5
Nguyên dựng chiếc Honda trước nhà sách Ưng Hạ, rồi đứng nhìn
về phía cầu Trường Tiền. Chàng bồn chồn nghĩ đến việc Thảo hẹn gặp ở đây lúc
nàng đi học. Nhìn nét mặt Thảo có vẻ hốt hoảng, chàng linh cảm có điều gì bất
thường.
- Anh nghĩ chi mà em đến sát bên cũng không biết?
- Ô! Anh nhìn một hướng, em tới một hướng, làm sao thấy –
Nguyên quay lại đáp, rồi hỏi: Bây giờ em muốn đi đâu?
- Anh cho em tới chỗ mô xa xa.
Nguyên nghĩ một lát, rồi đạp máy cho xe đi về hướng Kim Long. Trên đường đi, mỗi
lúc tới chỗ vắng Thảo lại áp mặt vào lưng Nguyên, và cứ thế cho tới khi xe dừng
lại gần chùa Thiên Mụ. Nguyên dẫn Thảo lên một quán nước gần chùa và chọn chiếc
bàn ở ngoài hiên quay ra sông. Quán vắng. Cô chủ quán niềm nở bước tới.
Nguyên nói:
- Ở đây có bánh bèo và các thứ chè.
- Em không ăn, cho em cái chi uống.
Nguyên nói với chủ quán:
- Cô cho tôi 2 chai cam Bireley và một bao thuốc Capstan.
Khi cô quán đi vào nhà, Thảo nhìn Nguyên:
- Anh ra Lăng Cô tới hôm nay là 28 ngày. Công việc ngoài nớ
ra răng?
- Đại đội chỉ có nhiệm vụ giữ cầu, nên cũng thảnh thơi.
- Vậy anh về được mấy ngày?
- Anh về Tiểu Khu họp. Trưa mai phải đi.
Nén tiếng thở dài, rồi chợt nhớ một điều, nàng hỏi:
- Anh đi Quảng Ngãi à?
Nguyên ngớ ra:
- Sao tự nhiên lại có chuyện Quảng Ngãi ở đây?
- Thế răng trong số quà anh đem về, ngoài giỏ cua, còn mấy
gói kẹo gương, mấy ký đường phèn, đường phổi Quảng Ngãi.
Nguyên cười:
- À, anh không nghĩ ra. Đó là quà của một ông trung sĩ người
Quảng Ngãi đi phép đem ra cho.
Nhìn cô quán đặt 2 chai nước cam ra bàn, rồi thấy cảnh quán vắng hiu hắt trước
màu xanh của sông núi chạy dài vào chân trời, Nguyên hỏi:
- Quán này đã được bao nhiêu năm rồi cô?
Cô quán đáp:
- Tôi không nhớ rõ, nhưng độ chừng cũng tới 15, 16 năm.
Nguyên nói:
- Thời gian thật dài mà quán không mấy thay đổi, 10 năm trước,
ra Huế lần đầu, tôi đã tới đây.
Cô quán nhìn Nguyên:
- Thế lần ni chắc anh ở lại Huế luôn?
Nguyên cười:
- Cũng đang cầu như thế, cô ạ.
Nghe chàng nói, cô quán nhìn Thảo chúm chím cười, vừa bước đi vừa nói:
- Nhờ chiến tranh mà Huế có nhiều rể bốn phương, chớ ngày
trước không có mô.
Nguyên cười, rót ly nước cam cho Thảo, rồi hỏi:
- Hình như Thảo đang có chuyện gì bất an?
Thảo không trả lời thẳng mà hỏi lại:
- Mấy tháng ở nhà, anh có gặp anh sinh viên thường đến nhà
em không?
Nguyên gật đầu:
- Có gặp vài lần.
- Chuyện của em bây chừ là ở anh đó – Nàng ngừng lại một lúc
như để sắp xếp câu chuyện, rồi tiếp: Ba anh Châu, tên anh ấy là Châu, là bạn
thân của ba em, nên hai gia đình rất thân nhau. Khi em với Châu còn nhỏ thì gia
đình thường đùa ghép đôi, rồi khi lớn lên thì thành một thứ ước hẹn. Tuần trước
gia đình anh Châu nói với mạ em là Châu còn niên khóa ni thì xong sư phạm, nên
họ xin làm lễ hỏi và sang năm sẽ xin cưới.
Nguyên hỏi:
- Đó là chuyện của gia đình, còn em với Châu có giao ước gì
không?
Thảo lắc đầu:
- Em với Châu chưa có giao ước gì.
Nguyên ngạc nhiên:
- Không giao ước, tại sao gia đình lại nói chuyện đi hỏi?
- Chuyện như rứa là lỗi tại em không biết dứt khoát với chuyện
tình cảm. Vì cách đây mấy tháng, trước khi anh tới, Châu viết cho em một lá thư
tỏ tình và ngỏ ý là sẽ bảo gia đình đi hỏi. Lúc đó em không biết trả lời ra
răng. Tra vấn lại, em biết mình không yêu Châu, nhưng thấy Châu đã theo mình mấy
năm, học hành cần mẫn, tính tình hòa nhã, nên nếu phải lấy chồng thì anh ấy
cũng là một mẫu người đáng quí. Phân vân giữa cái sợ bị ràng buộc khi biết mình
không yêu mà cũng không muốn từ chối để cắt đứt một mối liên hệ thân tình, nên
em đã kéo dài thời gian bằng cách viết thư không nhận lời, không hứa hẹn mà
cũng không từ chối. Em khuyên anh ấy để tâm học cho xong và nói là cả hai còn
nhiều thời gian để tìm hiểu và nói với nhau về chuyện ni.
Thảo ngừng lại một lúc, rồi giọng trầm xuống:
- Em cần thời gian chẳng phải để tìm hiểu thêm hay hy vọng
tình thân sẽ biến thành tình yêu, vì thời gian như thế là đã quá đủ, nhưng em
mua thời gian để có một khoảng rộng ở ngoài sự ràng buộc. Em mơ hồ thấy mình cần
thời gian để chờ đợi một cái chi đó. Nghĩ và làm như rứa, chừ em mới thấy là lỗi
lầm.
Nguyên hỏi:
- Thế hai người không đi chơi với nhau bao giờ sao?
- Dạ có, thỉnh thoảng đi cine’ khi có phim hay, nhưng lần
nào cũng đi với Chi và Trung.
- Giả dụ, Châu mời riêng em thì em sẽ tính thế nào?
Thảo trầm ngâm một lát, rồi đáp:
- Châu mời cả ba hay một mình em thì cũng là chuyện bình thường,
vì hai gia đình rất thân nhau. Nhưng Châu chưa từng làm như rứa, nên em cũng
chưa bao giờ nghĩ đến việc đó. Mạ em thì thường khen là tính tình Châu đạo mạo
giống ba anh ấy. Em chẳng biết đó là đạo mạo hay quá nhu mì nhút nhát, thiếu chất
đàn ông.
Nguyên nhắc:
- Thế còn chuyện lễ hỏi?
- Đến chừ thì em biết việc không dứt khoát chuyện tình cảm
đã đưa em tới một lỗi lầm là em đã nuôi dưỡng niềm tin của Châu về thứ tình
không cần nói lời hứa hẹn. Chắc anh ấy coi tình thân của gia đình và bức thư viết
cho em như rứa là đủ, nên khi tính việc bảo gia đình đi hỏi, Châu cũng không
cho em biết trước. Mạ em rất vui khi thấy gia đình Châu lo việc sớm và coi đó
là chuyện tự nhiên giữa em và Châu - Thảo dừng lại nhìn Nguyên như cầu khẩn: Chuyện
đã như rứa, em không biết nói răng. Bây chừ anh bảo em làm răng?
Nguyên trầm ngâm một lát:
- Em uống nước đi đã.
Chàng châm điếu thuốc nhìn về phía núi. Mặt trời phản chiếu
làm rực sáng khúc sông rộng. Từng lớp núi phía tây bắc như những giải mây ánh
lên màu tím. Nghe Thảo nói về Châu và qua ánh mắt buồn ẩn nét thơ dại trong
cánh áo dài trắng, Nguyên hình dung đến một gia đình nề nếp, đầm ấm với tiếng
đàn vọng ra vườn dưới ánh đèn buổi tối. Phải nói gì với Thảo khi nàng cần có một
cuộc đời yên ấm mà đời Nguyên thì quá xa cách với nó. Vì thế nghe Thảo hỏi,
chàng nghĩ tới giờ phút chia ly.
- Anh Nguyên - Thảo gọi.
Nguyên dập tắt mẩu thuốc ném vào gốc cây, nhìn Thảo:
- Việc đã tới như thế thì em phải lựa chọn. Một bên là cuộc
đời phẳng lặng yên ấm, còn một bên là là chông gai, bão tố. Bão tố ở đây anh muốn
nói đến cả tương lai của em lẫn đối với gia đình, vì chắc chắn mạ sẽ không bao
giờ bằng lòng cho em lấy một trên lính tương lai vô định, tứ cố vô thân, cầu bơ
cầu bất như anh - Nỗi xúc động chợt dâng lên làm Nguyên nghẹn lời, chàng cúi xuống
một lúc, dấu cơn cảm xúc: Nếu em chọn con đường yên ấm phẳng lặng thì chẳng có
gì để nói nữa, và từ nay chuyện của chúng ta...
Nguyên chợt ngừng lại khi thấy những dòng nước mắt chảy dài xuống má Thảo.
Chàng lấy chiếc khăn tay đưa cho Thảo:
- Anh xin lỗi đã phải nói như thế, nhưng em hỏi nên phải nói
cho cùng.
Thảo lau nước mắt, rồi lắc đầu:
- Em không chọn như rứa, bão tố chi cũng được. Chừ bảo em
làm răng?
Nghe Thảo nói, Nguyên chợt nhớ lời nàng bên bờ sông Vĩ Dạ: Nếu
anh Nguyên dám thì Thảo cũng liều. Bây giờ chàng hiểu sự chờ đợi đã có tiếng
đáp lại – Em cần thời gian để chờ đợi một cái chi đó. Sự chờ đợi vô vọng mênh
mông mà nàng đã gặp đấy ư? Nguyên nhìn ánh mắt chờ đợi của Thảo và cố nén cơn
xúc động lại dâng lên:
- Nếu em chọn con đường chông gai thì phải có nhiều can đảm
và tự chủ để dứt ra khỏi mối ràng buộc đã quá lâu giữa hai gia đình cùng của em
và Châu. Có hai việc Thảo cần làm ngay: Thứ nhất là thưa với mạ em cần học xong
cả tú tài lẫn sư phạm như em đã nói với anh, nên chưa nghĩ đến chuyện hôn nhân
và em cũng không muốn tình trạng bị đặt cọc trong một thời gian quá dài. Thứ
nhì là nói hoặc viết thư bảo Châu hoãn lễ hỏi, vì em cần có thời gian để suy
nghĩ kỹ hơn.
Nguyên ngừng lại một lát, rồi giải thích:
- Cách này mạ sẽ dễ nói với cha mẹ Châu mà Châu cũng không bị
sốc nặng. Cự tuyệt ngay sẽ rất mệt cho em và cho cả mọi người. Cần qua được
chuyện này, rồi sau sẽ tính tiếp.
- Cám ơn anh. Em bị bấn loạn, không biết làm răng.
Nguyên chợt mủi lòng trước ánh mắt vui của Thảo, vì biết rằng điều mình nói
cũng chỉ để níu kéo thời gian và nghĩ đến việc phải chống chọi mà Thảo khó có
thể vượt qua đối với hoàn cảnh của nàng, rồi bỗng buột miệng: Thế em không sợ
chiến tranh à?
Thảo nhìn Nguyên thản nhiên:
- Em sợ, nhưng em chọn.
Câu trả lời như một nhát dao chặt đứt mối sợ hãi đang đè nặng
và chàng mỉm cười trước sự sai lầm của mình khi nhìn cánh áo học trò với ánh mắt
đen trong, đượm nét hồn nhiên của Thảo.
Mấy cơn gió từ ngoài sông thổi vào lật tung mái tóc phủ kín
vai. Thảo đẩy mái tóc ra phía sau, nhìn Nguyên như muốn nói nhưng lại ngập ngừng
cầm ly nước đưa lên môi... Thấy thế Nguyên hỏi:
- Em định nói gì lại thôi?
- Đã từ lâu em muốn hỏi anh một điều.
Nguyên cười:
- Muốn hỏi gì thì hỏi, chớ làm chi mà có vẻ nghiêm trọng như
vậy?
- Hình như anh có một nỗi buồn chi nặng lắm.
Nguyên hỏi:
- Bằng cớ nào mà em đoán như thế?
- Bằng cớ trên mặt anh. Vì những lúc anh ngồi ở hiên nhà từ
chiều tới tối, khi mô nhìn mặt anh, em đều thấy nét buồn đó. Anh chỉ vui khi
nói chuyện còn ngồi một mình thì buồn.
Nguyên ngạc nhiên về điều nhận xét của Thảo, trầm ngâm một lúc:
- Anh không có gì vui mà cũng không có nỗi buồn gì như em tưởng.
Anh hay ngồi một mình lặng yên như thế là do mồ côi cha mẹ và quen sống cô độc
từ nhỏ đến giờ. Bao nhiêu năm ở Sài Gòn, anh sống một mình một gác xép hay một
gian nhà ở ngoại ô, còn bây giờ thì một chiếc võng trong một cái hầm ở căn cứ
hay một chiếc võng ở giữa một làng hoang. Trước đây mỗi lần về Huế, anh thấy lạc
lõng giữa phố phường. Đời sống như thế thì phải hằn lên những nét buồn chớ làm
sao có nét vui.
- Rứa anh không có họ hàng thân thích ở Sài Gòn?
- Anh di cư với gia đình ông chú. Năm 1955, ông chú chết
trong trận đánh nhau với Bình Xuyên ở Sài Gòn. Sau đó, bà thím đi lấy người
khác. Thế là hết họ hàng thân thích.
Thảo nắm chặt tay Nguyên:
- Từ nay có em.
Nguyên cười:
- Thì cứ cầu với thần sông Hương cho anh ở lại Huế.
- Khi mô cũng trêu em - Thảo xúi xuống nói nhỏ.
Thấy ánh nắng đã gần tắt ở rặng núi cao, Nguyên nói:
- Mình về thôi Thảo, chiều rồi.
Thảo ngước nhìn lên:
- Chừ anh cho em tới chợ Đông Ba. Em đi chợ. Hôm nay anh về
nhà ăn cơm.
Nguyên nhìn Thảo định nói, nhưng nàng cười:
- Không phải chỉ có một mình em mời. Buổi trưa mạ bảo em xuống
nói với anh mà em quên.
Nguyên hỏi:
- Thế hôm nay cô chủ định làm món gì đãi khách?
Thảo nhìn Nguyên, nét tinh nghịch đã trở lại:
- Em làm món miến sào cua Lăng Cô.
Nguyên bật cười, đứng dậy vào quán trả tiền.
Khi tới những bậc đá xuống đường, Nguyên đứng lại chỉ về
phía núi:
- Em coi dòng sông và những lớp núi xanh tím kia. Quán này ở
một vị trí nhìn được toàn cảnh sông Hương và núi non phía tây bắc. Hôm em bất
chợt hỏi anh thấy gì là thơ mộng ở Huế, anh đã nhớ đến cảnh sắc này.
Tà áo dài lụa trắng bay lên theo gió sông, cuốn vào chân
Nguyên. Thảo giơ tay giữ vạt áo, nhìn về hướng núi một lúc, rồi mỉm cười gật đầu.
6
Nguyên ngồi một mình trong quán gần suốt buổi chiều với ly
cà phê đen và bao thuốc. Mưa đang phủ trắng rặng núi Hải Vân và Lăng Cô thành
giải đất hoang vu, mờ ảo trong những cơn mưa lạnh. Chàng lơ đãng nhìn chiếc xe
hàng ướt át, ì ạch dừng lại ở gần ngã ba đường đi vào chợ Lăng Cô. Hành khách
xuống xe, mấy người đầu là binh sĩ đi phép về, kế là mấy bà đi mua hàng với gồng
gánh. Người cuối cùng là một cô gái mặc áo mưa trắng mà vừa nhìn thấy, Nguyên sửng
sốt lao ra khỏi quán, chạy băng qua đường ôm chầm lấy cô gái:
- Thảo!
- Em đây.
Khi hai mặt dời nhau Thảo mỉm cười nhìn Nguyên trong làn mưa
bụi. Chàng lấy bàn tay vuốt những giọt nước trên má Thảo, rồi kéo nàng vào
quán.
Ngồi vào bàn, Thảo nói:
- Áo anh ướt hết rồi.
- Áo jacket dày, không sao.
Cô chủ quán ngạc nhiên thấy hai người ôm hôn nhau dưới mưa ở
giữa đường, một việc cô chưa từng gặp, nên bước tới tươi cười hỏi:
- Thiếu uý với cô dùng chi?
- Cô cho tôi hai ly cà phê sữa - rồi quay lại: Em uống được
cà phê chớ?
- Dạ được.
Nguyên khuấy cho sữa tan đều trong ly cà phê mới đem tới, đặt trước Thảo, rồi hỏi:
- Em đi Đà Nẵng?
- Dạ.
- Sao lại chọn những ngày gần Tết mưa gió này mà đi?
Thảo đáp:
- Anh Khuê bị bệnh nặng. Mạ định đi, nhưng em bảo trời mưa lạnh
để em đi.
Nguyên hỏi:
- Đêm qua một chiếc cầu bị giật sập ở Phú Lộc. Em phải đi bộ
bao xa để đón xe Lăng Cô?
- Khoảng hơn 3 cây số, vì qua cầu còn phải tránh một số mô nữa
- Thảo đáp, rồi cười: Phải đi vòng theo bờ ruộng trơn, em suýt té mấy lần.
- Cầu bị sập như thế, sao em không trở lại Huế?
Thảo nhìn Nguyên:
- Em cần ra với anh.
Thấy ánh mắt lạ của Thảo theo câu nói, Nguyên linh cảm niềm vui của nàng khi
nghe chàng đưa ra cách xử trí ở quán Kim Long đã tan biến, nên hỏi:
- Vậy chuyện anh bảo em làm, kết quả ra sao?
Thảo lắc đầu:
- Tình thế rắc rối hơn. Cả tháng nay em như sống trên lò lửa.
Nguyên không muốn nói chuyện này ở quán, nên chàng lảng:
- Trăm năm mới có một lần gặp ở góc vịnh heo hút này. Ở đây
có đủ thứ đồ biển.
Thảo nói:
- Em không muốn ăn chi. Cho em một tô cháo.
- Ăn cháo thôi ư - Chàng đặt tay lên vai Thảo: Đi đường mưa
gió cả ngày. Vậy để anh bảo nấu cháo cá.
Nguyên vào phía sau nói với chủ quán, lúc quay ra bảo Thảo:
- Em đi với anh vào trong xóm để rửa mặt, rồi sẽ trở lại đây
ăn cháo.
Trời đã tối và lạnh hơn dưới những làn mưa buị. Trên đèo Hải
Vân vẳng xuống tiếng đại liên với ánh hỏa châu leo lét ở căn cứ hạ. Nguyên nắm
chặt bàn tay ấm của Thảo đi qua đường. Hai người cúi đầu tránh những hạt mưa tạt
vào mặt, đi ngược gió về phía xóm chợ.
**
Nguyên dẫn Thảo vào chiếc lô cốt đúc bằng bê tông ở gần đầu
cầu. Chàng bật diêm, đốt chiếc đèn bát và thấy ánh mắt Thảo lộ vẻ ngơ ngác.
Nguyên vỗ khẽ vào vai nàng:
- Em không quen cảnh sống lính tráng này đâu.
Thảo lắc đầu:
- Không phải không quen, nhưng em thấy anh tội quá.
- Trong chiến tranh mà được ở đây là nhất rồi. Khi đi lưu động
thì phải nằm đất, nằm võng dưới mưa hàng tuần, hàng tháng với thứ mưa miền
Trung, mưa Huế - Nguyên cười rồi nói: Em nằm nghỉ cho đỡ mệt, anh phải đi lo một
ít việc.
Khi Nguyên trở vào lô cốt, Thảo đang ngồi trên giường vải, tay mân mê cuốn
“Quiet Flows the Don” và đang nghe Hà Thanh hát bản “Mấy Dặm Sơn Khê” từ chiếc
radio nhỏ để ở bàn: “Anh như ngàn gió ham ngược xôi, theo đường mây.
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương...”. Nguyên mỉm cười thấy nàng mở máy lại
đúng lúc có bản nhạc lãng mạn của thời chinh chiến.
Nghe hết bài hát, thảo tắt máy, rồi chỉ vào hộp mứt thẫp cẩm và gói trà sen
trên bàn:
- Em đem cho anh ít quà tết để trả nợ giỏ cua Lăng Cô.
Nguyên cười, đặt tay lên vai Thảo:
- Phải chi được trả bằng thanh âm.
Thảo nói:
- Em đang tập một số bản mới, ngày mô anh về em trả nợ... Có
cả bản anh thường hát, gọi là Hà Nhật... chi đó, tên tiếng Anh là “When will
you be back?”
- À, đó là bản “Hà Nhật Quân Tái Lai”. Khoảng năm 1952-53,
có nhiều dịp đi tàu đêm từ Quảng Yên ra Hòn Gai và đảo Cát Bà, anh thường nghe
người Tàu đứng trên boong tàu hát hay huýt gió bài đó, nên nhập tâm trở thành
bài hát ruột của mình. Sau này vào Nam anh cũng nghe nhưng ít hơn – Chàng ngừng
lại, vỗ nhẹ vào má Thảo hỏi: Mà sao em tìm ra bản đó?
- Biết mô mà tìm - Thảo đáp, rồi mỉm cười: Nhưng ngẫu
nhiên... gặp trong tuyển tập nhạc Romance Piano của Đài Loan.
Nguyên buột miệng:
- Vậy thì cũng ngẫu nhiên như chủ nhà gặp..., rồi chợt ngừng
lại, nhìn Thảo cười.
- Răng anh không nói hết?
- Không nói nữa. Nói hết có người lại phụng phịu bảo khi mô
cũng trêu.
Thảo cười:
- Nói đi..., em không nói như rứa nữa mô.
Nguyên lắc đầu:
- Thôi, chờ khi nào trả xong món nợ thanh âm sẽ hay.
- Hết trêu lại làm khó - Thảo vừa nói vừa kéo tay Nguyên áp
vào môi một lúc, rồi cầm cuốn sách để lại bàn:
- Đọc mấy câu giới thiệu trên bìa, em biết cuốn truyện ni được
giải thưởng Nobel năm 1965. Thế nội dung tác phẩm viết về cái chi anh?
Nguyên nói:
- Đây là bộ truyện lớn nhất của Mikhail Sholokhok, nhà văn
Nga Sô, nội dung viết về cuộc nội chiến ở Liên Sô giữa lực lượng Cộng Sản và
không Cộng Sản. Ông ca ngợi Cộng Sản, nhưng cũng mô tả những sự thật trong cuộc
chiến tranh đó.
Thảo nói:
- Tuần trước mạ bảo em xuống mở cửa phòng anh cho thoáng. Em
thấy gia sản của anh toàn là loại sách pocket book, cả chục thùng.
Nguyên cười:
- Anh chẳng có gì ngoài mấy cuốn sách. Hơn một năm qua, anh
đã đi thu thập ở khu chợ trời Đông Ba, sách từ mấy căn cứ Mỹ thải ra, thượng
vàng hạ cám, bìa dính đầy bơ và dầu. Nhưng nhờ đó mà anh kiếm được nhiều sách
hay. Gần một phần ba số sách đó là sách của thế giới Cộng Sản: Liên Sô, Đông
Âu, Trung Cộng và cả Bắc Việt.
Thảo nói:
- Em thấy trong mấy thùng, sách còn ẩm, nên đã xếp hết ra
ngoài.
- Cám ơn em đã để ý giúp anh việc đó – Nguyên nói rồi nhìn
Thảo: Thôi bỏ qua chuyện sách vở. Bây giờ trở lại chuyện của em.
Nghe Nguyên nói, Thảo lặng đi một lúc, rồi nhìn chàng:
- Sau khi em nói với mạ và viết thư như anh chỉ thì em biết
thực sự anh Châu không chủ động việc ni mà là gia đình anh ấy. Vì ba anh Châu
đang bệnh và đã quá yếu, nên gia đình tính việc hỏi rồi sẽ làm đám cưới sớm.
- Thế còn mạ?
Thảo nói:
- Việc em không bằng lòng lễ hỏi đã làm bấn loạn cả gia
đình. Mạ nói là gia đình Châu đã coi em là con dâu từ mấy năm nay, thành ra
không biết làm răng. Gần cả tháng họ hàng nhà em, ông chú, bà thím, ông cậu, bà
cô đã như đổ thêm dầu vô lửa. Họ bảo em là mấy năm nay tại răng không nói với
Châu, tới chừ lại tự nhiên dở chứng - Thảo ngừng lại một lúc để thở: Các ông bà
ấy nói là thời buổi chiến tranh, gặp được một gia đình nề nếp, gặp được Châu học
hành, ngoan ngoãn như rứa là phúc mấy đời, còn kén chọn chi nữa - Tới đây Thảo
nghẹn lời, nàng cúi xuống, rồi nói như khóc: Cả tháng ni, lúc nào nhà cũng như
có đám tang, mạ khóc lóc còn các em thì rầu rĩ.
- Thế bây giờ em định thế nào?
Thảo nói:
- Gia đình Châu định tháng giêng sẽ làm lễ hỏi và sau đó mấy
tháng sẽ cưới. Còn mạ thì năn nỉ em nhận lời. Mạ nói là để gia đình không thất
hứa và không có lỗi với ba – Nàng ngừng lại một lúc nhìn Nguyên chăm chăm: Em định
cho mạ biết chuyện, nhưng em sợ mạ sẽ ngăn cấm em và không cho anh ở nhà nữa.
Vì thế, em đã tìm cách ra đây với anh, rồi về sẽ cho mạ biết để chấm dứt mọi
chuyện ép buộc.
Nghe Thảo nói, Nguyên bàng hoàng, tay run lên và chàng phải
chống bàn tay lên đùi. Hai người nhìn nhau một lúc lâu, rồi Nguyên nói:
- Gia đình đúng ở lý, còn em đúng ở tình. Gia đình không thể
hiểu được thứ tình này. Em có thể quyết định đời mình theo tình, nhưng đừng bắt
bà cụ phải chịu một vết thương quá lớn. Anh cũng không muốn vì giữ tình mà em
phải chịu sự hy sinh quá nặng nề giữa đời sống có nhiều tương giao và dư luận.
Em còn là học sinh, Thảo ạ.
Nguyên với tay rót ly nước, uống một hơi, rồi rót ly khác đẩy về phía Thảo:
- Trước đây điều anh bảo em chỉ là để mua thời gian đối với
một hoàn cảnh bình thường. Bây giờ đã tới chân tường mà em đã quyết định như thế
thì làm cách khác. Châu quá khó nói trong chuyện này và không thể quyết định được.
Vì thế em phải viết thư cho gia đình Châu thưa là bao lâu nay em chỉ coi Châu
như một người anh. Em không yêu Châu, nên không thể tiến tới hôn nhân. Em cám
ơn cha mẹ Châu đã yêu thương tin cậy em, nhưng xin tạ lỗi, vì em phải sống theo
tình cảm của mình. Còn với mạ, em cho bà biết việc viết thư tạ lỗi cha mẹ Châu
và cho bà biết chuyện của chúng ta. Đây là cách dứt khoát kết thúc mọi mối ràng
buộc, sẽ có nhiều buồn giận, nhưng không tạo ra những vết thương – Chàng ngừng
lại một lát, rồi tiếp: Việc em ra đây, nói hay không thì gia đình cũng sẽ biết.
Vì thế khi về, em nói với mạ là cầu sập, em đã tìm cách ra Lăng Cô, hy vọng có
xe đi Đà Nẵng. Nhưng mãi tới gần tối mới tới Lăng Cô, nên em đã phải ở lại chỗ
anh.
Nguyên bước tới ôm đầu Thảo, vuốt theo mái tóc phủ đầy lưng. Chàng nâng mặt Thảo
lên, vuốt vào hai má xuống đến cằm, rồi tát khẽ vào một bên má:
- Liều lĩnh! Tinh nghịch thì được, chớ không được liều lĩnh,
nghe không cô.
Thảo choàng tay ôm Nguyên và dụi mặt vào ngực chàng. Mái tóc dài đen nhánh phủ
hết hai bờ vai Thảo và xõa trên ngực Nguyên. Chàng nghe tiếng sóng và gió ào ào
ở dưới vịnh, tiếng binh sĩ đổi gác ở đầu cầu và tiếng đại liên nổ rền trên đèo
Phú Gia. Nguyên đặt Thảo nằm xuống giường, rũ chiếc mền nylon rằn ri của binh
sĩ Mỹ đắp cho nàng. Nhìn hai môi Thảo đỏ mọng trên khuôn cổ cao, mịn như trái
nho, chàng bỗng nổi gai ốc. Nguyên tránh đôi môi, vì biết rằng nếu chạm vào đó
sẽ bị cuốn trôi, nên đã đặt môi mình vào trán Thảo một lúc, rồi nói trong ánh mắt
lung linh của nàng:
- Ngủ đi nhé, khuya rồi.
Chàng đứng dậy buông mùng, vặn nhỏ đèn, với tay lấy chiếc võng nylon, rồi đi
ra.
Bước vào hầm truyền tin, Nguyên hỏi người lính đang nằm trên
võng:
- Đây còn chỗ treo võng không cậu?
Người lính truyền tin ngồi dậy nói:
- Thiếu úy nằm võng của ông Song cũng được. Võng có sẵn
mùng. Ông ấy đi phép chưa về.
- Vậy thì tốt – Chàng vừa nói vừa bước tới góc hầm thì một
tiếng nổ trên đường làm rung chuyển hầm truyền tin, liền đó là tiếng nổ ở phía
cầu.
- Pháo kích thiếu úy – Âm thoại viên nói nhanh – Non nước
nghe Một trả lời...
- Thiếu úy, Một bảo nó đặt cối ở khoảng đầu khúc quành đường
rầy.
Thấy súng cối của mình đã phản pháo, Nguyên bước ra ngoài nói lớn:
- Bắn vào một điểm C thôi, ông Linh.
Quay vào, Nguyên bảo truyền tin:
- Gọi Nhật Tảo.
- Nhật Tảo, Nhật Tảo, Non Nước gọi trả lời...
Âm thoại viên đưa ống liên hợp cho Nguyên:
- Nhật Tảo, cho tôi gặp thẩm quyền.
- Nhật Tảo, Non Nước gọi... Chào đại bàng. Nó đang pháo tôi
bằng 82. Xin đại bàng cho chụp ít trái lên điểm số 3...
Nguyên trả ống liên hợp và bảo truyền tin:
- Nói với Một chú ý chân cầu gần bờ, rồi đem máy ra ngoài.
Nguyên chụp chiếc nón sắt lên đầu, bước ra khỏi hầm trong tiếng
đạn nổ trên đường cùng với những tia lửa vọt lên của đạn phản pháo. Đến bên cạnh
ụ súng cối 81, Nguyên nói:
- Ngừng đi ông Linh. Để pháo binh giải quyết.
Mấy người lính vũ khí nặng vừa bỏ trái đạn xuống thì những tia lửa dài như ánh
chớp cùng với tiếng nổ như xé không gian bùng lên ở phía triền núi.
- Nhật Tảo, Nhật Tảo... Hướng đó, gần lại 300...
Tiếng nổ thứ hai bùng lên gần hơn.
- Nhật Tảo, Nhật Tảo... 5 trên 5, cám ơn đại bàng.
Nhìn những tia lửa lóe sáng cùng với những tiếng nổ như sét đánh ở bờ vịnh bên
kia, Nguyên nhớ lại lần thoát chết khi mới ra trường được ít tháng ở căn cứ
Lương Mai. Đêm ấy, khi căn cứ bị địch tấn xông và tràn ngập, chàng đã nằm giả
chết giữa hai binh sĩ đã chết ở giao thông hào trong tiếng hô xung phong và ánh
lửa lựu đạn địch ném vào các hầm. Nhưng ngay lúc đó chàng nhào dậy lợi dụng
bóng tối theo chân địch ra khỏi căn cứ, vì nhớ lời ông đại đội trưởng nói một lần
là khi căn cứ thất thủ, mất liên lạc, pháo binh sẽ bắn đạn nổ chụp lên căn cứ để
tiêu diệt địch. Vừa thoát ra khỏi hàng rào khoảng hơn trăm mét thì pháo binh bắn
tới và Nguyên đã bò theo một bờ đất cao, cỏ rậm ra xa tầm đạn, nằm nhìn những
tia lửa bao phủ căn cứ.
Bên triền núi, những tia lửa đã tắt và âm vang của tiếng nổ như đang trải dài
vào sâu trong núi rồi mất hút. Trung sĩ Linh lên tiếng:
- Năm hết, tết đến rồi mà bắn phá khắp nơi. Chúng bắn mấy chục
trái, được mấy trái rơi trên đường, còn bao nhiêu xuống nước hết.
- Mục đích của nó là bắn để phá rối – Nguyên nói, rồi quay
sang truyền tin:
- Báo chi khu là mình vô sự, còn kết quả pháo binh để ngày
mai.
Vừa lúc đó thấy hai ông trung đội trưởng đi tới, Nguyên nói:
- Tôi đang định gọi thì các anh đã tới.
Chuẩn úy Ngô hỏi:
- Có việc chi thiếu úy?
- Sáng mai chúng ta đi lục soát khu vực bên kia xem có dấu vết
gì không. Hai anh cho con cái sẵn sàng trước 6 giờ, chờ tôi qua.
Nguyên đứng dậy:
- Chúng ta đi ngủ thôi, mai còn dậy sớm.
Nguyên vừa bước vào lô cốt thì Thảo ôm chầm lấy, hôn lên mặt, lên cổ, rồi gục mặt
vào ngực chàng. Chàng ôm đầu Thảo một lúc, rồi đặt nàng xuống ghế bố.
- Em sợ không?
Thảo lắc đầu và chỉ vào hai lỗ châu mai:
- Qua đây, em thấy đạn nổ gần cầu và đạn pháo binh ở sát núi.
Nguyên cười:
- Anh sợ em đang ngồi run, chớ như thế thì thành lính chiến
rồi.
Nhìn mái tóc Thảo xõa phủ một bên ngực trên lụa mỏng với ánh mắt đen lung linh
dưới đôi mày biếc cong, Nguyên bước đến lấy hai ngón tay đè lên hai mu mắt:
- Hai con mắt này! Thôi ngủ đi nhé, đôi mắt.
Nguyên bước ra khỏi lô cốt, đi dọc theo cầu. Mưa đã tạnh. Rặng
núi Hải Vân nổi lên như một trường thành lẩn vào mây đêm. Gió hú từng cơn qua cầu
và ở bãi biển bên kia vọng lại tiếng sóng ào ào bất tận. Chàng bước xuống một vọng
gác ở chân cầu, hỏi người lính gác:
- Cậu thấy đạn nổ bao xa?
- Dạ, cách cầu chừng mươi, hai mươi thước.
Nguyên trầm ngâm trước hàng chân cầu có vòng dây thép gai bao quanh. Ánh điện
soi sáng những con cá lớn bằng bàn tay bơi lượn lên sát mặt nước, rồi mất hút
theo những làn sóng xanh cuồn cuộn qua chân cầu. Nhìn người lính ôm súng ngồi
bên chân cầu dưới ánh điện, chàng nghĩ đến những chiếc cầu dài 5, 10 mét chìm
trong đêm tối trên những quận lộ gập ghềnh, nửa nhựa, nửa đất đá, chạy qua những
đồng ruộng, thôn làng, kênh rạch mà hai năm qua đại đội Nguyên đã phải trấn giữ
với nhiều tổn thất. Vì thế, khi đại đội được về giữ một cây cầu huyết mạch có
ánh sáng điện, lại ở một vị trí địch khó xâm nhập, nên Nguyên thấy yên lòng, thảnh
thơi với những thú vui như câu cá dưới chân cầu, đi bắt cua với lính khi nước
ròng, chạy ca nô trong vịnh để tìm luồng cá đối. Có lần chỉ hai trái lựu đạn
M26 quăng xuống chặn đầu luồng và cuối luồng mà lính đã vớt lên cả trăm con, mỗi
con nặng cả kí. Nhưng hơn nửa tháng nay thì tình thế đã thay đổi, vì mìn đã nổ
mấy lần trên đoạn đường từ Lăng Cô lên đèo Phú Gia và Phước Tượng. Hai trung đội
nghĩa quân của Lăng Cô đã không thể giữ yên cho cái xã ven biển này và đại đội
Nguyên đã phải biệt phái cho xã một trung đội để giữ an ninh phía đồi cát ven
quốc lộ. Cái vui được về nơi yên ổn đã hết. Rồi trong vài tháng nữa, đại đội sẽ
trở lại với những cây cầu chìm trong đêm tối với thôn làng đầy mìn bẫy... Nghĩ
đến Thảo, chàng sợ và thương sự liều lĩnh của nàng.
Tiếng đại liên lại nổ rền trên đèo Phú Gia. Nguyên nhìn theo
mấy trái hỏa châu vật vờ bay về hướng núi.
7
Nhìn những toán hành khách lũ lượt đi vào mấy quán nước và
những chiếc xe hàng đậu nối đuôi nhau chờ giờ xuống đèo, Nguyên nói:
- Huế, Đà nẵng chỉ cách nhau hơn trăm cây số, nhưng do đèo Hải
Vân mà phải đi mất một ngày.
Thảo cười:
- Đường đèo nhỏ quá. Em ngồi sát cửa xe, nhiều lúc rờn rợn
như xe đi ra ngoài khoảng không ở mấy khúc quành.
Nguyên hỏi:
- Trước đây em đi Đà Nẵng thường không?
Thảo lắc đầu:
- Không anh. Đây là lần thứ ba. Lần đầu đi với ba vô thăm
gia đình ông bác thời còn nhỏ. Năm tê, đi với mạ thăm anh Khuê, khi anh mới được
bổ làm việc ở Đà Nẵng một thời gian.
Nguyên xoay xoay ly cà phê, nhìn cánh áo dài màu vàng thẫm Thảo mặc nổi bật dưới
chiếc áo len đen. Từ ngày biết Thảo, hôm nay Nguyên mới thấy nàng mặc áo dài
màu. Vì thế, lúc nàng bước ra khỏi lô cốt, chàng có cảm tưởng Thảo là một bông
hoa nở rực giữa trời nắng nhẹ với màu xanh trùng trùng của biển và núi.
Thảo nói:
- Lần trước đi qua Lăng Cô, em chỉ vô quán ngồi đợi giờ xe
lên đèo, nên không thấy chi. Lần ni mới thấy được sự ngoạn mục. Khi bước ra khỏi
lô cốt, em ngợp trước màu xanh biếc của biển, núi và trời. Nhìn anh đứng tựa
thành cầu hút thuốc trong màu xanh đó, em thấy anh không có nét chi là nét của
một người lính tác chiến.
Nguyên bật cười:
- Thế lính tác chiến không được đứng tựa thành cầu?
- Không phải... Em không biết nói răng, nhưng có lẽ do kiểu
anh đứng hút thuốc.
Nguyên cười, rồi nói:
- Vịnh Lăng Cô ngoạn mục do núi cao bao quanh. Ở dưới nhìn
lên thì núi đụng mây. Ở trên đèo nhìn xuống thì mênh mông trời biển. Còn đèo Hải
Vân là một kỳ quan nên vua Lê Thánh Tông khi dừng quân ở đây đã ban cho danh hiệu
là Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan. Từ ngày ra đây, anh thường lên đèo uống cà phê,
nên có nhiều dịp thấy cảnh Lăng Cô thay đổi: Sáng xanh, trưa rực rỡ và chiều
tím.
Thảo hỏi:
- Anh đi một mình hay đi với mấy ông trong đại đội?
Nguyên cười:
- Một mình thôi. Các ông ấy ngại xa, chê trên đèo buồn.
Trong xóm chợ Lăng Cô có các cô vui hơn.
- Rứa anh lên đèo bằng chi?
- Có khi theo xe khách, có khi đi bằng Honda của mấy ông hậu
cứ. Đèo Hải Vân cũng đi theo đường vòng nhiều tầng gần nhau như đèo Ngoạn Mục ở
Đà Lạt, chỉ khác Ngoạn Mục là Hải Vân ở cạnh biển và ít hoa dại. Đèo Ngoạn Mục
nhìn xuống nhiều tầng thung lũng với những tầng đầy hoa trắng, hoa tím, nhưng đặc
biệt là loài hoa dã quì. Có những đoạn, rừng dã quì vàng rực cả một sườn đồi.
Thảo hỏi:
- Dã quì là hoa chi?
- Hoa quì màu vàng, còn gọi là huỳnh hoa có hai loại: dã quì
mọc bên núi rừng, hoa nhỏ và chỉ có một lớp cánh, còn hoa quì vườn do người trồng,
hoa lớn, có nhiều lớp. Hoa quì luôn hướng về phía mặt trời nên còn có tên là
hoa hướng dương. Ở Huế hình như không có. Anh đã đi nhiều nơi, nhưng chưa thấy
loại hoa này. Dã quì mọc thành rừng ở Đà Lạt hay những vùng cao nguyên từ Lâm
Viên xuống đến Lâm Đồng đã tô điểm cho những con đường, sườn đồi và thung lũng
với màu vàng như màu áo của em.
Nguyên ngừng lại nhìn Thảo mỉm cười:
- Khi nào có dịp vào Đà Lạt, em nhớ lấy một ít hạt hoa quì
đem về gieo trên đèo Hải Vân.
Thảo hỏi:
- Răng anh không làm mà lại bảo em?
Nguyên đáp:
- Em là người Thuận Hóa, phải nhớ lời chúa Nguyễn dặn con
làm đẹp miền đất dựng nghiệp trên đường Nam tiến, còn anh chỉ là người đi theo
thì kể chi.
Thảo cúi xuống, bưng mặt để giữ tiếng cười khiến hai vai
rung lên, một lát ngước lên:
- Anh nói em không biết đường mô. Răng là Thuận Hóa, răng là
đi theo mà biết ai theo ai?
- Anh theo em, nên đã bị cột ở dưới cái giếng Cồn Hến- Vĩ Dạ.
Thảo cúi xuống cười, Nguyên cười theo, rồi nói:
- Hoa quì có một đặc tính là hướng về mặt trời nên trở thành
biểu tượng của người thục nữ. Năm đệ tam, học Chinh Phụ Ngâm Khúc, anh còn nhớ
hai câu thơ Hán nói về biểu tượng của hoa quì:
Huỳnh hoa linh lạc vô nhân khán
Độc tự khuynh tâm hướng thái dương.
Rồi hỏi:
- Em cũng theo ban C, khi học Chinh Phụ Ngâm có biết hai câu
này không?
Thảo cười:
- Thơ Việt còn nhớ không đủ để làm luận, nói chi thơ Hán. Thế
nghĩa hai câu đó là răng?
Nguyên đáp:
- Nghĩa là: Hoa vàng rụng không người đoái hoài, nhưng chỉ một
lòng hướng về ánh mặt trời. Trong Chinh Phụ Ngâm diễn rõ ý này ở đoạn:
Hướng dương lòng thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
Hoa để vàng bởi tại bóng dương
Hoa vàng hoa rụng quanh tường
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.
Thảo gật đầu:
- Đoạn ni em nhớ.
Nguyên hỏi:
- Trong ba tác phẩm Chinh Phụ, Cung Oán và Kiều, Em thích cuốn
nào?
- Chinh Phụ Ngâm, anh ạ.
Nguyên cười:
- Tại sao?
- Em thích nhạc điệu của thơ và tình ý của văn. Tình ý trong
Chinh Phụ hợp với em hơn, chẳng hạn đoạn- Hướng dương lòng thiếp như hoa
– là nói về tâm trạng chờ đợi, nhưng điều làm tỏ lộ được của thời gian chờ đợi
mỏi mòn là sự giận hờn của người chinh phụ, vì nhớ thương đến chóng mặt, quay đầu
thì biến thành giận hờn.
Nàng ngừng lại một lát nhìn Nguyên với ánh mắt buồn, rồi tiếp:
- Ngoài văn tài và tình ý, nói chung em thích Chinh Phụ Ngâm
có lẽ nó gần với hoàn cảnh chiến tranh ngày nay. Vì tiếng than và nỗi đau của
người chinh phụ cũng là tiếng than và nỗi đau của biết bao phụ nữ quanh ta. Em
nghĩ rằng những người đang mang nặng nỗi đau này sẽ rất thấm thía với câu: Liễu
dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Thấy Thảo lấy tâm trạng của chinh phụ để vận vào mình,
Nguyên ân hận là đã vô tình đi từ chuyện vui của của hoa quì sang chuyện chinh
phụ trong khung cảnh đưa tiễn trên đỉnh đèo heo hút này, nên chàng nắm tay Thảo
một lúc, rồi hỏi:
- Hôm nào em về?
- Còn xem anh Khuê bệnh ra răng, nhưng lâu nhất cũng chỉ 2
hoặc 3 ngày.
Nguyên nói:
- Từ nay tới tết, anh không thể đi Huế được. Sau tết anh sẽ
về nói chuyện với mạ. Gia đình sẽ buồn em và giận anh. Nhưng buồn giận gì rồi
cũng sẽ qua. Em nhớ lời anh dặn và cứ thi xong vào sư phạm rồi mình sẽ tính –
Nhìn ra đường thấy hành khách lác đác trở lại xe, Nguyên đứng dậy, đi trả tiền,
rồi bảo Thảo: Em ra xe, không lát nữa đầy người khó lên.
Khi bước xuống thềm quán, Thảo nói:
- Anh ở lại đây, để em đi một mình.
Thấy mắt Thảo chơm chớp, Nguyên cầm tay nàng:
- Đừng khóc... Đi bình an, qua tết anh về.
Thảo cúi xuống một lúc, rồi nói:
- Em đi, anh.
Nàng cúi đầu bước ra đường và mấy giọt nước mắt lăn nhanh xuống hai má. Đường
đèo xế chiều không còn nắng như đi vào khoảng không theo những làn mây trắng đục
phủ kín sườn núi phía dốc xuống. Thảo dừng lại đưa khăn tay lên mặt và tà áo
dài theo gió vờn lên như một cánh bướm vàng bên vách núi xám, ùn ùn khí núi bốc
lên mù mịt dưới vực thẳm.
8
Nguyên đã đi gần khắp các gian phòng đầy người lánh nạn tại
trường trung học Kiểu Mẫu, nhưng không tìm thấy gia đình Thảo. Chàng đang ngơ
ngẩn đứng trước một cửa sổ ở dãy cuối thì thấy Thanh Chi ngồi ủ rũ bên cạnh bà
Phán và Trung đang nằm. Nguyên bước nhanh vào phòng, cùng lúc Thanh Chi cũng vừa
nhìn thấy chàng, mắt mở lớn đứng dậy.
- Thảo đâu?
Chi bật khóc:
- Chị Thảo chết rồi!
Nguyên nhìn sững, mắt hoa lên. Chàng tựa vào tường rồi ngồi
sụp trên nền nhà. Nguyên nhắm mắt lại và nghe tiếng khóc của bà Phán cùng những
tiếng ồn ào vây quanh. Một lúc sau chàng mở mắt, lê tới cầm tay bà Phán. Bà
đang cúi đầu nức nở trên chiếc chiếu rách, còn Trung ngồi yên nhìn Nguyên với
con mắt thất thần. Nguyên cúi xuống nhắm mắt lại một lúc nữa, rồi đứng dậy kéo
Thanh Chi và Trung ra ngoài.
Ngồi xuống bậc thềm, Nguyên hỏi:
- Việc xảy ra như thế nào, em?
Chi lấy vạt áo lau nước mắt, đáp:
- Nhà chạy theo người ta để thoát khu vực Việt Cộng chiếm, tới
Đập Đá thì chị Thảo bị trúng đạn, đưa được tới trường Kiểu Mẫu thì chết – Chi
ngừng một lúc, rồi nhìn Nguyên: Em ngồi vực chị, nghe chị gọi anh lúc chị nấc.
- Vậy mai táng chị ở đâu?
- Ở bờ sông, gần đây.
Nguyên ngồi lặng đi một lúc, rồi đứng dậy nói:
- Các em đưa anh ra chỗ chị.
Nguyên bước theo Chi và Trung, len qua những đám đông, đây
đó những giải khăn sô làm trắng sân trường. Chàng dừng lại mua một thẻ nhang để
trong chiếc rổ của cô bé bán nhang dạo và nhốt ruột trước cảnh mua nhang tấp nập
trên hè đường trước cổng trường.
Thanh Chi, nước mắt dàn dụa, chỉ vào một nấm đất lởm chởm những tảng đất mới lẫn
với cỏ. Nguyên đứng lặng nhìn nấm đất đã có những lá cỏ mới mọc màu vàng úa. Gần
một tháng, từ mồng 2 tết, qua đài VOA và BBC, Nguyên đã theo dõi từng ngày tình
hình chiến sự trong thời gian Cộng quân chiếm Huế. Sáng nay, trên đường về Huế,
Nguyên đã hình dung đến lúc gặp ánh mắt và nụ cười chờ đợi của Thảo. Bây giờ,
ánh mắt và nụ cười ấy đã biến mất dưới nấm đất cỏ úa kia... Nguyên bật diêm đốt
thẻ nhang, cắm lên một tảng đất, rồi ngồi bệt xuống bên cạnh. Chàng ngồi nhìn
khói nhang như thiếp đi, chợt tỉnh khi nghe tiếng Thanh Chi gọi:
- Anh Nguyên.
Nguyên đứng dậy nhìn Chi:
- Sáng nay trước khi tới trường anh đã về nhà. Nhà không bị hư
hại, nhưng đồ đạc thì ngổn ngang khắp nơi. Một vài ngày nữa hai em nên về thu dọn
lại nhà và bảo mạ về, càng sớm càng tốt. Anh thấy nhiều người cũng đã về -
Chàng cầm tay Chi và Trung, nhìn về phía Cồn Hến, miệng lẩm bẩm: Thảo... chỉ
còn các em... Nguyên định thần nhìn sự đổ nát bên kia sông, rồi lấy chiếc phong
bì trong áo jacket đưa cho Chi:
- Em đem về cho mạ. Bây giờ anh phải trở lại Lăng Cô. Anh
không vào trong đó nữa, vì thấy anh bà lại khóc – Chàng ngừng lại nhìn nấm mộ một
lát, rồi tiếp: Em nói với mạ là việc dời mộ để anh lo.
Nguyên nhìn những làn khói nhang bay vật vờ trên nấm đất,
bên cạnh giòng sông đục trôi nhanh, cúi đầu nói:
- Anh đi đây Thảo. Ít ngày nữa anh sẽ về đưa em tới một chỗ
khác.
*
Những tiếng khóc nhỏ dần rồi mất hút cùng với những
người đi đưa đám tản mác dưới chân triền dốc, để lại ngôi mộ chơ vơ cùng những
dấu chân trên đất ướt. Nguyên đứng lặng nhìn bầu trời sũng nước, lác đác những
hạt mưa với những đám mây bay thấp trên đồi, rồi ngồi xuống một tảng đá trước mộ.
Chàng đã đem Thảo đến đây để nàng được yên nghỉ với ba nàng trên một triền đồi
vùng Dương Xuân Thượng mà mấy tháng trước Nguyên đã cùng gia đình lên đây trong
ngày giỗ ba Thảo.
Thảo đã nằm dưới kia và sẽ tan biến trong lòng đất, còn
chàng ở lại đây chơ vơ giữa cuộc đời đầy giông tố. Ngày mai chàng về đâu và tìm
ai? Cánh áo dài trắng cuốn chân Nguyên chợt bay lên với tiếng nói “Từ nay có
em” như văng vẳng đâu đây. Nguyên nhìn qua sông, chùa Thiên Mụ ẩn hiện trong những
làn mây xám, và gió thổi ào ào qua mấy bụi cây trên đồi. Nguyên nhìn xuống ngôi
mộ, bật khóc. Chàng bưng mặt, cúi gập người bên mộ Thảo, hai vai rung lên trong
cơn mưa đang đổ xuống.