Sáng nào, nếu trời không mưa, bà Hai cũng vắt cái khăn rằn
lên vai, chụp cái nón lá đã tưa vành lên đầu, xách giỏ trầu đi ra phía vàm rạch
trèo lên mô đất cao, ngồi chồm hổm vừa nhai trầu vừa nhìn qua bên kia sông,
nhìn miết.
Mô đất nầy, cách đây hơn ba mươi năm - hồi thời kháng chiến
chống Tây – chính tay bà và đồng bào trong xóm đã đắp lên làm ụ súng cho du
kích bắn tàu Tây chạy ngoài sông Cái. Hồi đó, mô đất cao lắm. Bây giờ nó đã mòn
lần nhưng vẫn còn đủ cao để bà Hai, dầu ở vị trí ngồi, vẫn nhìn thấu tuốt qua
bên kia sông. Bên kia sông là quận Gò Keo, ở đó có sở cao su của Năm Lượm, em
út của bà. Bà còn nhớ rõ như in: “Hồi nẳm, thằng Lượm làm cặp-rằng trong sở cao
su của thằng tây Mi-Sên. Kế đến tây rút đi –đâu hồi một ngàn chín trăm năm mấy
gì đó- thằng Mi-Sên kêu bán rẻ lại cho thằng Lượm. Thằng hên! Nó bán đi phần ruộng
ông già để lại cho nó rồi chạy thêm mớ nợ, mua trọn gói sở cao su! Vậy rồi nó
giàu ngang, mới tức cười!” Thường thì kể đến đây bà Hai hay ngừng lại để xỉa cục
thuốc qua lại mấy lần rồi mới nói tiếp ; “Bây coi! Hồi thời ông gì đó, chỉ có
Út Lượm là sắm được chiếc ca-nô tổ chảng, chạy lên chạy xuống tỉnh hà rầm. Lâu
lâu còn cho mấy ông lớn mượn đi bắn le le nữa! Hồi ông nhà tao còn sống, nó hay
lái ca-nô qua đây nhậu với ổng. Mẹ! Mỗi lần ca-nô nó vô tới đầu vàm rạch là nó
hú còi nghe điếc con ráy, còn làm nổi sóng cho nước phóng lên bờ, bà con trong
xóm ai cũng hay là có ông Út qua!” Bà thường ngừng ở đây để cười khịt khịt mà
nghe sung sướng ở trong lòng, bởi vì trong ba thằng em trai, bà Hai thương thằng
em út nầy nhứt. Bà hay nói: “Thằng Lượm tuy ít học hơn hai anh của nó nhưng bụng
dạ nó tốt lắm. Ăn ở có nhơn nên dân thợ trong sở cao su ai cũng thương. Hồi
giàu lên rồi, nó cũng không quên ai hết. Như anh Ba của nó đi tập kết đâu tuốt
ngoài bắc viết thơ về gởi gắm hết người nầy tới người kia cho nó, vậy mà nó
cũng lén nuôi đàng hoàng. Còn thằng anh Tư của nó theo bên vợ làm thầy giáo ở Cần
Thơ muốn mở trường tư thục gì gì đó, nó cũng mang tiền xuống giúp. Thằng tốt!”
Trong làng Bình Quới nầy ai cũng biết vụ bà Hai ngày ngày ra
ngồi trên mô đất nhìn miết qua bên kia sông. Chuyện xảy ra sau ‘giải phóng’, từ
ngày người con trai út của bà, tên Trực, ở Sài Gòn về thăm bà và để cho hay là
vợ con của Trực đã theo tàu hải quân di tản rồi, còn Trực thì phải lo khai báo
với chánh quyền mới để có giấy tờ hợp lệ bởi vì Trực là sĩ quan của chế đõ cũ.
Trực nói: “Chừng có giấy tờ, con về đây ở với má. Chắc chừng vài ba bữa nửa
tháng, hà!” Nghe vậy, bà Hai rất vui, têm trầu ăn liền liền! Bà nói: “Tao chỉ
có hai thằng con, mà Trời thương, thằng nào cũng được hết. Thằng Cang - thằng lớn
- đi lính quốc gia. Nghe nói nó đánh giặc gan lỳ. Vậy mà không bao giờ nó nói động
tới thằng cậu Ba nó ở ngoài kia. Còn thằng Trực - thằng út – thì thông minh học
giỏi, vậy mà sau khi anh hai nó chết trận ở Công-tum Công-tiết gì đó, nó đang học
đại học cũng bỏ học đi lính nói để trả thù cho thằng anh!” Bà hay ngừng một
chút rồi mới nói tiếp, như để kết một câu chuyện: “Bây giờ thì hết giặc rồi.
Vài bữa thằng Trực về đây, tao sẽ chỉ nó lo chăm sóc cây trái vườn tược thế cho
con Tư để con nhỏ còn đi lấy chồng chớ!” Nói như vậy bởi vì mấy năm gần đây, từ
ngày ông Hai nằm xuống, bà Hai hay ngã bịnh bất thường nên người em bà con ở
bên quận gởi đứa con gái là cô Tư – ba mươi tuổi, chưa chồng – qua ở với bà để
lo cơm nước vườn tược v v… Cô Tư kêu bà bằng Dì.
Sau khi Trực trở về Sài Gòn, một hôm, đò ngang từ bên quận
Gò Keo qua làng Bình Quới ngừng lại trước nhà bà Hai thả xuống một ông già lưng
mang ba-lô, ốm nhom đen thui đầu bạc trắng. Người lái đò chỉ tay nói lớn: “Ông
đi thẳng vô trong, cái nhà gạch nền đúc đó, đó!” Nghe lao xao, cô Tư nói: “Dì
Hai! Dì Hai! Có ai kìa!” Bà Hai nheo mắt nhìn: má bên trái của ông già có một
nút ruồi với một sợi râu lăng quăng. Bà rớt nước mắt: “Mầy còn sống hả Ba?” Vậy
là hai chị em gặp lại nhau, vẫn nhìn ra được nhau sau hơn hai mươi năm xa cách!
Út Lượm hay tin cũng xách ca-nô chạy qua thăm anh Ba, tủi tủi mừng mừng. Cô Tư
dầu chưa biết ‘Cậu Ba’ là ai nhưng trước cảnh gặp nhau đó, cô cũng nghe xúc động
nước mắt chảy quanh…. Sau đó, để hàn huyên cho đã, nên ông Ba dự trù ở lại chơi
thêm năm bảy hôm.
Bữa nọ lối mười giờ sáng, có tiếng ca-nô chạy xộc vô rạch.
Thằng Kiên, con Út Lượm, u vào nhà, vừa thở vừa nói: “Con qua rước bác Ba về
can thiệp gắp vụ nầy: họ đang kiểm kê để tịch thâu sở cao su ở bển đó!” Ông Ba
cười: “Bây làm gì như Mỹ bỏ bom vậy?” Rồi quay qua bà Hai: “Chị để em qua bển một
chút. Em nói mấy tiếng rồi về, hà! Biểu con Tư nó nấu cho em miếng cháo gà ăn
chơi!” Rồi ông xuống ca-nô qua quận. Bà Hai ở nhà đợi em. Càng lúc càng trưa, rồi
đứng bóng, rồi xế bóng. Chừng đó mới thấy một chiếc xuồng nhỏ, với tiếng giầm
khua nước lách chách, đâm đầu vào chân cầu thủy tạ trước nhà, ông Ba lò dò bước
lên. Bà Hai và cô Tư chạy ra bươn bả: “Ủa! Sao vậy cậu Ba? Còn ca-nô đâu?” Ông
Ba lắc đầu: “Tụi nó kiểm kê luôn rồi!” Bà Hai thở hắt ra: “Còn thằng Út!” Ông
Ba cười như mếu: “Nhờ nó có công nuôi cách mạng nên mấy đồng chí đó giữ nó lại
làm trong tổ kế hoạch, làm tổ viên thôi nhưng cũng có lương.” Bà Hai phun cốt
trầu nghe cái phẹt: “Hứ! Đồng chí với đồng rận! Lương với lậu!” Bà ngừng ở đó,
nhai miếng trầu trong miệng như nhai cái tức ở trong lòng. Một lúc, bà mới nói:
“Tao tưởng mầy đi theo tụi nó mấy chục năm để làm được cái giống gì, té ra mầy
cũng trớt quơ cũng bạch tuộc như mấy thằng cô hồn trôi sông lạc chợ chớ có hơn
gì đâu? Hỏi chớ mầy đi theo tụi nó chi lâu vậy?” Ông Ba đốt điếu thuốc rồi ngồi
bập liên miên, làm như khói thuốc có thể che cho ông đỡ ê mặt! Bà Hai xỉa cục
thuốc qua lại, ấn mạnh vô răng như muốn kỳ cọ cho cái ‘lớp tức’ nó bong ra! Một
lúc sau, bà nói với cô Tư, giọng thật trầm tĩnh: “Tư! Mầy đẩy xuồng trong xẽo
ra đưa cậu Ba qua sông, đi!” Cô Tư nhìn bà, ngạc nhiên. Nhưng người ngạc nhiên
nhứt là ông Ba. Ông nuốt nước miếng rồi mới nói được: “Bộ chị đuổi em hả chị
Hai?” Bà Hai tằng hắng: “Tôi đâu có đuổi! Ai mà dám đuổi cách mạng! Tôi… mời cậu
ra khỏi nhà, chớ ở lại đây, thiên hạ cười tôi thúi mặt sao cậu?” Ngần ngừ một
chút như định nói gì, nhưng rồi ông Ba lẳng lặng xách ba-lô cuối đầu đi thẳng
ra bờ rạch, bước xuống xuồng mà nghe như trời đất ngã nghiêng chao đảo….
Thằng em đi rồi, bà Hai như người mất hồn. Tối ngày làm
thinh, ngồi bó gối trên bộ ván nhỏ kê ngoài hàng hiên, vừa ăn trầu liên miên vừa
nhìn đăm đăm ra phía rạch như đợi như chờ cái gì. Thấy kỳ, cô Tư hỏi: “Bộ đợi
ai sao dì Hai?” Một lúc, bà mới trả lời: “Tao đợi thằng Trực! Nó nói nó đi năm
ba bữa gì đó là về. Vậy mà đã hơn con trăng rồi sao hổng thấy bóng dáng gì hết”
Rồi bà lầm bầm: “Thằng! Đi mất biệt!” Cô Tư nói: “Con nghe nói…” Rồi ngừng
ngang. Cô định nói là cô có nghe nói sĩ quan chế độ cũ đều bị đi cải tạo, chắc
giống như đi ở tù… nhưng cô sợ dì Hai hết hồn nên cô bỏ lửng câu nói. Trong
nhà, ngoài cô Tư ra, ông Út Lượm – lúc nầy lâu lâu chèo xuồng qua thăm chị Hai
– cũng biết vụ ‘cải tạo’ nhưng ông không dám nói cho bà chị biết. Vì vậy, bà
Hai cứ ngày ngày ngồi đợi thằng con. Và trách: “Thằng đi mất biệt!”
Mới đầu, bà còn ngồi chờ trên bộ ván hàng hiên. Thời gian
sau, khi trời nắng ráo, bà hay đi tuốt ra ngoài vàm rạch lên ngồi trên mô đất để
có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, ‘ khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy
nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông mình cũng nhìn ra được nó liền hà!’.
Vậy rồi ngày ngày bà ra ngồi trên mô đất, như một pho tượng. Thiên hạ trong
làng đi ghe đi xuồng ngang qua, có hỏi thì bà trả lời, lúc nào cũng chỉ có một
câu: “Ợ… Tao đợi thằng đi mất biệt!” Không ai ngừng lại để hỏi tiếp coi ‘Thằng
đi mất biệt’ là ai? Riết rồi thành quen nên lâu lâu nghe có người chèo ngang
qua hỏi cho lấy có: “Đợi thằng đi mất biệt hả bà Hai?” Rồi đi tuốt…. Cái mô đất
bà ngồi, bây giờ láng cón. Cỏ dại chỉ mọc cao ở dưới chân, bao quanh giống như
một hàng rào. Người mẹ đợi con đó ngã bịnh rồi chết, hai năm sau. Bà nhắm mắt
mà trong lòng chắc vẫn trách thằng con sao đi mất biệt. Lúc hấp hối, bà Hai còn
rán thều thào: “ Bây chôn tao ở đầu vàm cho tao thấy thằng Trực trở về….”
* * *
‘Thằng đi mất biệt’ được thả về sáu năm sau, nhờ học tập tốt.
Đi đón Trực ở bến xe đò quận Gò Keo là ông Ba và ông Út. Ông Út, vì rầu sự nghiệp
nên già khú, vẫn là công nhân nhà máy cao su. Ông Ba về thọ tang bà Hai rồi ở lại
luôn Bình Quới để giữ ‘đất đai ông bà’ kẻo ‘mấy thằng ác ôn nó quen thói côn đồ
đớp hết của người ta’, ổng nói như vậy! Bây giờ, ông Ba hay cười gằn, cầm cây rựa
quơ quơ: “Tụi nó có muốn vô nhà nầy phải bước qua xác của tao, nè!”
Hai ông đưa Trực ra đầu vàm thăm mả bà Hai nằm cách mô đất
không xa. Sau khi thắp nhang vái lạy, ông Ba kể cho Trực nghe chuyện bà Hai
ngày ngày ra ngồi trên mô đất để trông ‘ thằng đi mất biệt ’. Trực ngồi thụp xuống,
úp mặt vào hai tay khóc ngất. Ông Ba chấp tay nói như nói trước mặt người chị:
“Chị Hai ơi! Thằng đi mất biệt của chị, nó về rồi nè!” Bỗng, mặt ông nhăn nhúm
lại, giọng ông cao lên: “Mà… thằng Trực đâu phải là thằng đi mất biệt đâu, chị
Hai!” Rồi ông nấc lên, vứa đấm vào ngực vừa la lớn: “Em mới là thằng đi mất biệt
đây, chị Hai à!” Ông quì xuống ôm lấy mộ bia, gục đầu lên đó, nức nở. Cái đầu
tóc trắng lắc qua lắc lại, nói lên tâm tư của một người không tìm ra đáp số cho
bài toán khó.
Ông Út khom xuống, đặt tay lên vai anh bóp nhẹ: “Anh Ba à!
Anh nói được như vậy là anh đã thấy con đường về rồi đó, anh Ba!”
1/2008
Tiểu Tử