất cao, tìm đủ mọi lý lẽ để chứng minh mình không lệ thuộc Tàu, nhưng cái mà chúng ta
hay gọi là “chứng minh” chỉ là những ý kiến hết sức chủ quan, không dựa trên căn bản biện chứng vững chắc. Người Nhật cũng mượn nhiều
từ văn hóa Trung Quốc,
nhưng họ không phủ nhận
điều đó mà chỉ đem mấy
cái đã “mượn” kia làm
cho hoàn hảo hơn rồi lấy đó
làm tự hào. Sao người Việt chúng ta không làm được như người Nhật nhỉ?..."
Tôi có thêm ý kiến ngắn về điều này:
-- Có chút
tương đối "tích cực" trong ý nghĩ này, nhưng ông Đỗ nên nhớ:
- Nếu không có tự ái dân tộc thì không có lòng yêu nước. Tuy nhiên phải suy nghĩ cho tận tường về lòng tự ái của mình, điều nào nên, điều nào không nên, nên tránh. Tự ái chủ quan mù quáng sẽ chặn bước tiến của dân tộc. Cái hay, cái đẹp là của chung nhân loại khi được công bố; và nước nào cũng có, chậm mau tùy điều kiện. Con người cao hơn con vật là ở tính "Kế thừa". Dại gì để mất thời gian, có khi cả đời để phát minh, phát
kiến cái mà người xưa đã?
- May mắn cho nước Nhật là có được minh quân Minh Trị Thiên Hoàng và Yukichi Fukuzawa [***] đưa đến công cuộc Duy tân, canh tân đất nước trong một thời gian ngắn chỉ hơn 50 năm, biến nước Nhật thành cường quốc. Nhật không chỉ “Thoát
China”, mà còn vượt qua China nhờ học hỏi Hà Lan/ Tây phương. Giả dụ nếu không "Thoát China", biển đảo của Nhật chắc cũng giống như của Việt Nam bây giờ thôi.
LỜI KẾT
Thật lòng nói, bài viết của ông Đỗ tôi không cần phải bỏ nhiều thời gian phản biện như vầy, vì nó "bình thường" lắm; tôi không dám nói "ắu trỉ" như các bạn tôi vì sợ ông buồn. Tuy nhiên, như người Mỹ nói: "Once
and for all": Trả lời một lần những ai cứ cho rằng mọi điều của Việt Nam đều từ China; giống như một số người cố tình cho truyện Kiều/ Đoạn Trường Tân Thanh là từ Thanh Tâm Tài Nhân của China mà ra, sao không nghĩ ngược lại? Chúng ta sẽ gặp lại đề tài này ở những bài sau.
Trân trọng và mong các bạn góp thêm ý kiến.
Mời đọc thêm Phụ Lục dưới.
.
Nguyên Lạc
...................
[*] Đây
là FB của bài Đỗ Quý Dân
[**] Quẻ Dịch, Cách
Lập Và Giải Đoán 1
- Nguyên Lạc
Quẻ Dịch, Cách
Lập Và Giải Đoán 2 - Nguyên Lạc
[***] Yukichi
Fukuzawa - Khuyến Học
Fukuzawa Yukichi
là nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với xã hội Nhật Bản thời cận đại. Người Nhật tôn
vinh ông là "Voltaire của Nhật
Bản", không chỉ vì
tính triệt để và tầm mức vựơt trội trong tư tưởng của ông,
mà còn vì cũng như danh nhân người
Pháp, Fukuzawa Yukichi cùng những người đồng chí của mình
là những người khai sáng tinh
thần quốc dân Nhật Bản, đem lại linh hồn, động lực và
sự hậu thuẫn tinh thần cho công
cuộc Duy tân của chính phủ Minh Trị. Những tác phẩm
của ông dù viết từ hơn một thế
kỷ trước nhưng vẫn được người Nhật Bản ngày nay hết lòng ngưỡng mộ.
.
@. Phụ Lục
Xin được ghi ra đây thêm những phản biện về bài viết của Đỗ Quý Dân:
I. Phản biện của Đỗ Phú
Đây là phản biện của nhà văn, nhà
nghiên cứu về Tây nguyên Đỗ Phú:
Tác giả bài
viết là ông Đỗ Quý Dân quá ấu trĩ. Ba cặp câu
mà ông Dân nêu ra, xét về luật, vần thì đúng là 3 cặp thơ Lục bát, 3 cặp câu Lục Bát hay, khó có.
Tuy nhiên để gọi
1 cặp câu Lục Bát là 1
bài thơ thì chưa đủ. Hai câu
thơ 7 chữ đối nhau cũng chỉ là
1 cặp đối chứ không phải là 1 bài thơ đường luật. 3 cặp câu ông Dân nêu ra bất quá chỉ là Tàu cú mà thôi.
Để gọi là
một dòng thơ cần phải xét đến tính phổ quát của nó. Dọc theo từng thời kỳ phát triển của thơ ca, thể loại thơ đó,
dòng thơ đó phải xuất hiện liên
tục và không gián đoạn. Và điều tiên quyết là mọi nhà thơ
của quốc gia, hoặc các nhà
thơ sống tại lãnh thổ mà dòng thơ đó xuất hiện đều có sáng tác thơ theo thể loại này.
Thể thơ lục bát
cũng không ngoại lệ. Muốn nói
nó là thể thơ của quốc gia nào,
phải xét khía cạnh có bao nhiêu bài thơ được lưu truyền, bao nhiêu tác giả danh tiếng, bao nhiêu bài bất hủ mà đại chúng hầu hết đã từng nghe, từng
đọc
Không thể vì 3 câu lục bát tìm được trong 3 quyển sách khác nhau mà kết luận xứ sở nào đó khai sinh ra
dòng thơ này.
Nếu nói lục bát là của Trung Quốc. Câu hỏi là tại sao chỉ có
3 cặp câu? Tại sao trong vài ngàn năm người Trung Quốc không
làm thơ lục bát nữa? Thể thơ này vì sao không được lưu truyền? Nếu nó chết thì tại sao nó chết?
Nếu nó vẫn sống thì sao lại không thấy thơ?
Đỗ Phú
.
II. Phản biện của La Thụy
Đây là phản biện của nhà giáo, nhà
thơ La Thụy:
A. Xét việc KINH DỊCH: Theo như ông Đỗ Quý
Dân đã nêu ra, lời hào Lục Tam của Quẻ Thuần Khôn dùng
thể thơ lục bát .
Ta thấy:
Trong quẻ Thuần
Khôn của Kinh Dịch từ SƠ LỤC
cho đến DỤNG LỤC hoàn toàn không thấy thể lục bát như THƠ LỤC
BÁT Việt Nam “trên 6
dưới 8” gồm 14 âm tiết.
- Trong đó,
HÀO LỤC TAM viết liền (không
viết xuống dòng kiểu “trên 6, dưới 8”), chỉ có 12 âm tiết. Ông Đỗ Quý Dân đã có dụng ý riêng khi ghép thêm tên hào LỤC TAM vào 12 âm tiết của nội dung HÀO, biến hóa cho đủ 14 âm tiết, ông ấy lại viết xuống dòng kiểu “trên 6, dưới 8”, rồi gọi đó là THƠ LỤC BÁT:
(“Lục tam, hàm chương khả trinh
Hoặc tòng vương sự, vô thành, hữu chung.” – Đỗ Quý Dân)
Mà LỤC BÁT
theo kiểu ông Đỗ Quý Dân cũng không đúng
LUẬT THANH: Chữ thứ tư phải là
thanh trắc (trong khi CHƯƠNG trong
‘hàm chương’ lại mang thanh bằng).
Không giống như thơ Tàu
nói riêng, thơ thế giới nói
chung - chỉ gieo vần chân (cước vận); thơ Lục bát và thơ Song thất lục bát Việt Nam ngoài việc gieo vần chân, còn có thêm vần lưng (yêu vận) nữa, mà thơ Tàu thì hàng nghìn năm vẫn chỉ gieo vần chân mà thôi…
.
B. Xét việc SÁCH TRUYỆN TRUNG DUNG và việc SÁCH TỐNG SỬ dùng thể thơ lục bát
như ông Đỗ Quý Dân đã nêu:
Trong sách truyện
(Trung Dung) có hai câu:
“Phù thủy, nhất
thước chi đa
Cập kỳ bất trắc,
ngoan đà giao long.”
Sách Tống Sử có
hai câu:
“Đế sĩ Sái
Xác hữu công,
Sử chi tòng
tự Triết tông miếu đình...”
(Theo Đỗ Quý Dân)
-- Theo
tôi, cái gọi là sách truyện Trung Dung, sách Tống Sử này, ta nên xem thử ai là tác giả, có lẽ các nhà Nho Việt Nam hồi
trước hứng khởi dùng thể lục
bát để diễn giải Trung Dung
(của Khổng Tử) và Tống Sử đó
thôi. Nếu có điều kiện, chúng ta nên xem lại Trung Dung và Tống Sử (văn bản được xem là chính quy) sẽ tường tận hơn các bản do ông Đỗ Quý Dân nêu mà không nói rõ
tên tác giả.
-- Mấy ông
đồ nho cũng đã từng dùng thể lục bát để nêu cách viết chữ ĐỨC 德 đó mà:
Chim chích mà
đậu cành tre
Thập trên, tứ dưới, nhất đè chữ tâm
Chữ ĐỨC:
Bên trái
có bộ xích (ở đây có hình tượng con chim chích đậu trên cành tre) – Chích và Xích cũng cùng
âm
Bên trên có chữ thập: 十
Dưới chữ十 là chữ Tứ: 四
Dưới nữa là chữ Nhất: 一
Dưới cùng là chữ Tâm: 心
-- Tiếng Tàu chỉ có 4 thanh điệu: âm bình, dương bình, thượng thanh và khứ thanh. Trong khi âm Hán-Việt xét theo hình thức (của ngữ pháp thông dụng), có đến 6 thanh điệu: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngã và nặng. Phiên thiết Hán-Việt về thanh điệu thì 6 thanh điệu đó tương ứng với:
1/ Phù
bình thanh – không dấu
2/ Phù khứ thanh –dấu sắc
3/ Phù thượng thanh – dấu ngã
4/ Trầm bình
thanh – dấu huyền
5/ Trầm thượng
thanh – dấu hỏi
6/ Trầm nhập
thanh – dấu nặng
Theo ông
Lê Ngọc Trụ và một số nhà làm từ điển khác, chia làm 8 thanh bậc: phù bình, trầm bình, phù thượng, trầm thượng, phù khứ, trầm khứ, phù nhập, trầm nhập
* Thanh bình:
Có hai bậc, phù và trầm.
- Thanh bình
bậc phù (phù bình hay âm
bình) là những tiếng không dấu, tức thanh ngang. Ví dụ: vui, hương.
- Thanh bình
bậc trầm (trầm bình hay dương
bình) là những tiếng có dấu huyền. Ví dụ: đà, điền, thần.
Điều cần chú
ý là các chữ thanh ngang bắt đầu bằng
l, m, n, ng, nh, d, v đều thuộc "trầm bình" ("hạ bình") trong cách áp dụng phiên thiết (Lê Ngọc Trụ) như: minh, nhân, vân, nếu không sẽ sai về bậc
thanh. Điều này rất ít
tác giả nhấn mạnh.
* Thanh thượng: Có
hai bậc, phù và trầm.
- Thanh thượng bậc
phù (phù thượng) là những tiếng có dấu hỏi. Ví dụ: bả, hải, trảm.
- Thanh thượng bậc
trầm (trầm thượng) là những
tiếng có dấu ngã. Ví dụ: mẫu, nữ, ngữ.
* Thanh khứ:
- Thanh khứ bậc
phù (phù khứ) là những tiếng có dấu sắc. Ví dụ: đấu, phóng, tiến.
-Thanh khứ bậc trầm
(trầm khứ) là những tiếng có
dấu nặng. Ví dụ: đại, tại, vọng.
* Thanh nhập:
- Thanh nhập bậc
phù (phù nhập) là những tiếng có phụ âm cuối là p, t, ch, c và có dấu sắc. Ví dụ: đáp,
thiết, trách, tróc.
- Thanh nhập bậc
trầm (trầm nhập) là những tiếng
có phụ âm cuối là p, t, ch, c và có dấu nặng. Ví dụ: đạp, diệt, thạch, trạc.
Tiếng Quan thoại
có 1280 âm trong khi tiếng Việt
có từ khoảng 4500 đến 4800 âm
đọc, tùy theo phương ngữ, và 6200 âm viết trong quốc ngữ. Thơ Tàu không gieo vần lưng (yêu vận).Thanh điệu của ngữ âm Tàu chỉ có 4 thanh bậc không được phong phú 8 thanh bậc
như ngữ âm Việt Nam.
Rõ ràng
các câu lục bát Tàu trên do
ông Đỗ Quý Dân nêu, đều mang âm Hán Việt có đủ 8 thanh bậc… Nên,
Khổng Tử không thể ghi dạng lục bát đủ 8 thanh bậc theo âm tiết Việt trong khi san định Kinh Dịch và khi
viết Trung Dung. Tương tự, sách
Tống Sử cũng thế.
C. Xét việc học giả Ngô Tất Tố được ông Đào Quý Dân nêu:
“Khi nhắc đến vấn
đề này, cụ Ngô Tất Tố mượn nhân vật ‘Cụ bảng’, thầy dạy học của Đào Vân Hạc trong ‘Lều chõng’, để bàn như sau:
“Cũng vì có mấy câu
đó cho nên từ xưa đến nay đã
có nhiều người cho rằng: lối văn trên
sáu dưới tám của ta gốc ở kinh, truyện và sử mà ra. Nhưng theo ý ta, thì nói như vậy có lẽ cũng quá khiên cưỡng. Trời đã sinh ra mỗi nước có một thứ tiếng, thì tất nhiên
mỗi nước cũng phải có một điệu hát. Nếu bảo điệu hát lục bát gốc ở kinh, truyện và sử,
thì sao ở Tầu lại không
có cái thể văn ấy? Tuy vậy, các
cụ đời trước nói thế, bây giờ mình cũng hãy hay rằng thế, để rồi kê cứu dần dần, không nên vội vàng bài bác.” – trích ‘Lều Chõng’ của Ngô Tất Tố”
Trong trích
đoạn mà ông Đỗ Quý Dân nêu ở trên, thì cụ Ngô Tất Tố cũng đặt câu hỏi
nghi ngờ đó mà...
-- Tôi đồng ý với anh Đỗ Phú:
“3 cặp
câu lục bát tìm
được trong 3 quyển sách
khác nhau mà kết luận xứ sở nào
đó khai sinh ra dòng thơ này.
Nếu nói
lục bát là của Trung Quốc. Câu hỏi là tại sao chỉ có 3 cặp câu? Tại sao trong vài ngàn năm người Trung Quốc không làm thơ lục bát nữa? Thể thơ này vì sao không được lưu truyền? Nếu nó chết thì tại sao nó chết? Nếu nó vẫn sống thì sao lại không thấy thơ.”
La Thụy
III. Thêm về vụ "thanh
điệu".
Mời các bạn đọc trích đoạn từ bài viết của Thiếu Khanh:
Một học giả rất nổi
tiếng của Trung quốc hiện đại là “Quý Tiễn Lâm (季羡林 Ji Xian-lin, 1911-2009), người được dư luận chính thống nước này tôn vinh là “Quốc học đại sư”, “Học giới Thái đẩu” (Siêu sao trong giới học thuật), “Quốc bảo” (Báu vật của nước nhà)” vân vân, viết rằng “chữ viết của người Việt Nam sau
khi được La tinh hóa, đầu đội
mũ, chân đi giầy, rất nực cười,”
(越 南 文 字 拼 音 化 之 后,头戴帽子,脚穿鞋子,很滑稽. [Việt Nam văn tự bính âm hóa chi hậu, đầu đái mạo tử, cước xuyên hài tử, ngận hoạt kê] )
Ts Nguyễn Hải Hoành
nhận thấy cái ông “đại sư” “quốc bảo” của Tàu nói năng
hồ đồ và chứng tỏ chẳng biết gì cả về chữ quốc ngữ của người Việt. Dù vậy, hình tượng “đội mũ mang giầy” mà Quý Tiễn Lâm gán cho chữ quốc ngữ của chúng ta, cũng ngộ nghĩnh đó chớ. “Mũ” và “giầy” theo con mắt Quý Tiễn Lâm chính là các dấu phụ nguyên âm (diacritical marks). và dấu giọng (accent marks) chúng ta “gắn” vào chữ viết của mình.
"Đội mũ mang giầy: chuyện không đơn
giản" Đây nhé:
-- Cái ông
“siêu sao học thuật” (Học giới Thái
đẩu) của Tàu này không hề... rê đuốc vào chân mình, chỉ nói lấy được. Trong bài viết dẫn
trên, Ts Nguyễn Hải Hoành
cho biết: “Tiếng phổ thông TQ
có 4 thanh điệu, vì thế chữ Latin trong phương án Hán ngữ Pinyin do Nhà nước TQ ban hành sử dụng từ năm 1958 cũng phải kèm theo 4 dấu giọng, ví dụ [lī], [lí], [lǐ], [lì], ngoài ra các phụ âm kép như zh, ch, sh có thể viết tắt là ẑ, ĉ, ŝ. Như vậy chữ Hán ngữ Pinyin (Bính âm) cũng “đội mũ,” vì sao cụ Quý
Tiễn Lâm lại chỉ chê chữ Quốc ngữ Việt Nam “rất nực cười”?”
Ts Nguyễn Hải Hoành
nhắc lại lời học giả Hồ Thích
từ 100 năm trước “phán” về chữ quốc ngữ của người Việt: “Chữ viết
Việt Nam hiện nay xem ra giống như chữ Pháp bị nước mưa xối tan ra, giống như phiên bản Latin của chữ hình vuông, vừa không thanh thoát cũng chẳng mỹ quan.” Hồ Thích cho rằng chữ quốc ngữ của người Việt Nam vừa không
giống chữ Hán, không giống chữ Nôm (đã đành!) lại không giống chữ Pháp, mà cũng không giống cả chữ La tinh, “nghĩa là không
đâu vào đâu, chẳng ra cái giống gì.” . Lời phán ấy có lẽ khiến một số nhà
nho Việt Nam thủ cựu bài bác
chữ Quốc ngữ thời đó khoái lắm.
-- Xem ra các
tay học phiệt Tàu không biết gì về chữ quốc ngữ của Việt Nam, chỉ phán bừa vì họ rất hậm hực về việc Việt Nam “thoát
Trung” thành công về mặt văn tự. Với
thứ chữ viết La tinh hóa này chỉ trong khoảng 60 - 70 năm người Việt Nam đã hoàn toàn thoát ra khỏi hệ thống văn tự Hán, điều mà người Nhật và người Hàn đã không làm được, dù họ cũng sáng tạo được văn
tự riêng cho mình.
-- Tiếng Việt có 6 thanh (Phù bình thanh
– không dấu, Phù khứ thanh –dấu sắc, Phù thượng thanh – dấu ngã, Trầm bình thanh – dấu huyền, Trầm thượng thanh – dấu hỏi, và
Trầm nhập thanh – dấu nặng), nên
phải dùng 5 ký hiệu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng để phân biệt thanh điệu. Tiếng Trung quốc (chỉ có 4
thanh: âm bình thanh, dương bình thanh, thướng thanh, và khứ thanh)
không có thanh “trầm nhập”
như tiếng Việt nên chữ “bính
âm” (pinyin) của họ không
mang dấu “nặng”, tức là họ có đội mũ mà không mang giầy, giống như anh chàng nhà quê đội mão mà không mang hia, hoặc như Táo quân mặc áo mà không mặc quần chớ gì mà cười tiếng Việt! [ theo Thiếu Khanh ]
Link: "Chữ Quốc Ngữ Và Hội Chứng Nhảy Cừu" - Thiếu Khanh: