Mồm miệng đỡ chân tay.
Thành ngữ
Vài năm trước – từ Miên – tôi sang Lào bằng cửa khẩu
Stung Treng rồi lần lên phía Bắc qua Pakse, Savannakhet, Vientiane, Vang
Vieng, Luang Prabang … Sau cuộc hành trình này, tôi đi đến một kết luận
(hơi) nghiêm trọng: “Người Lào hoàn toàn không có khái niệm gì về
thời gian cả.” Hay nói cách khác, bằng ngôn ngữ âm nhạc của Phạm Duy,
là họ luôn cố giữ “đừng cho không gian đụng thời gian.” Bất cứ đâu –
ở đất nước này – bạn cũng có thể thấy những cô gái Lào đang thản
nhiên tắm suối, hay hồn nhiên ngồi quay sợi và dệt vải, cứ như thể
là chúng ta vẫn còn đang sống ở Thời Trung Cổ vậy.
|
Ảnh (tnt) chụp ở Nong Khieu, Thị Trấn Giữa Đèo,
Bắc Lào 2016
|
Mỗi năm một tuổi. Năm nay, tôi già hơn và mệt mỏi hơn
(thấy rõ) nên chỉ thoáng nghĩ đến những con đường nhỏ bé/ngoằn
ngoèo/dằn xóc ở Lào cũng đã cảm thấy hơi yếu trong người. Bởi vậy,
thay vì đi xe, tôi bay luôn đến Luang Namtha (rồi) từ đây mới tà tà xuôi
Nam bằng xe hoặc ghe đò.
Đến Si Phan Don (Quần Đảo Bốn Ngàn) ở cực Nam Lào
có thể nghe được tiếng gà xao xác gáy bên kia bờ sông, thuộc đất Cambodia.
Gọi 4000 Islands là quần
đảo nghe cho nó vui (tai) chứ thực sự thì hầu hết đều chỉ là những
cồn cát nhỏ, bỏ hoang, không có chi ngoài cây cỏ/ trâu bò và cò
vạc.
Hai trong ba hòn đảo lớn tập trung dân cư là Don Det
và Don Khone, cách nhau cỡ năm bẩy cây số, được nối liền bằng một
cái cầu. Đi thuyền cũng tiện nhưng tôi quyết định dùng xe (đạp) chơi,
trông cho nó có vẻ trẻ trung.
Thiệt là một “quyết định” vô cùng … ngu xuẩn!
Ai mà dè đường đất gồ ghề và mấp mô dữ vậy, hả
Trời. Lại đang giữa mùa mưa nên nhiều đoạn ngập ngụa bùn lầy và trơn
trượt. Ngay cả đường vào tình yêu (“có trăm lần vui có vạn lần buồn”)
theo như cách mô tả của Y Vân chắc cũng không đến nỗi khó khăn và gian
truân đến thế. Tôi đạp vã mồ hôi mà chả thấy xóm làng, nhà cửa gì
hết trơn hết trọi.
Thỉnh thoảng mới có một cô hay một cậu đi Honda cùng
chiều, hoặc trái chiều (cũng lấm len bùn đất) khiến tôi mừng
húm:
- Hello, từ đây tới Don Khone còn bao xa?
- Hello, how far from here to Don Khone?
Dù chắc chắn không ai biết tiếng Việt hoặc tiếng Anh
nhưng chỉ nhìn vào hình ảnh trước mắt (một ông già mặt mũi bơ phờ,
áo ướt đẫm mồ hôi, ngồi trên cái xe đạp bê bết đất bùn) họ đều
“thầm hiểu” vấn đề. Tất cả đều trả lời y như nhau, và đều trật
lất:
- 100 meters. 100 metres …
Mới đầu, tôi tưởng thiệt. Sau gần chục lần (“100”)
như thế tôi vẫn thấy mình đang còn ở giữa đồng không mông quạnh. Từ
đó, tôi mới ngộ ra rằng người Lào cũng hoàn toàn không có ý niệm
chi rõ ràng, hay chính xác, về không gian cả. Ở xứ sở này, xem
chừng, chả ai phải bận rộn hay vội vàng gì. Cứ đi lai rai, trước sau
gì cũng tới thôi. Hỏi han, thăm dò làm chi cho má nó khi.
Mà thiệt, cuối cùng, tôi cũng đến Don Khone! Nơi đây
hoang dại, trầm lắng và thơ mộng hơn hẳn hai hòn đảo lân cận. Xuyên
suốt chỉ có mỗi một con đường đất hẹp, chạy dọc theo bờ sông. Nhờ
thế tôi “khám phá” ra ngay được một “di tích” nhỏ: La Villa Patrimonial
Francais.
Ngôi biệt thự này được xây vào năm 1896 để dùng làm
nơi nghỉ mát cho mấy ông quan thời thuộc địa. Nay thì nó trở thành
khách sạn Sala
Done Khone Hotel với giá đắt gấp đôi (U.S.A dollars 24 một ngày)
những nhà trọ kề bên. Lý do giản dị chỉ vì đây đã từng là nơi qua
đêm của nhiều quan chức cao cấp, cỡ toàn quyền và cả đống những ông
đại sứ – theo như (nguyên văn) của mấy dòng chữ ghi trên tấm biển
quảng cáo, ghi ngay ở cổng vào: Cette villa a acceullie de nombreux
officers de hau rant tel M. Paul Dumer, le gouverneur de l’Indochine francaise
et de nombreux ambassadeurs venus visiter 4000 iles.
|
Ảnh (tnt) chụp ở Si Phan Don, Sleepy Island, Nam Lào
2019
|
Oh!
Tưởng ai chứ Paul Doumer thì dù tên ông bị viết sai (Dumer) tôi vẫn
nhận ra. Ông nổi tiếng không chỉ vì tài ba mà còn vì hay được
“báo chí cách mạng VN” nhắc đến với
những lời lẽ không lấy gì làm ưu ái:
“Cần phải nói rõ, Paul Doumer được cử giữ chức Toàn quyền
Đông Dương từ năm 1897 đến 1902. Là nhà cai trị độc tài, vừa đến Việt Nam, Paul
Doumer liền nghĩ đến một chương trình kiến thiết đầy tham vọng, mục đích nhằm
khai thác kinh tế Việt Nam. Dưới thời của ông, chính sách thuộc địa của Pháp tại
Việt Nam bước sang một bước ngoặt mới. Ông chủ trương biến chế độ bảo hộ thành
chế độ thực trị, xóa bỏ chủ quyền và thống nhất của Việt Nam. Ông tổ chức khai
thác cùng kiệt nguồn tài nguyên của các nước Đông Dương, biến nơi đây thành một
thị trường cho kỹ nghệ và thương mại của thực dân Pháp. Ông đã cho kiến thiết lại
hệ thống hạ tầng cơ sở tại Đông Dương nhưng người dân Việt phải chịu sưu thuế rất
nặng nề để phục dịch và chu cấp cho việc này.”
Wikipedia
(giọng Hà Nội) cũng thế:
“Ông chủ trương biến chế độ bảo hộ thành chế độ thực trị,
xóa bỏ chủ quyền và thống nhất của Việt Nam, mang đến phân hóa rõ rệt giữa ba
miền. … Ông cũng tổ chức khai thác tài nguyên của các nước trong Liên hiệp Đông
Pháp, biến Đông Dương thành một thị trường cho kỹ nghệ và thương mãi của Pháp,
và cùng lúc thành lập nơi đây một tiền đồn kinh tế và quân sự vững chắc của thực
dân Pháp tại toàn cõi Viễn Đông.”
Tưởng cũng nên nghe thêm một tiếng nói khác, chừng
mực và khách quan hơn, từ trang mạng có trụ sở đặt tại Hoa Kỳ – TRITHUC.VN:
“Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857.
Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” là một tài
liệu quý viết riêng về hành trình, nhận định và trải nghiệm của ông trong giai
đoạn 5 năm ở Đông Dương, mà phần lớn là ở Việt Nam (thời đó gọi là An
Nam).
Về con người của Paul Doumer, ông là người có kiến thức nhiều
lĩnh vực, là Bộ trưởng tài chính Pháp trước khi sang Đông Dương nhận chức Toàn
quyền. Sau này ông còn làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Quyển “Xứ Đông Dương”
ghi lại nhiều nhận định của ông về nhiều mặt: địa lý, kinh tế, hành chính, con
người, văn hóa… ở những nơi ông đi qua.
Để phục vụ nước Pháp hết mình, Doumer đã ra sức chấn chỉnh bộ
máy quản lý ở các xứ thuộc địa, đồng thời xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng tại Việt
Nam, đáng chú ý như: cầu Doumer (sau đổi tên thành cầu Long Biên) – được coi là
một kỳ quan của Đông Dương thời ấy, cầu Thành Thái (tức cầu Tràng Tiền) bắc qua
sông Hương ở Huế và cầu Bình Lợi bắc qua sông Sài Gòn.
Ông cũng chính là người đã ủng hộ và hậu thuẫn công việc
nghiên cứu của Yersin, đồng ý xây dựng thành phố Đà Lạt và đưa cây cao su vào
trồng. Dưới thời cai trị của Paul Doumer, Hà Nội là thành phố châu Á đầu tiên
có điện.
Paul Doumer hành động hoàn toàn vì lợi ích của nước Pháp.
Nhưng ông là một nhà kinh tế có tài và có tầm nhìn. Chính do vậy, người Pháp có
lợi nhưng xứ thuộc địa cũng được hiện đại hóa, Tây phương hóa.”
Phạm
Văn Đồng giữ chức Thủ Tướng 32 năm (1955–1987) Lê Duẩn làm
Tổng Bí Thư 25 năm nhưng cả hai không để lại cho hậu thế một ngôi
trường hay cây cầu nào ráo. Hồ Chí Minh
cũng thế. Ông là Chủ Tịch Nước kiêm Chủ Tịch Đảng 24 năm trời nhưng
chỉ để lại cho đời Hồ
Chí Minh Toàn Tập (trọn bộ 15 cuốn). Theo gương của Bác, những
đồng chí lãnh đạo kế tục cũng đều mỗi người in chơi vài …
tập:
Đ …mẹ, chúng thay nhau nói, đứa nào cũng nói luôn mồm và chỉ nói
thôi chứ chả thằng đéo nào làm được một con đường hay một cái cầu
nào ráo – kể cả cầu tiêu!
Tưởng
Năng Tiến