Ngày 29-4-1984, tôi được chuyển sang xà lim số 6 trại A-20 ở
chung với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, linh hồn của một vụ nổi dậy do ngài và người
em chủ trương năm 1976. Tôi hoàn toàn không hiểu lý do của việc chuyển xà lim
cá nhân này.
Ðây cũng là ngày mà tôi đánh dấu 3 năm bị cùm hai chân và có
giai đoạn cả hai tay trong xà lim số 5. Phải nói là tôi bị gông thì đúng hơn. Nếu
quý vị được nhìn thấy những tội phạm của thời phong kiến bị gông như thế nào
thì chúng tôi bị gông như thế nấy. Chỉ có khác là nhà tù Cộng sản không gông cổ
mà thôi.
Linh Mục Vàng, một nhà giảng đạo lỗi lạc của dòng Chúa Cứu
Thế, sau khi bị lên án chung thân khổ sai sau vụ và em ruột ngài là Linh Mục Hiệu
bị xử tử, đã bị đưa lưu đầy tại trại A-20 Xuân Phước. Khi tôi đã nằm cùm trong
biệt giam trong phòng số 5 được 2 năm thì một hôm Linh Mục Nguyễn Văn Vàng lúc ấy
từ trại lao động bị đưa vào xà lim số 6, bên cạnh xà lim tôi bị giam.
Khi còn ở ngoài trại lao động, ngài là đối tượng theo dõi của
đám an ninh trại giam, nhất cử nhất động đều không qua mắt được một giàn ăng
ten dầy đặc vây quanh vị tu sĩ công giáo này. Bọn an ninh trại nói thẳng ra rằng
nếu chúng bắt gặp bất cứ tù nhân nào liên hệ với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, sẽ
cùm ngay.
Tôi là một Phật tử, nhưng mối liên hệ với Cha Vàng khá thân
thiết và chúng tôi thường đàm đạo với nhau vào mỗi ngày sau giờ cơm chiều trước
khi điểm số để vào buồng giam, không chấp lệnh của trại. Có lẽ đây là lý do bọn
an ninh trại đưa tôi đi “nghỉ mát” trước và 2 năm sau họ đưa Cha Vàng và một
vài anh em nữa vào những chiếc hộp nhỏ ở ngay sau nhà bếp của trại A.
Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước thường được chúng tôi gọi
là trại trừng giới (danh từ có từ thời Pháp thuộc để chỉ những trại có quy chế
trừng trị tù nhân khắt khe). Cục Quản Lý Trại Giam của Cộng Sản thì gọi những
loại trại này là Trại Kiên Giam.
Tại sao chính quyền Cộng Sản gọi những trại được đánh mã số
bằng chữ A và tiếp theo là một hàng con số? Thật ra thì rất ít người được biết
lý do tại sao lại gọi A-20 là một trại kiên giam nếu không có dịp bị gọi đi thẩm
cung nhiều lần trước khi được “gởi” vào những chiếc “hộp” ở Xuân Phước. Sau biến
chuyển đánh dấu bằng việc Trung Quốc tấn công 6 tỉnh sát biên giới Việt Trung
năm 1979, Cục Trại Giam được lệnh thực hiện một kế hoạch gọi là “Phương Án 4”,
nghĩa là thực hiện một kế hoạch tuyển lựa tất cả những thành phần cứng đầu
“không thể cải tạo được nữa” để đưa vào những trại A và trại Z. Kế hoạch này là
tác phẩm của một viên Ðại Tá về sau này trở thành một tướng lãnh công an tên là
Hoàng Thanh (có lẽ là bí danh). Hoàng Thanh đã thẩm cung chúng tôi và rất nhiều
tù nhân khác mấy tháng trước khi tôi bị chuyển trại về A-20. Lần sau cùng là
vào mùa Thu 1979, khi thẩm cung tôi lần chót, ông ta cười cười nham hiểm nhưng
nói huỵch toẹt: “Tôi biết chắc chắn là khi chuyển về trại mới, các anh không
còn ngày ra. Cho nên tôi khuyên các anh là tốt nhất nên ngoan ngoãn để hưởng
khoan hồng của nhà nước, nói chung là được mang vợ con cách anh lên lập nghiệp ở
đây cho gần. Khu vực trai giam sau này sẽ trở thành một đập nước và một thị trấn.
Chúng tôi muốn thiết lập một trong những tiểu Siberia. Bây giờ, tôi thấy không
còn cần phải giấu diếm gì các anh nữa”.
Trại A-20 lúc đầu (1979) có tới 4 trại được đánh số A, B, C,
D, ở cách nhau trên dưới 5 cây số. Trại A được xây hoàn bằng bê tông cốt sắt tường,
bệ nằm, vườn rau ao cá dưới những rặng dừa xanh tốt. Nhưng bên trong những dãy
nhà gạch, mái ngói đỏ au đó là những phương thức câu thúc thân thể và tinh thần
không khác dưới các trại giam ở Siberia dưới thời Stalin mà phần lớn người đọc
sách ở Miền Nam Việt trước 1975 đều biết qua cuốn “Quần Ðảo Gulag” của văn hào
Solzhenitsin. Tôi sẽ có dịp nói đến chuyện này trong một bài viết khác. Bây giờ
tôi quay lại chủ đề của bài viết này.
Những người xây dựng trại Xuân Phước là ai? Cái oái
oăm của lịch sử mà chúng tôi gặp phải chính là ở chỗ: Trại tù này lại do chính
bàn tay của những người từng được di tản tới Guam trước ngày 30-4-1975, sau đó
lại biểu tình đòi trở về lại Việt Nam bằng tầu Việt Nam Thương Tín, tạo dựng
lên. Lúc chúng tôi được chuyển trại về đây thì có một số vẫn chưa được trả tự
do. Chạy nạn Cộng Sản tới Guam, rồi vì những lý do riêng biệt hầu hết là vì gia
đình còn kẹt lại, trong cơn hoang mang và đau khổ tột độ, tình cảm che lấp lý
trí và bị kích động, họ đòi quay trở về với lý do xây dựng lại quê hương sau
chiến tranh. Nhưng người Cộng Sản thừa hiểu, những người tị nạn này quay trở về
chỉ vì có người còn vợ con, có người còn mẹ già không có người săn sóc, có người
hoảng loạn bỏ lại vợ mới cưới, người tình đằng sau. Cho nên, Cộng Sản mở một cuộc
đón tiếp để quay phim chụp hình và sau đó đẩy tất cả đàn ông vào khu rừng Xuân
Phước và bị buộc phải xây dựng nhà tù này để chính quyền Cộng Sản giam giữ
chính những đồng đội của mình. Tôi đã có rất nhiều dịp tiếp xúc với họ, nên hiểu
được tấm lòng của họ và thấy họ đáng thương quý hơn là đáng trách. Một sĩ quan
xưng là quản gia cho tướng Nguyễn Cao Kỳ tâm sự với tôi: “Cậu tính coi, lúc đó
vì hoang mang đi gấp không kịp lôi vợ con và bà mẹ già theo. Ðến Guam, cứ nghĩ
đến họ, làm sao nuốt nổi miếng cơm chứ. Tôi biết nhiều người không thể thông cảm
được lý do tôi trở về, trong đó có thể có cả vợ con tôi nữa, nhưng đành chịu vậy.
Cho nên dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn nạn như thế này, tôi vẫn thấy lương tâm
yên ổn hơn”..
Tôi không có ý định nói chi tiết về vụ này mà muốn trở lại
cái đêm Noel trong xà lim số 6. Xà lim là tiếng dịch theo âm Việt Nam của
“cellule” (tiếng Pháp), xuất hiện trong văn chương và báo chí từ thời Pháp thuộc.
Thực ra nếu tra tự điển tiếng Anh Việt hay Pháp Việt, chữ cell hay cellule đều
có nghĩa là “tế bào”. Trong các trại tù của những quốc gia theo chủ nghĩa tư bản
cũng như chủ nghĩa cộng sản, hoặc các quốc gia dân chủ tự do, những “tế bào” vẫn
được hiểu là những phòng biệt giam cá nhân để trừng phạt những tù nhân nguy hiểm.
Những phòng biệt giam cá nhân này thường được xây dựng theo một tiêu chuẩn giống
nhau: Không gian nhỏ hẹp của chúng phải đáp ứng được nhu cầu trừng phạt cả thể
xác lẫn tinh thần người tù. Riêng tại các trại cải tạo do người Cộng Sản dựng
lên, những phòng biệt giam cá nhân được gọi bằng một nhóm từ “nhà kỷ luật”. Trại
A ở A-20 Xuân Phước có một dãy 10 phòng biệt giam cá nhân, mỗi phòng như vậy giống
như một cái hộp với bề rộng 3 thước, dài 3 thước, cao 6 thước, xây dựng bằng vật
liệu bê tông cốt sắt, kín mít chỉ có một lỗ tò vò nhỏ ở cánh cửa trước để cho vệ
binh kiểm soát tù nhân ở bên trong. Ở phía trong mỗi xà lim cá nhân, có hai bệ
nằm song song, cách nhau bằng một khoảng hẹp khoảng nửa thước. Người tù nằm
trên bệ quay mặt ra phía cửa hai chân bị cùm chặt bằng một cùm sắt, có nhiều
trường hợp bị cùm cả hai chân hai tay.
Nhưng cùm như thế nào? Có phải là cùm bằng còng số 8 như
ta thấy cảnh sát Mỹ còng tay phạm nhân để giải giao về sở cảnh sát không?
Thưa không phải như vậy! Làm gì chúng tôi lại được ưu đãi
đó. Loại còng trong những xà lim mà tôi trải qua suốt 5 năm liên tiếp tại A-20
trong rừng Xuân Phước là “cùm Omega”. Tại sao lại gọi loại cùm này bằng cái tên
của một hiệu đồng hồ rất nổi tiếng là đồng hồ Omega. Hai cái vòng sắt để khóa
hai chân người có hình thù giống y chang logo của đồng hồ Omega. Khi bị còng
trong xà lim, người tù cải tạo bị đẩy ngồi lên bệ nằm, duỗi thẳng hai chân.
Viên cán bộ an ninh trại giam sai một trật tự lấy ra một lô vòng sắt hình ký hiệu
omega ra và ướm thử vào cổ chân người tù. Nếu đám an ninh trại giam không có ý
định trừng phạt nặng tù nhân cải tạo thì họ ra lệnh cho trật tự lấy hai vòng
omega vừa vặn với cổ chân người tù cải tạo. Ngược lại nếu họ muốn trừng phạt nặng
và muốn làm nhiễm độc thối chân người tù, họ tra vào cổ chân tù cải trạo hai
vòng omega nhỏ hơn vòng cổ chân rồi đóng mạnh xuống. Khi cổ chân người tù lọt
vào được chiếc vòng omega, nó đã làm trầy trụa một phần hay nhiều phần cổ chân
người tù. Sau đó, họ tra vào bên dưới một cây sắt dài qua những bốn lỗ tròn ở
hai vòng omega, một đầu cây sắt ăn sâu vào mặt tường trong, đầu phía ngoài của
thanh sắt được xỏ qua một chốt được gắn thật sâu xuống cạnh bên ngoài của bệ nằm.
Một cây sắt khác ngắn hơn, một đầu được uốn tròn, đầu kia của cây sắt này được
đánh dẹp và khoan một lỗ nhỏ. Khi hai thanh sắt này được khóa chặt với nhau thì
một đầu của cây sắt dọc sẽ xuyên qua một lỗ nhỏ tường phái trước, thò ra ngoài
ra ngoài một đoạn. Chỉ việc tra một cái khóa vào đầu phía ngoài ấy của thanh sắt
dọc là tất cả hệ thống trên sẽ tạo thành một cái cùm thật chặt khó lòng một người
tù nào có thể mở khóa vì mấu chốt để tháo cùm là ổ khóa bên ngoài. Phải mở được
ổ khóa bên ngoài thì mới mở được cùm.
Có bốn mức cùm dành cho một tù cải tạo khi họ bị biệt
giam ở trại Xuân Phước:
Mức độ 1: Cùm một chân phải,
mức độ 2: Cùm một chân trái,
mức độ 3: Cùm hai chân,
mức độ 4: Cùm hai chân hai tay.
Tôi đã trải qua mức độ 4 trong 8 tháng liên tiếp, sau đó giảm
xuống mức độ ba, rồi lại tăng lên mức độ 4 trước khi giảm xuống mức độ 3, 2 rồi
1.. Khi còn bị cùm mức độ 4, ngoài hai bữa ăn và ban đêm, tôi được tháo cùm 2
tay, thời gian còn lại lúc nào tôi cũng phải ngồi cong như con tôm luộc vì kiểu
cùm độc ác này. Sở dĩ tôi được giảm xuống mức độ 3 rồi trở lại mức độ 4 chỉ vì
một sự kiện: Sự can thiệp của Hội Ân Xá Quốc Tế để thả tôi ra. Khi hai thành
viên của Hội này là bà Frederick Fuchs (người Bỉ) và ông Pierre Carreaux (cựu
chiến binh người Pháp) từ Belgique bay qua Bangkok với một danh sách 14 ký giả,
phóng viên bị trả thù bởi chế độ mới tại Việt Nam và đòi đến Hà Nội để được gặp
mặt những người này. Chỉ có bà Fuchs là được vào Hà Nội, nhưng bà chỉ được nhận
hồ sơ can thiệp và được phép thăm bà mẹ tôi tại Saigon chứ không được đến trại
A-20 gặp mặt tôi. Khi bà Fuchs đòi chiếu khán ở Bangkok để vào Hà Nội trùng vào
thời điểm tôi được tháo cùm hai tay và thời gian bà Fuchs rời Hà Nội trùng thời
gian tôi bị trở lại mức cùm số 4. Trước khi tôi được tháo cùm hưởng ân huệ ở mức
độ 2, thì một phái đoàn do Hoàng Thanh hướng dẫn từ Hà Nội vào “thăm” A-20. Ông
ta lôi một lô những người tù cải tao đang nằm trong biệt giam tại trại A cũng
như B ở A-20 ra thẩm cung. Tôi được một trong những thẩm vấn viên cho xem bản
sao những lá thư can thiệp đòi thả tôi, và 13 ký giả khác trong đó có kèm theo
cả những lá thư của bằng hữu và đồng nghiệp với tôi ở Pháp, trong đó có thư của
ông Trần Văn Ngô tức ký giả Từ Nguyên, một cựu phóng viên của Việt Tấn Xã thuộc
lớp đàn anh chúng tôi. Sau đó anh ta nói thẳng với tôi: “Bọn mày thấy đấy, mấy
thằng Tây này kể cả mấy thằng ký giả Việt gian chạy trốn tổ quốc không thể đánh
tháo chúng mày được. Khôn hồn thì chịu cải tạo để không bị chết trong cùm. Suốt
đời chúng mày sẽ không ra khỏi cái thung lũng này được đâu. Ân Xá Quốc Tế hả,
còn khuya bọn nó mới làm gì được chúng tao”. Tôi không trách gì việc can thiệp
này mà lại còn vui là đằng khác, bởi vì nó củng cố cho tôi một niềm tin và thấy
được tấm lòng hào sảng của bạn bè đồng nghiệp ra được nước ngoài. Tôi thành thật
tri ân họ.
Những ngày tiếp theo, tôi bị nâng cùm ở mức độ 4 và bị cắt
khẩu phần ăn xuống chỉ còn bằng một nửa so với các anh em bên ngoài, nghĩa là
chỉ còn mỗi bữa ăn 150 grams. Nếu tính chi ly ra thì 150 grams thực phẩm mỗi
ngày gồm khoản 5 lát khoai mì khô luộc và một muỗng cơm, tất cả chan đẫm nước
muối và được phát cho nửa ca nước một ngày. Ăn mặn và uống nước ít, người rất dễ
bị phù sẽ ảnh hưởng tới thận. Trong tù mà bị thận thì kể như tàn đời. Cho nên
ăn lúc đó trở thành ít quan trọng hơn dù lúc đó chúng tôi đã là lũ ma đói. Cái
khát triền miên đã che đi cái đói. Nếu tôi muốn ăn muốn ăn được khẩu phần dành
cho người đang bị trừng phạt phải dùng ít nhất nửa phần nước để rửa bớt cái mặn
của nước muối được chan vào cơm và khoai mì. Tôi không dám hy sinh những muỗng
nước quý như vàng lúc đó để rửa phần khoai. Tôi nghĩ chỉ có cách nhịn, nhưng
càng đói lả đi thì mồ hôi ra như tắm, một tình trạng hết sức nguy hiểm. Cha
Vàng thấy tôi lả đi, ngài đập cửa báo cáo nhưng đám cán bộ của nhà kỷ luật im lặng,
coi như không có chuyện gì xảy ra.
Buổi trưa hôm đó, cha Vàng nẩy ra một ý kiến. Ngài nói: “Anh
không thể tránh ăn mãi như thế. Nếu Chúa che chở cho mình, phù cũng không chết.
Bố tự trách không nghĩ ra việc hy sinh nửa ca nước của bố cho anh. Khoai mì ít
ngấm nước muối hơn. Bố sẽ hy sinh nửa phần nước để anh rửa khoai mì cho bớt mặn”.
Tôi khước từ: “Bố (trong tù chúng tôi đều gọi tất cả các tu sĩ của các đạo giáo
là bố hết) lớn tuổi sức chịu đựng yếu rồi, nhịn khát như con không được đâu”.
Ông cười: “Sao biết không được, đã thử đâu mà biết không được”. Tôi chọc ngài
cho bớt căng thẳng: “Thế bố đã thử chưa mà khi đi giảng đạo có lúc bố nói về hạnh
phúc lứa đôi”. Cả hai chúng tôi đều cười vang. Cha Vàng nói: “Ê này, để bố nói
cho anh nghe chuyện này. Bố dù là linh mục thì cũng là người, con tim cũng rung
động như mọi người khác, nhiều lúc bố cũng muốn thử. Những lúc như thế mình phải
tranh đấu với chính bản thân mình ghê lắm để đừng vượt rào đi ăn tình. Ðiều này
cũng cần can đảm mới làm được.. Tín đồ kính trọng người tu hành là kính trong sự
can đảm ấy, kính trọng sự vượt qua để phụng sự, chứ nếu giống như thường tình
thì nói gì nữa”.
Vâng thưa quý vị, giải pháp của Cha Vàng đã khiến cho một tuần,
hai tuần, ba tuần qua đi nhanh và vô hiệu hóa được sự trừng phạt. Vào tuần lễ
thứ tư của cuộc trừng phạt, như một phép lạ, viên cán bộ phát cơm nhà kỷ luật
không phải là tên trực trại như thường lệ mà là một anh chàng lạ hoắc. Tù nhân
mang cơm cho nhà kỷ luật cũng không phải là Hùng đen mà là Tuấn “sún” ở đội tù
hình sự. Thông thường, khi vào phát khẩu phần cho nhà kỷ luật, viên cán bộ trực
trại thường mở xà lim có tù nhân “bị gởi” (tù nhân bị ăn chế độ trừng phạt) trước.
Nhưng lần này thấy các xà lim được lần lượt mở từ 1 cho đến 9 (số hên?) Xà lim
10 không có “khách”.
Ðến xà lim số 6, cha Vàng đưa hai chiếc bát nhựa và hai ca đựng
nước ra trong khi viên cán bộ đích thân mở khóa tay cho tôi. Viên cán bộ này mặc
đồ công an không lon lá gì cả nên không biết cấp bậc anh ta. Phát khoai xong,
thấy Tuấn “sún” múc một vá nước muối, viên cán bộ nói ngay: “Ít muối thôi, chan
đẫm vào, làm sao người ta ăn được”. Ðến phần nước, khi thấy Tuấn “sún” múc đầy
cả hai ca, tôi hiểu rằng hôm đó tên cán bộ trực trại có việc gì đó không mở trại
kỷ luật được, nên nhờ bạn thay thế. Vì làm thế nên anh chàng này không còn nhớ
hoặc không thèm nhớ là trong trại có tù nhân phải ăn khẩu phần dành cho chế độ
trừng phạt. Phát xà lim số 9 xong, lại thấy có tiếng chìa khóa mở cửa xà lim số
6 của tôi. Tôi đinh ninh rằng họ quay lại để lấy bớt phần nước nên tôi vội vàng
cầm ca nước uống hết.. Nhưng không, Tuấn “sún” xách thùng nước đứng ở cửa phòng
hỏi: “Có gì đựng thêm nước không”. Tôi nói: “Có” và đưa ca nước ra. Tuấn “sún”
đổ đầy hai ca nước, rồi lại hỏi: “Còn đồ đựng nước khác không?” Cả hai chúng
tôi lắc đầu. Viên cán bộ xen vào: “Ðổ vào thau cơm cho họ, chiều hay mai lấy
ra”.
Hình phạt dành cho tôi chấm dứt vào đầu tháng 11. Tôi đoán hết
lý do này đến lý do khán khiến chúng chấm dứt sự trừng phạt đối với tôi. Nhưng
cha Vàng nhận định: “Nếu cần phải giết chúng ta, chúng đã tùng xẻo mình ngay từ
lúc đầu. Ðoán làm gì cho mệt…”.
Cuối tháng 11, cả hai chúng tôi đều được mở cùm cho ra đi tắm,
lần đầu tiên sau 3 năm biệt giam. Khi được mở cùm, tôi đứng lên không nổi vì
hai chân dường như cứng lại. Cha Vàng cũng nằm trong tình trạng ấy, nhưng ngài
mới bị biệt giam hơn một năm nên còn lết được. Chúng tôi bám lấy nhau theo hướng
dẫn của trật tự đi ra ngoài giếng được đào bên cạnh một ao cá ngay sau nhà kỷ
luật. Thời tiết tháng 11 ở vùng tiền sơn Tuy Hòa đã lạnh lắm rồi. Tôi còn có được
một cái áo lạnh tự may bằng cách phá một chiếc chăn len của một bạn tù cho từ
năm 1980. Khi được cho chiếc chăn len này, tôi nghĩ ngay đến chuyện may thành
chiếc áo giống như áo trấn thủ. Trò may vá trong các trại tù cũng là một thú
tiêu khiển và giết thời giờ. Chúng dùng những cộng sắt để làm kim và chỉ thì bằng
những sợi rút ra từ những chiếc áo hay quần may bằng bao cát. Chính ở những trò
may vá này, chúng tôi học được một bài học: Cùng thì tắc biến. Trước những trò
đàn áp, những mưu chước thô bạo quản thúc con người trong các nhà tù cộng sản,
vẫn có rất nhiều người vượt qua được cơn khốn khó do bản năng sống còn của họ rất
mạnh. Cứ thử nghĩ một người nếu ăn bất cứ con vật gì mà họ bắt được kể cả rít
núi, cỏ kiểng, ăn sống cả loại khoai mì H-34 có nhiều chất độc trên đất Hoa Kỳ
này, thì chỉ có nước vào nhà thương sớm. Nhưng thời gian dưới các nhà tù Cộng Sản
bệnh không có thuốc, ăn bậy bạ mà các tù nhân cải tạo ít bị hề hấn gì. Tôi nghĩ
một cách chủ quan rằng chỉ có phép lạ hay bản năng tự tồn của người khi bị đẩy
vào cùng quẫn mạnh, mới giúp cho một người tù sống được và có ngày trở về. Một
số bạn tù của tôi sau này hay nói đến chuyện sống vì tinh thần, lúc đầu tôi chỉ
coi là chuyện vui, nhưng ngẫm nghĩ lại thấy cũng có phần chí lý. Khi một người
tù chấp nhận phần xấu nhất về mình, sẽ bất chấp những đòn thù. Vì một người biết
chấp nhận phần xấu nhất về mình trong hoàn cảnh lưu đầy, sẽ chẳng còn gì phải
suy nghĩ về hiện tại lẫn tương lai, ngày về. Lúc đó nếu Việt cộng có bắn mình một
viên vào ngực, có lẽ điều đó được coi là ân huệ hơn là kéo dài cuộc sống của những
người tù theo cách nửa sống, nửa chết như thế. Cho nên, người cộng sản có thể
tính được nhiều trò đàn áp, hành hạ con người, nhưng không tính được điều liên
quan đến bản năng và tinh thần của con người.
Khi chúng tôi ra đến bờ giếng là muốn trở lại ngay xà lim.
Còn tắm táp gì trong điều kiện thời tiết này. Thấy Cha Vàng run lên bần bật vì
gió lạnh. Ngài lại chỉ mặc một chiếc áo len mỏng bên trong bộ đồ tù, nên tôi cởi
chiếc áo trấn thủ và nói: “Bố đưa chiếc áo len con, bố mặc chiếc áo của con vào
ngay. Bố phong phanh thế, cảm lạnh bây giờ. Bố nhớ rằng ở đây không có thuốc, mặc
chiếc áo này của con đi, bố đưa áo len cho con”. Ông nhất định không chịu,
nhưng cuối cùng tôi vẫn lột chiếc áo len của cha Vàng ra và mặc chiếc áo trấn
thủ mang bằng chăn len hai lớp của tôi, tôi mặc chiếc áo len của ông. Dĩ nhiên
chúng tôi chẳng tắm táp gì được cả, ngồi núp vào bức tường che giếng nước để
tránh gió. Cha Vàng ít run rẩy hơn. Ngài đứng dậy và vung tay cử động. Tôi làm
theo ngài. Tôi có cảm tưởng cứ mỗi lần vung tay cử động theo kiểu Dịch Cân Kinh
thì chúng tôi choáng váng có thể chúi về trước, nhưng đồng thời cũng cảm thấy bớt
lạnh. Viên cán bộ trực trại dặn chúng tôi: “Các anh tắm thì tắm, không muốn thì
thôi. Nếu không thì ngồi đây phơi nắng (ở Xuân Phước, mùa Ðông thường không thấy
mặt trời). Cấm không được liên hệ với ai”. Nói xong, anh ta bỏ đi.
Nói thì nói vậy, nhưng các anh em trong nhà bếp đều là anh
em sĩ quan cải tạo, nên cũng tìm cách tiếp tế cho chúng tôi vài miếng cơm cháy,
mấy tán đường. L.S, một người Việt gốc hoa, một tỷ phú, vua máy cày trước
30-4-1975 bị đẩy lên trại này sau khi lãnh cái án 20 năm tù sau đợt đánh tư sản
mại bản lần thứ nhất, đang được cắt cử coi vườn rau cải. Ông ta từ vườn rau đi
khơi khơi, không lén lút gì, đến thẳng chỗ chúng tôi, đưa một gói bánh trong đó
có ít bánh bisquit lạt và ít đường tán, và thiết thực hơn là khoảng 10 viên thuốc
B1. L.S nói: “Ngộ biếu, bánh đường ăn hết ở ngoài này đi, đừng mang vào chúng
nó sẽ tịch thu. Thuốc B1 cần cho các nị lắm á. Cứ ăn từ từ, đừng có lo, nhà nước
‘no’ hết”. Xong ông ta bỏ đi.
Nhóm người Việt gốc Hoa sống trong trại rất đầy đủ, nhưng
đối với chúng tôi, lúc nào họ cũng cư xử đàng hoàng. Những tin tức từ bên
ngoài được đem vào trại của họ khá chính xác.. A-20 là trại trừng giới nhưng
quà thăm nuôi hàng tháng của họ chất đầy chỗ nằm. Mỗi lần thăm gặp họ ở với gia
đình cả ngày ở ngoài nhà thăm nuôi cũng được, nếu họ muốn. Nhưng ít khi nào họ
hành động như vậy. Môi trường ở A-20 là môi trường tế nhị. Những doanh nhân này
đầu óc rất thực tế: Có tiền mua tiên cũng được huống chi đám cán bộ trại giam vốn
cũng đói rách. Cái giá của việc khơi khơi đến tiếp tế cho chúng tôi ít ra cũng
phải trả bằng 6 tháng biệt giam, nếu bị bắt gặp. Nhưng 6 tháng biệt giam chỉ
tương đương với 2 cặp lạp xưởng. Ông là người tù duy nhất ở trong trại có thể
trả cái giá ấy bằng lạp xưởng hay nửa bao thuốc lá ba số 5 thay vì vào biệt
giam. LS biết chắc rằng buổi tối hôm ấy, tên trật tự (bị án chung thân vì tội
cướp có súng) sẽ xuống gọi LS ra cửa sổ buồng giam và xin hai cặp lạp xưởng cho
cán bộ nấu xôi. Cho nên, LS đi đâu một lúc rồi ông ta trở lại với cái điếu cày,
diêm và nói: “Thuốc nào này say lắm, cẩn thận. Ðừng mang diêm vào biệt giam”.
Hút xong thuốc lào, chờ cơn “phê” nhạt dần, tôi chợt nẩy ra ý kiến: “Bố ơi mình
giấu 2 bi (tiếng lóng của hai điếu) để đêm Noel hút”. Tôi quận nhúm thuốc còn lại
cho thật nhỏ vào bao nhựa đựng 10 viên B1 và nhét vào gấu quần. Cái gấu quần là
chỗ hôi thối của những người tù 3 năm không được tắm, chắc không có ai muốn sờ
đến nên có thể an toàn. Biệt giam là nơi cấm hết mọi thứ kể cả thuốc hút nên
chúng tôi phải hành động như vậy. Và quả thật, trước khi mang chúng tôi vào lại
xà lim, trật tự Hùng đen chỉ khám sơ sơ. Tôi và Cha Vàng đã thắng.
Nhưng vào đến xà lim, sau khi xỏ chân vào cùm, nghĩ lại tôi
mới thấy thất vọng: lửa ở đâu mà hút. Thảo luận mãi, Cha Vàng đưa ý kiến, lấy lửa
bằng phương pháp của thời kỳ đồ đá. Tôi lại chọc vị tu sĩ Công giáo rất hùng biện
này: “Bố con mình đang ở thời kỳ đất sét mà bố nghĩ đến phương pháp của thời kỳ
đồ đá”. Cha Vàng cười: “Mày chỉ tầm xàm. Ðứng đắn đấy. Ðêm Noel mình sẽ hút thuốc
lào, bố có cách rồi”. Sau đó cha Vàng giảng giải cho tôi cách lấy lửa “thời kỳ đồ
đá”. Vị tu sĩ nói như giảng đạo: “Này nhé, con có biết rằng nền văn minh ngày
nay đến từ việc phát minh ra lửa. Lửa chế ngự đời sống con người khi họ thoát
ra thời kỳ ăn lông ở lỗ… Con người thời kỳ đồ đá đã biết dùng đá chọi vào nhau
cho đến khi xẹt lửa. Những tia lửa đó rớt xuống đám lá khô dễ bắt lửa và họ thổi
cháy thành ngọn lửa”. Cha Vàng nói: “Chỉ cần một thanh vỏ tre và áo mục”. Tôi hỏi
Cha Vàng: “Áo mục thì có sẵn, nhưng thanh vỏ tre?” Cha Vàng cười: “Bố giao nhiệm
vụ cho mày nếu bị kêu đi thẩm cung, thế nào trước Noel chúng cũng gọi chúng ta
ra tra vấn và khám xà lim, một biện pháp an ninh trước những ngày lễ trọng…”
Do kinh nghiệm, cha Vàng nói đúng. Năm ngày trước Noel, trời
có nắng, những tia nắng hiếm hoi xuyên qua cửa tò vò vào phòng giam. Ngài vội lấy
chiếc áo tù bằng vải thô vá chằng vá đụp, xé hai mảnh nhỏ. Ngài nói: “Ðây là
cái áo bố đã giặt rất sạch trước khi vào đây, để làm con cúi lấy lửa khi cần.
Xé nó ra phơi cho thật khô. Cuộn lại cho chặt thành một cuộn bằng ngón tay cái.
Dùng móng tay đánh tơi một đầu, đánh thật tơi cho đến khi sợi vải ở đầu con cúi
xuất hiện một lớp bông. Dùng miếng vỏ tre thật mỏng luồn nó vào cái khe hẹp để
gắn quai dép lốp rồi kéo cho đến khi thanh tre nóng bỏng. Hơi nóng của bột tre
dính trên mặt bông của con cúi, lửa sẽ ngún và thổi nhè nhẹ vết lửa sẽ loang
ra, chỉ cần thổi nhẹ là lửa sẽ bật lên”.
Nghe Cha Vàng nói tôi tưởng là ngài nói chuyện thần thoại.
Nhưng do vẫn nghĩ đến phép lạ, nên tôi nghe theo lời ngài. Tôi nghĩ đây là một
trò vui và cũng là dịp tự thử thách mình. Ðúng như dự đoán, trước Noel 1984 ba
ngày, lần lượt chúng tôi bị kêu ra ngoài thẩm cung và xà lim bị khám xét rất kỹ.
Nhưng họ vẫn không phát giác ra được mấy điếu thuốc lào và thuốc B1 tôi giấu
trong lai quần. Có lẽ do người hôi thối quá nên, anh cán bộ nào cũng sợ mó vào
quần áo tôi. Chỉ còn thanh tre mỏng. Tôi nghĩ ra một kế nên báo cáo cán bộ cho
xin một thanh tre mỏng mang vào xà lim để làm dồ cạo lưỡi. Viên cán bộ hỏi tôi:
“Lưỡi anh làm sao?” Tôi nói: “Ðóng bợn ba năm rồi không được cạo, nên xin cán bộ”.
Anh ta không nghi ngờ gì cả nên gật đầu: “Nhưng tre ở đâu ra?” Tôi nói ngay: “Ở
nhà bếp chắc có”. Anh cán bộ gọi trật tự Hùng đen: “Xuống nhà bếp bảo họ cho
tôi một vỏ tre cạo lưỡi cho anh này”. Tôi lại gặp may lần nữa. Mấy anh em nhà bếp
tưởng làm cây cạo lưỡi cho cán bộ nên họ làm rất kỹ và tôi có một thanh cạo lưỡi
bằng vỏ tre khô dài khoảng 2 gang tay.
Sau khi trở lại xà lim, tôi bắt đầu thực tập ngay. Tháo một
quai dép lốp ra, tôi luồn thanh tre vào và dùng hai tay kéo cưa. Thấy nóng thật,
tôi ra sức kéo mạnh. Cha Vàng vội can: “Kéo từ từ, thở ra hít vào đều, ít ra
cũng một tiếng đồng hồ”. Tôi lại chọc cha Vàng: “Bố ơi, mình đang ở thời kỳ đồ
đất mà kéo như thế này, chắc phải ăn 5 phần khoai mì may ra mới bù lại được. Ðồ
đất dễ vỡ lắm!” Vị linh mục cười hiền lành: “Thôi đừng có nói nữa, anh nói nhiều
xì hơi còn sức đâu mà kéo”. Trong khi tôi đánh vật với chiếc dép và thanh tre,
thì Cha Vàng móc trong tay nải lấy hai miếng vải đã phơi khô ra và làm thành một
con cúi. Ông chà một đầu con cúi xuống sàn rồi lấy móng tay út lúc đó đã dài
như móng tay của mấy bà người Tàu bó chân, khẩy khẩy cả tiếng đồng hồ vào những
thớ vải lúc đó đã hơi bung ra. Ðến khi thấy mệt, mồ hôi ra như tắm, tôi nói với
Cha Vàng: “Con chịu thua rồi bố ơi, mệt quá”. Cha Vàng khuyến khích: “Ðừng ngừng,
tiếp tục để bố thử coi”. Tôi tiếp tục kéo. Bột tre đã văng ra có thể nhìn thấy
trên sàn. Khi Cha Vàng lựa thế đưa cúi vào thì tôi gia tăng tốc độ. Cha Vàng
reo lên: “Hơi ngún rồi tại, chưa bén than vì anh kéo chưa đủ đô”. Quả thật tôi
cũng thấy một chút khói bốc lên. Ngày hôm sau, chúng tôi lại thử, một cuộc chạy
đua tiếp sức của hai người. Ðể con cúi vải xuống sàn, tôi và Cha Vàng thay
phiên nhau kéo, từ 9 giờ sáng cho đến hơn 11 giờ thì “phép lạ” đã đến. Ðầu con
cúi bắt đầu ngún và có khói, có nghĩa là bột tre nóng quá độ đã khiến cho lớp
bông nhẹ trên con cúi bén lửa. Một lát sau khi thấy xuất hiện những đốm hồng,
Cha Vàng thổi nhẹ nhẹ, vết lửa lan ra, trang sử của mấy ngàn năm trước được lật
lại. Cha Vàng tiếp tục thổi nhẹ để nuôi dưỡng ngọn lửa. Và khi đã ngủi thấy mùi
khét của vải, ngài thổi hơi mạnh. Ngọn than hồng lan rộng ra hơn và cuối cùng
chỉ cần một hơi nhẹ, ngọn lửa bùng lên. Vị tu sĩ nhìn con cúi vải có than hồng
giống như một điếu thuốc lá mới được đốt lên, rồi cười vang: “Mình thắng”. Ngài
lục trong tay nải một miếng giấy châm vào cúi vải, ngọn lửa lan sang đóm giấy.
Xong, cha nắm chặt tay tôi giơ lên cao như một võ sĩ được trọng tài nắm tay giơ
cao sau khi đấm địch thủ do ván.
Chúng tôi ngồi nghỉ một lát, sau đó Cha Vàng nói: “Chúng ta
đã học xong bài học lúc bố đã ngoài 50, còn con đã 33 tuổi. Nhưng tự bố, bố thấy
chúng ta xứng đáng với bài học ấy. Ðó là kiên trì đạt mục tiêu trong hoàn cảnh
khó khăn nhất”.
Ðúng vào tối 24-12-1984, trước khi Cha Vàng cử hành thánh lễ
nửa đêm trong xà lim số 6, chúng tôi đã hút mỗi người một điếu thuốc lào. Hút bằng
một miếng giấy cuộn tròn như loa kèn và ngậm nước. Hút như thế, miệng mình
chính là cái điếu, và cũng có tiếng kêu, cũng chếnh choáng say như khi hút bằng
điếu cày. Chỉ có điều khác với hút thuốc lào bằng điếu cày: Sau khi hút phải nhổ
nước đi. Trong hoàn cảnh tôi và Cha Vàng lúc đó thì hơi tiếc vì chúng tôi thiếu
nước uống kinh niên.
Kể từ ngày sống cùng một xà lim với Cha Nguyễn Văn Vàng, tôi
học được nhiều điều. Trong suốt thời gian này, ngài giảng cho tôi bộ Tân Ước.
Dù tôi là một Phật tử, nhưng nghe một nhà truyền đạo Công giáo chuyên môn giảng
kinh, nên bộ Tân Ước đã củng cố những lập luận sau này của tôi rất nhiều. Quan
trọng hơn hết, đó chính là kỷ niệm với một tu sĩ mà tôi kính trọng.
Tháng 4-1985, Cha Vàng lâm bệnh vào lúc sức khỏe của ngài
đã quá yếu. Có lẽ ngài đã kiệt sức, sốt cao rồi đi vào hôn mê. Tôi đập cửa
kêu cấp cứu suốt ngày, nhưng lúc tên trực trại chịu mở cửa để cho một y sĩ vào
khám bệnh, thì mọi việc có vẻ quá muộn. Hai viên trụ sinh không đủ khả năng làm
Cha Vàng tỉnh lại. Vào đúng lúc cả hai chúng tôi đều cảm nhận được mùa Giáng
Sinh đã trở lại thung lũng Xuân Phước qua tiếng chuông của một nhà thờ dường
như ở cách chúng tôi xa lắm vọng về trong đêm lạnh giá và u tịch. Linh Mục Nguyễn
Văn Vàng qua đời ngay trong xà lim số 6. Trước đó, dù yếu và bệnh, ngài đã bàn
với tôi là làm sao có được bánh thánh lúc ngài làm lễ nửa đêm trong Noel 1985
mà con chiên duy nhất trước ngài lúc đó lại là một Phật tử như tôi.
Nhưng mơ ước của Ngài không thành, kể cả việc lớn trước đó
là lập lực lượng võ trang để mong lật ngược lại tình thế của một đất nước vừa
chìm đắm trong luồng sóng đỏ.
Nhưng dù ngài đã mất đi, trong suy nghĩ của tôi cho đến bây
giờ, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vẫn là một ngọn lửa, âm thầm cháy như con cúi vải
ngày nào bỗng bùng lên soi sáng cái không gian tăm tối của tất cả những xà lim
đang hiện diện trên đất nước Việt Nam.
Vũ Ánh
Oakland, CA