Đây là một chương trong cuốn Miền Thơ Ấu, khi xuất bản phải bỏ vì… thiếu
giấy. Tôi mới tìm lại được, bèn tạm cho nó hình thức truyện ngắn để giới thiệu
với các bạn từng chia sẻ với tôi kỷ niệm về một thời đã mất. (VTH)
Cánh cổng nặng nề vừa mở hé là tôi giật bắn mình. Trong ánh rạng đông nhợt
nhạt, một bóng người vụt hiện giữa bụi ruối ở bên ngõ. Cái bóng xiêu vẹo ấy
chậm chạp tiến đến, lom lom nhìn tôi. Tôi lùi lại trước những ngón tay cong
queo vươn tới, cùng với giọng nói khàn khàn trong gió sớm:
– Cậu Hiên ơi, cậu Hiên.
Tôi sững người: “Là ai nhỉ?”.
– Cậu không nhận ra tôi ư, cậu Hiên?
Tôi giơ tay ngăn cái bóng.
– Là tôi đây mà, là phó Tuất đây!
Tôi chú mục ngó bóng người trước mặt. Những nét sắc trên gương mặt quắt queo
hiện dần trong ánh sáng mờ.
Lạy Chúa tôi, tôi thầm kêu, giờ thì tôi nhận ra rồi. Cái bóng trước mặt tôi
chính là ông, là phó Tuất.
Khốn khổ, làm sao tôi có thể nhận ra ông trong cái thân hình gày đến không thể
gày hơn, giống hệt một bộ xương cách trí được khoác lên một bộ áo quần lụng
thụng.
Ghé vào tai tôi, ông thì thào:
– Bà có nhà không cậu?
– Không, ông ạ. Cô cháu đi Kiên Lao từ hôm qua.
– May tôi rồi! – ông suýt soa.
– Sao cơ? – tôi ngạc nhiên – Sao lại may ạ?
Ông ghé sát, nắm chặt tay tôi, bàn tay xương xẩu lạnh ngắt:
– Là tôi sợ gặp bà.
Năm trước, cô Gái tôi sai người tìm ông để sửa chân đế cho Toà Đức Mẹ bị mối
xông. Mời phó Tuất không dễ – ông là thợ khéo tay có tiếng, được nhiều khách
vời. Mà cô tôi biết việc này không tìm đúng người không xong. Để cho Toà Đức Mẹ
trở lại dáng vẻ trước khi nó bị hư hại không phải bất kỳ ông thợ mộc nào cũng
làm được. Trừ phó Tuất. Khắp một tổng Thần Lộ, không người nào có được đôi tay
vàng như ông. Thậm chí mỗi khi cần tu sửa đồ thờ phụng, nhất là các pho tượng,
trong nhà thờ chính toà hay các nhà thờ họ lẻ, cha xứ đều phải vời ông, dù ông
là người bên lương. Người bên lương không được phép đụng chạm vào đồ thờ là
nguyên tắc ở mọi xứ đạo. Cha xứ miễn cưỡng đặt phó Tuất vào ngoại lệ. Mà là
ngoại lệ duy nhất.
Trong nhà chúng tôi, Toà Đức Mẹ là của gia bảo, chẳng có vật gì quý hơn. Nó
còn là niềm tự hào của cả xóm, và còn hơn thế, của cả xứ đạo. Không nhà nào, kể
cả nhà chung, có một toà thờ trong gia đình đẹp đến như thế. Những dịp lễ
trọng, xứ đạo có rước, thể nào cha xứ cũng cho thỉnh toà Đức Mẹ. Trong đám
rước, Toà Đức Mẹ sơn son thếp vàng được kiệu ngay sau tượng Chúa Giê Su vác
thánh giá to bằng người thật, chỉ cách một toán đánh rắc .
Trong nhà tôi, việc Toà Đức Mẹ bị mối xông là sự kiện. May mà cô Gái tôi
nhìn ra sớm, chứ muộn thì hết cách – bề ngoài nom nó nguyên vẹn, vậy mà bốn
chân đã bị mối xông mục. Cô tôi già, nhưng còn đủ tinh mắt để xăm xoi đồ vật
trong nhà. Chứ mà không nhìn ra chỗ gỗ bị mối đùn ở sau toà thì thôi rồi. Cái
hoạ mối xông thường là khủng khiếp, bao giờ cũng bất ngờ, nhưng lại là chuyện
luôn xảy ra, không ở nhà này thì nhà khác. Một khi bốn chân đế không còn đủ
vững để mang sức nặng của cái toà nặng nề nọ thì nó có thể đổ sập bất cứ lúc
nào. Và tượng Đức Mẹ ắt phải vỡ tan khi rơi từ trên ban thờ xuống đất. Mà đó là
pho tượng xứ Bồ Đào Nha, bác Cả tôi phải đặt mua tận bên Pháp mới có. Tượng đẹp
khôn tả: đầu Đức Mẹ như thể tạc bằng ngà, nước da mịn màng, đường nét thanh tú,
đặc biệt cặp mắt xanh biếc trông cứ long lanh, long lanh, ai cũng phải tấm tắc
rằng sao mà có thần đến thế. Trong bộ áo choàng dệt kim tuyến, với vòng triều
thiên quanh đầu, Chúa Hài Đồng trên tay, Đức Mẹ toả sáng rực rỡ trong ánh nến
lung linh trước lũ con chiên thành kính ngồi xếp bằng dưới đất trong những tối
đọc kinh chung cả xóm.
– Lâu rồi không gặp ông, cháu không nhận ra. – tôi nắm bàn tay gày guộc của
phó Tuất – Mà ông cũng khác quá cơ.
– Cậu không nhận ra là phải thôi – giọng não nuột, ông nhìn xuống – Tôi với
các cháu xem ra khó mà qua nổi cái đận này, cậu ạ.
Dõi theo mắt ông, tôi thấy bóng hai đứa bé thập thò ở đầu ngõ, thằng lớn cao
gần bằng tôi, thằng bé thì cách anh nó khoảng vài tuổi. Hai đứa đều gày nhẳng,
hai bộ xương nhỏ.
Đận này là cái thời gian khủng khiếp nhất mà tôi từng biết, mà sau này người
ta thường gọi tắt bằng mấy chữ: “Tháng Ba năm Ất Dậu”. Những thế hệ sinh sau đẻ
muộn không thể mường tượng được cái “đận” ấy là thế nào. Cứ như thể có một trận
bão kinh hoàng của ngày tận thế ào qua vùng đồng bằng trù phú.
Trên con đường hàng tỉnh, đường liên huyện, đường đê, đường làng, dân đói lũ
lượt kéo nhau đi. Những đoàn người thất thểu, xiêu vẹo, lầm lũi đi, đi mãi,
không dứt. Đông nhất là con đường 21 dẫn lên tỉnh lỵ. Đồn rằng chỉ còn nơi đó
mới có thể xin được cái ăn.
Con đường của dân đói kết thúc ở bất cứ nơi nào – ở vệ đường, trong mọi bờ
bụi, trôi lềnh phềnh trên con ngòi với những đàn cá mương bu quanh… Chỗ nào
cũng có xác người và xác người. Đủ mọi hình hài. Trong mọi tư thế – chết ngồi,
chết nằm, chết co quắp, chết chùm, người nọ quặp chặt người kia.
Từ trong hai hốc mắt ông phó Tuất lăn ra hai giọt nước đục.
– Cậu ơi, cậu giúp tôi nhá? – ông thều thào.
Tôi thẫn thờ nhìn ông. Tôi, một thằng bé con, thì giúp gì được ông cơ chứ?
Cái nhìn mờ đục, chứa chan hi vọng của ông rõi vào mắt tôi, không rời.
– Tôi mang cái này biếu cậu. Tôi biết cậu thích nó.
Đôi tay run rẩy chậm chạp lần lưng quần, ông moi ra một cái bọc, rồi giúi
vào tay tôi.
Cái bọc nặng chịch. Không cần mở nó ra tôi cũng đoán được trong đó có gì.
Đó là bộ đồ nghề của phó Tuất. Ông vẫn thường gói nó trong vuông vải nâu này
mà.
Trời rạng. Một tiếng gà gáy muộn, từ đâu đó, chắc từ xóm bên. Từ khi có nạn
đói, trong làng vắng hẳn tiếng gà gọi sáng.
Tôi lắc đầu, đẩy cái bọc trả lại ông.
Phó Tuất nói trúng – tôi thích bộ đồ nghề của ông lắm lắm. Trong mấy ngày
làm việc ở nhà tôi, ông đã thấy tôi ngắm nghía nó bằng cặp mắt khao khát đến
thế nào.
Với người thợ, bộ đồ nghề là cái quý giá nhất. Người thợ giữ gìn nó, chăm
chút nó, như thể không có nó họ không phải là họ. Mà ông phó Tuất không phải
thợ mộc thường, như trên tôi đã nói. Việc ông thường nhận làm là tôn tạo các
tượng thờ trong đền chùa, sửa hương án, tủ chè, hoành phi, câu đối, hoặc tệ
nhất cũng là mấy cái hộp đồng hồ quả lắc có chạm trổ ở vài nhà giàu. Cho nên đồ
nghề của ông không phải là mấy thứ ta thường thấy ở những ông phó mộc hay phó
cối với cái cưa biểu tượng trên vai lang thang hằng ngày trong thôn xóm. Ấy là
chưa kể việc sơn thếp rất tỉ mẩn ông cũng làm được chẳng kém gì thợ Sơn Đồng.
Trong thời thơ ấu của tôi, tôi cũng như mọi đứa trẻ cùng tuổi, chúng tôi
cũng có nhiều trò chơi. Chúng tôi chỉ không có đồ chơi theo cách hiểu thông
thường mà thôi. Nói cho đúng, chúng tôi cũng có thứ đồ chơi hiếm khi có được,
ấy là cái bong bóng lợn. Nó được rửa thật sạch cho hết mùi khai, được thổi
phồng cho tới khi tròn vo như một quả bóng thật. Trò đá bóng nhà quê của chúng
tôi chẳng có luật lệ. Chúng tôi giành nhau đá thật lực vào cái vật tròn tròn
mềm mềm xấu xí ấy, đá được nó bay đi càng nhiều càng khoái. Mà chúng tôi cũng
chỉ có được cái quả bóng giả vờ ấy vào những dịp lễ tết hoặc cưới hỏi, khi có
nhà quen giết lợn.
Vì thế, khi được ngó ông phó Tuất dùng cái tràng, cái đục trong bộ đồ nghề
cái nào cũng nhỏ xíu của ông lúc uốn lúc lượn, lúc trượt đi nhẹ nhàng theo
những cái gõ rất nhẹ rất gọn của cái dùi đục, cũng bé tí bé tẹo, trên những mẩu
gỗ rồi đây sẽ thay thế bốn chân quỳ bị hỏng, tôi như được chứng kiến một trò
chơi thú vị. Mọi dụng cụ trong bộ đồ nghề của ông đều được làm bằng thép trắng.
Chúng được mài thô trên một hòn đá mài màu đỏ rồi sau đó được liếc đi liếc lại
cho đến thật bén trên một hòn đá mài xanh. Thứ thép này tôi không biết người ta
tôi luyện nó thế nào. Nó trắng, song không phải thép inox, đồ bằng thép inox có
mài mấy cũng không bén như vậy. Đường tràng đường đục dưới tay ông chậm mà chắc,
rất nắn nót, đường nào đường nấy ngọt sớt, cứ như thể ông không làm việc mà
đang chơi một trò chơi chỉ riêng ông biết chơi, trông mà phát thèm.
Trong hai ngày ở nhà tôi, ông phó Tuất vừa làm vừa nhẩn nha giảng giải cho
tôi nghe công việc của nghề mộc. Còn hơn thế, thỉnh thoảng ông còn cho tôi được
dùng những dụng cụ tí hon trong bộ đồ nghề của ông để chơi với những đầu mẩu gỗ
ông không cần đến. Nhìn tôi chăm chú từng nhát bào, nhát đục, khi làm mộng, khi
soi rãnh… theo sự chỉ dẫn của ông, ông bảo:
– Cậu có khiếu đấy. Lớn lên sẽ là thợ giỏi.
Ngửa mặt lên thở một khói thuốc lào dài, ông nói thêm:
– Dưng mà làm thợ giỏi cũng chẳng hay hớm gì đâu. Chịu khó mà học, cậu ạ,
sau này làm quan hay là đi buôn mới hay. Thợ có giỏi mấy cũng vẫn là anh làm
thuê, người có tiền ho một tiếng khắc có thợ giỏi chạy đến…
Ông thích triết lý vụn khi làm việc. Vuốt ve một vật đã được bào nhẵn, ông
bảo:
– Sống ở đời này cứ là phải nhẵn nhụi, cậu ạ. Thiên hạ ghét kẻ khác mình.
Thấy kẻ nào gồ ghề là họ ngứa mắt, muốn cạo cho bằng nhẵn. Đời có người thế này
người thế kia mới là đời. Khốn thiên hạ cứ thế, cứ cái thói ấy cơ. Thôi thì
mình có gồ ghề cũng phải làm ra vẻ nhẵn nhụi cho họ vừa lòng. Biết mà làm ra vẻ
không biết mới là biết.
Giờ đây, trước mặt tôi không phải là ông phó Tuất với vẻ ung dung tự tại
ngày nào, mà một người đói lả. Ông nhìn tôi, trông chờ. Tôi thì bối rối – tôi
có thể làm gì cho ông?
Thấy tôi từ chối món quà, ông phó Tuất xỉu hẳn. Ông nắm chặt tay tôi, lay
lay:
– Cậu cứ cầm lấy. Tôi còn dùng đến nó nữa đâu. Đến nhà giàu giờ cũng lo đói,
chẳng có ma nào thuê tôi. Chẳng ai biết được cái nạn này bao giờ mới hết, cậu
ạ. Nó còn thì nó chẳng tha ai. Chẳng còn ai nghĩ đến sắm sanh, sửa chữa gì nữa.
Xóm tôi là xóm nghèo, thiên hạ lần lượt bỏ đi hết. Vắng tanh vắng ngắt. Mấy nhà
gần nhà tôi chẳng còn lấy một mống. Họ đi đâu không biết, nhưng đi đâu cũng còn
hơn nằm nhà chờ chết. Nhà tôi có khá giả hơn một chút là nhờ còn có tí của tích
cóp, còn mua được đấu cám…
Ông lặng đi, nhìn lên bầu trời xám.
– Bà nó nhà tôi, tội nghiệp, cám cũng không dám ăn, cứ giấu giấu giếm giếm
nhịn cho chồng cho con… Thế rồi lả đi. Như lá úa lìa cành… Bà ấy mất hôm qua
rồi.
Ông nấc lên. Khi người lớn khóc, ấy là họ đã đi đến tận cùng tuyệt vọng.
Tôi bỏ ông đứng đấy, ù té chạy vào nhà. Lẽ ra tôi phải đóng cổng lại đã, như
cô Gái dặn: “Thời buổi trộm đạo như rươi, cổng phải đóng cho chặt. Có ai gọi
cũng phải hỏi kỹ, đúng là người nhà hay người quen mới mở he hé cho vào. Nhớ
đấy nhá!”.
Tôi gập người vào chum gạo tối om, xúc mấy vốc bỏ vào lá giong túm chặt lại,
buộc lạt cẩn thận, rồi chạy ra.
Cổng vẫn mở, nhưng không thấy phó Tuất đâu. Chạy ra đầu ngõ, thấy ông đã dắt
hai con lủi thủi đi. Tôi vội phóng theo.
Ông ngẩn người khi tôi đặt vào tay ông túm gạo. Tôi không dám lấy nhiều, áng
chừng nhỉnh hơn một bò:
– Cậu lấy nhiều thế không sợ bà biết à?
Tôi lắc đầu. Chỗ gạo này cho ba bố con đâu có nhiều.
– Bà không biết đâu.
Tôi nói dối – cô tôi, tức bà chị ruột cha tôi, nổi tiếng là người riết róng.
Bà là người duy nhất còn ở lại ngôi nhà ông bà nội khi các bác tôi đã đi hết,
quyết giữ cho nó nguyên vẹn như khi các cụ còn sống. Tôi sợ bà lắm chứ. Nhưng
nhìn thân hình gày còm và dáng đi xiêu vẹo của ông phó, nhìn hai đứa trẻ mắt
thô lố trông cậy, tôi không nỡ từ chối lời khẩn cầu không nói ra của ông.
Ông đặt tay lên vai tôi hồi lâu. Có vẻ ông muốn ôm lấy tôi, nhưng ông ngần
ngại. Ông sợ mình hôi hám:
– Trời Phật sẽ bù trì cho cậu.
Trong phút xúc động, ông quên mất tôi là người bên giáo.
Ông còn đến tôi vài lần nữa, cách nhau vài ngày. Lần nào tôi cũng xúc cho
ông một hoặc hai bò gạo. Một bò gạo chỉ có nấu cháo mới ăn được vài ngày. Ông
tất nhiên muốn tôi cho nhiều, nhưng lần nào ông cũng tỏ ra ái ngại, sợ tôi cho
như thế cô tôi sẽ biết và tôi sẽ bị phạt. Sở dĩ tôi dám cho ông ngần ấy vì gần
đây cô tôi mệt, thường không tự mình lấy gạo thổi cơm, mà giao việc ấy cho tôi,
bà có thể không để ý.
Thế rồi bỗng nhiên phó Tuất biến mất.
Lần cuối ông tới, tôi thấy ông còn gày hơn trước nữa, thều thào hơn trước
nữa. Dường như phải gắng sức ông mới đặt được tay lên vai tôi:
– Cậu thật tốt bụng. Tôi không quên ơn cậu.
Một giọt nước mắt khô làm ướt hố mắt ông.
Tôi hớt hải chạy đi tìm ông khắp lối xóm, rồi trong làng, với đùm gạo trong
tay. Nhưng không thấy ông ở bất cứ đâu.
Tôi ân hận. Rất có thể những lần sau tới tìm không thấy tôi đâu, ông thất
vọng. Tôi thì nằm trên thân cây sung mọc trườn ở ao sau ngấu nghiến đọc cuốn
Tam Quốc chí khó khăn lắm mới mượn được, không nghe tiếng ông gọi. Không thấy
tôi, trong làng lại không xin được ai khác, ông bỏ đi.
Ông có thể bỏ đi đâu chứ?
Tôi hối đã cho ông quá ít trong lần cuối. Tôi quờ tay trong cái chum tối om
thấy gạo vơi đi nhiều. Nếu cô tôi biết, tôi sẽ bị đòn. Những con lươn trên mông
đít không lặn đi ngay, bắt tôi phải nhớ lâu lỗi của mình. Khi tôi có lỗi, bà
thường nọc tôi ra, lấy roi dâu quất liên tiếp cho đến khi bà thấm mệt. Lẽ ra
tôi không nên sợ quá như thế. Để giúp ông, sao tôi lại sợ đòn? Cô Gái có đánh
cũng phải nghiến răng mà chịu mới phải. Mà năm nay bà già rồi, tay không còn
khoẻ, những trận đòn, nói cho đúng, cũng nhẹ hơn trước nhiều.
Tôi khoá cổng, hấp tấp đi dọc con đê Vàng, ra tận Cổ Lễ. Không thấy phó Tuất
đâu. Tôi quyết định đi ngược thêm vài cây số về phía tỉnh lỵ.
Người chết đói nhiều lắm, người còn sống dọn không xuể. Tôi nhìn kỹ vào
những đống xác người chờ được chở đi tới huyệt chung. Tôi thầm mong không thấy
xác ông phó Tuất và hai đứa con trong đó. Tôi hi vọng tìm được ông còn sống để
đưa gạo cho ông nấu cháo. Biết đâu đấy, những đùm gạo của tôi lại chẳng giúp
được ông và hai đứa con sống lay lứt cho đến khi lúa lại lên đòng, và nạn đói
kết thúc. Nếu tìm được ông, tôi sẽ bảo ông đừng đi đâu nữa, hãy quay lại làng
tôi, nơi tôi có thể gặp ông để tiếp tục lấy gạo đưa ông, dù tôi có bị đòn.
Không bao giờ tôi còn gặp lại ông nữa.
Bộ đồ quý giá ấy tôi không dùng đến lần nào. Vì mỗi lần nhìn nó, tôi lại
thấy hiển hiện trong trí nhớ hình ảnh ông phó Tuất và hai đứa con ông trong cái
buổi sáng ảm đạm không thể nào quên ấy.
Đành cất kỹ nó, để rồi mất tiêu nó trong những ly tán không ngừng một thời
kháng chiến.
oOo
Tôi lớn lên, không trở thành thợ giỏi như ông phó Tuất nghĩ. Cũng không chăm
học để rồi làm quan, đi buôn như ông khuyên.
Tôi chẳng thành bất cứ cái gì trong hình dung của ông. Nhưng ông để lại cho
tôi những cuộc trò chuyện đáng nhớ. Và trùm lên tất cả là hồi ức buồn về một
kiếp tài hoa.
Tôi nhớ rất lâu những câu ông nói với tôi giữa tiếng tràng tiếng đục:
– Ông ơi, nghề mộc này ai dạy ông hở ông?- tôi ngồi bó gối bên cạnh, ngước
nhìn ông.
Ông lắc đầu:
– Tôi ấy à, chẳng ai dạy tôi cả.
– Người ta bảo “Không thầy đố mày làm nên” cơ mà.
Ông ngửa mặt, cười to:
– Không cứ là phải thế đâu, cậu ơi. Thầy ở ngay trong mình này này. Đấy là
người thầy đầu tiên, người thầy trước hết. Làm gì thì làm, cứ là phải thích cái
đã. Không thích thì đừng hòng nên cơm nên cháo gì trong bất cứ nghề nào, thật
vậy. Thích rồi, được làm cái mình thích rồi, vẫn chưa đủ, còn phải say mê nó
nữa. Đến lúc ấy tìm thầy học nghề cũng chưa muộn.
– Thì vẫn phải có thầy đấy thôi.
– Khi mình chưa thấy cần có người thầy để học thì có mà thầy giời dạy được
mình. Không phải thế đâu. Khi mình thấy thèm được học thì khắc có thầy – ông
nhẩn nha giải thích – Thầy là ai? Thầy ở đâu? Chẳng là ai, chẳng ở đâu hết.
Trên đời này có vô số người giỏi. Mình muốn giỏi thì phải tìm người giỏi để
học. Người giỏi, ấy là thầy ta. Lại nữa, mỗi người giỏi có cái giỏi riêng của
ông ta, học ở bao nhiêu người là thu được bấy nhiêu cái ta gọi là ngón nghề. Ai
dạy ta, truyền cho ta cái hay cái tốt nào đều là thầy. Khi nãy tôi nói tôi
không có thầy là trong cái nghĩa ấy – ông đập vào ngực – Nhưng không có người
thầy đầu tiên nằm sẵn trong mình thì có làm lâu mấy trong nghề cũng vẫn chỉ là
anh thợ quèn.
Khi làm việc ông chăm chú, quên bẵng tôi ngồi bên. Nhưng xong việc rồi, ngắm
nghía cái sản phẩm vừa làm ra rồi, hài lòng rồi, thì ông bỏ nó đấy, chẳng nhòm
ngó gì đến nó nữa, đi quanh quẩn tìm khúc gỗ, mẩu gỗ nào thích hợp cho công
việc kế tiếp. Khi xả hơi, ông khoan khoái rít dài một điếu thuốc lào.
– Cậu biết không? – tay xoay xoay vật vừa làm xong, ông ngó nghiêng nó từ
mọi phía, rồi triết lý – Cậu thấy tôi làm mà như chơi là vì tôi không thấy cái
sự làm việc là vất vả. Đúng thế đấy. Tôi làm và có được cái khoái khi làm việc.
Tức là sao, phải không? Là trong khi mình đang làm ra cái mình muốn làm thì
mình để hết tâm trí vào đấy, cứ như không phải mình làm, mà nó hút mình vào
đấy, làm mình quên hết mọi sự. Cái khoái là như thế. Không phải cái mình làm ra
làm cho mình khoái đâu, cậu hiểu chứ? Việc xong rồi thì cái khoái ấy cũng hết.
Ông giơ thành phẩm cho tôi xem:
– Nói ví thử như cái mẩu gỗ này, thoạt kỳ thuỷ tôi mường tượng lát nữa nó sẽ
thành thế nào, tôi tự hỏi liệu nó có sẽ như mình muốn không? Nhưng làm được
rồi, xong rồi, thích rồi, đến lúc ấy thì cái khoái cũng hết, lạ vậy.
– Thế a?
– Khoái và thích là hai thứ khác nhau, cậu ơi. Thích là sự bằng lòng, sự hài
lòng, nhưng khoái thì hơn thế nhiều lắm, nó là sự sung sướng, là niềm vui.
Lúc khác, ông tâm sự:
– Còn có sự lạ này nữa – có khi lúc đầu mình định làm thế này, thế kia, vậy
mà làm xong, nhìn lại, hoá ra nó thành thế khác. Lạ lắm. Không phải khác hẳn
cái mình định làm đâu, khác hẳn có mà chết. Người ta đặt hàng cho mình thì mình
không thể làm ra cái khác với cái người ta đặt. Khác ở đây là nó không hoàn
toàn như mình hình dung ban đầu. Tỉ dụ như cái chân đế này này, làm ra như cũ
chẳng khó, tôi nhắm mắt cũng làm được. Có điều lúc mình đang làm, cái mắt mình
nó khiến cái tay mình cách sao đó, mình cũng không hay, cứ như thể cái tràng
cái đục dưới tay mình chúng nó tự uốn, tự lượn, thế rồi chúng nó làm ra cái
không hoàn toàn giống cái mình muốn. Nhìn lại thì thấy nó giống thì vẫn giống,
mà có khác một chút, một tẹo thôi, ấy thế mà xem ra thì thấy đường nét mềm mại
hơn, trơn tru hơn, nói vắn là đẹp hơn.
– Lạ nhỉ?
– Là thợ, mình mới thấy được cái đẹp ấy, chứ người đặt hàng thì không. Nhìn
nó, họ chỉ biết hài lòng với cái vật mình làm ra cho họ thôi. Cái mình vừa làm
ra đẹp hơn mình tính chỉ riêng một mình mình biết. Lúc ấy trong lòng sướng lắm,
cậu a. Chẳng ai hiểu được cái sướng ấy nó thế nào đâu. Thấy mình ngồi đấy mà
tủm tỉm, mình khoái một mình, họ tưởng mình lên cơn dở hơi, họ tròn mắt ngó
mình, buồn cười lắm. Ấy đấy, cái khoái, cái sướng trong nghề nó là vậy, cậu ạ.
Thằng cậu ngày ấy ngồi bó gối chăm chú ngó nghiêng xem ông làm việc. Nó nghe
mà không hiểu bao nhiêu. Nhưng những lời ông nói cứ từ từ, từng ít một, đọng
lại trong trí nhớ.
Về sau này, khi đã thành người lớn, nhớ lại kỷ niệm thời thơ ấu, nó mới ngộ
ra ông thợ đã đúc kết được điều gì trong đời mình.
Ông đã tìm ra điều bí mật ẩn giấu bên trong sự sáng tạo – ấy là niềm vui vô
thức nảy sinh trong lúc làm việc. Nó đồng nghĩa với cảm giác hạnh phúc. Người
nào mới thấy được niềm vui trong kết quả công việc thôi, người đó chưa tới được
cái gọi là sáng tạo.
Cô Gái tôi từ Kiên Lao chăm em gái ốm trở về, không kiểm tra chum gạo. Nhưng
mấy hôm sau, khi tôi rụt rè thưa với bà rằng gạo đã hết, phải lấy thóc ra xay,
thì bà bảo:
– Ma quỷ, sao mà chóng hết thế?
Buổi tối, hai cô cháu giã gạo, bà ngừng chân nhấn, hỏi tôi:
– Cô hỏi thật: cháu có lấy gạo cho ai không đấy?
Tôi biết không thể chối, cúi mặt, ấp úng:
– Dạ, có.
Bà thở dài:
– Lúc đi vắng, cô nghĩ: không biết thằng cháu ở nhà có biết đường san sẻ với
người đói không đấy. Chỉ e cháu sợ cô mắng, chẳng dám cho ai.
Rồi bà xoa đầu tôi:
– Mày nom thế mà sáng dạ, cháu ạ.
Vũ Thư Hiên
1975-2015