Nhà văn Hồ Trường An (1938-2020)
Hồ Trường An là một tác giả có sức sáng tác sung mãn và liên tục có mặt
trong cả 20 năm văn học miền nam và hơn 30 năm văn học ở hải ngoại. Vừa là nhà
văn, nhà thơ, người nhận định văn học và âm nhạc, những tác phẩm phong phú và
đa dạng của ông đã tạo thành một vóc dáng tác giả có nhiều cống hiến cho nghệ
thuật.
Hơn thế nữa, đời sống thực tế và đời sống văn chương của ông cũng có nhiều
chi tiết thú vị. Cũng như giữa tác giả và tác phẩm có nhiều liên hệ đáng chú ý.
Hồ Trường An tên thật là Nguyễn Viết Quang sinh năm 1938 tại Long Ðức Ðông,
tỉnh Vĩnh Long và hiện sinh sống từ năm 1977 ở thành phố Troyes, Pháp cho tới
bây giờ. Trước năm 1975, ông học Ðại Học Dược khoa nhưng chưa tốt nghiệp và
động viên Khóa 26 sĩ quan trừ Bị Thủ Ðức rồi phục vụ tại hai chi khu Trị Tâm và
Lái Thiêu thuộc tiểu khu Bình Dương từ năm 1969 đến năm 1971. Sau ông thuyên
chuyển về Ban Thông Tin Báo Chí Quân đoàn III tại Biên hòa tới khi mất nước.
Trong khoảng thời gian này ông vẫn liên tục tham gia sinh hoạt văn nghệ và là
cộng tác viên của nhiều tờ báo xuất bản tại Sài Gòn trước ngày 30 tháng tư năm
1975 như tranh Thủ, Tiền Tuyến, Tin Sách, Bách Khoa, Ttin Văn, Tiểu Thuyết Tuần
San, Bút Hoa, Vấn Ðề, Văn Học…
Khi tị nạn tại Pháp, ông từng là Tổng thư ký tòa soạn các tập san Quê Mẹ, Làng
Văn và là cộng tác viên của các tạp chí như Văn, Văn học, Thế kỷ 21, Gió Văn,
Hợp Lưu, Lửa Việt,…
Ông ký rất nhiều bút hiệu : Ðào Huy Ðán, Ðinh Xuân Thu, Ðông Phương Bảo
Ngọc, Hồ Bảo Ngọc, Người Sông Tiền, Nguyễn Thị Cỏ May, Ðoàn Hồng Yến, Ðặng Thị
Thanh Nguyệt.
Ông là em ruột của nhà văn Nguyễn ThịThụy Vũ và cha ông là nhà thơ Mặc Khải,
tác giả của tập thơ Phấn Nội Hương Ðồng
Ðặc biệt, ông hay tự xưng mình là Bà Già Trầu với những chi tiết khá thú vị.
Sau vài tháng khi in truyện dài Lớp Sóng Phế Hưng thì độc giả rất ái mộ vì theo
họ, Hồ Trường An đã rất thành công trong việc mô tả đời sống ở nông thôn miền
Nam và tặng cho ông cái tên “ Bà Gìa Trầu” Trong bức thư gửi cho nhà văn Trương
Anh Thụy, giám đốc Tủ Sách Cành Nam ông viết: “lúc đầu tôi hơi giận nhưng nghĩ
lại đó là cái vinh dự cho đời cầm bút. Vì mình đã xây dựng Bà Già Trầu trong
tác phẩm bằng cả tâm cơ nay được độc giả chú ý đến rồi trộn lẫn tác giả vào
nhân vật, há không phải là điểm thành công hay sao?”
Có người khác thì cho rằng Hồ Trường An dùng cái biệt danh Bà Già Trầu vì
ông viết truyện ngắn “Bà Già Trầu Cảm Khái” hay và sống thực quá nên bạn bè gọi
đùa ông và riết rồi ông cũng tự nhận mình với cái tên ấy. Bà già trầu là hình
ảnh của một bà già quê mùa chất phác kể lại những “vận sự” của một người tị nạn
sống ở Pháp.
Ký giả BT (tức ký mục gia Bùi Bảo Trúc) đã xếp hạng Hồ Trường An trong số
báo xuân năm 1988 của tờ Diễn Ðàn Tự Do là “bà già trầu nhất”. Nhà văn Võ Ðình
cũng đồng ý. Ðúng vậy. Trong những cây bút gốc Nam hiện nay không thiếu các “bà
già trầu”. Chơn chất như Võ Kỳ Ðiền, mạnh mẽ như NguyễnVăn Sâm, sôi động như
Kiệt Tấn, trẻ trung như Ngô Nguyên Dũng.. không có cây bút Nam Kỳ nào mà không
có ít nhiều cái bóng dáng le te của một “bà già trầu”. Nhưng Hồ Trường An: “bà
già trầu” nhất, mặn mà nhất, tía lia nhất, thiệt nhất. Chính ông cũng đã khơi
khơi khai ra: “bạn bè tôi ưa chế diễu rằng tôi thưởng thức văn nhghệ giống như
các bà già trầu, giống các cô sến. Tôi không chối cãi điều đó!”
Hồ Trường An còn có một biệt danh nữa cũng độc đáo không kém là nhà văn miệt
vườn. Tác giả Hồ Trường An có văn phong rất đặc biệt của những tác giả miền
Nam. Trong văn học Việt Nam có rất nhiều người có văn phong như vậy như bắt đầu
bằng Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh rồi đến Phi Vân, Sơn Nam, Lê Xuyên, Bình
Nguyên Lộc, Xuân Vũ, Nguyễn Văn Sâm ,.. và sau này ở hải ngoại như Kiệt Tấn,
Nguyễn Ðức Lập, Võ Kỳ Ðiền, Nguyễn Tấn Hưng…
Hồ Trường An đã viết nhiều về chân dung nhân vật gốc miền Nam với tính tình
và cuộc sống của những người di dân từ vùng ngoài vào khai hoang lập nghiệp.
Ông viết tỉ mỉ về lối sống , từ miếng ăn thức uống đến quần áo chưng diện,
trong những tiểu thuyết của ông đã phản ánh một cuộc sống với nhiều chi tiết
tuy có lúc tỉ mẩn chi ly nhưng thú vị. Nhân vật của ông, từ ngôn ngữ đến vóc
dáng, có nét đặc thù khác với các nhà văn miệt vườn khác. Văn phong của ông
tràn đầy cảm giác và có người đã nói rằng khi đọc những trang sách của ông
người đọc có cảm tưởng đang ăn một miếng mứt me, vừa ngot vừa chua với cái ê
răng thú vị…
Từ truyện dài Phấn Bướm xuất bản năm 1986 tới nay, ông đã trình làng gần 60
tác phẩm thuộc nhiều thể loại gồm 22 truyện dài, 12 tập truyện ngắn, 22 tác
phẩm biên khảo nhận định văn học, âm nhạc và chân dung tác giả. Ông còn là thi
sĩ với hai tập thơ Thiên Ðuờng Tìm Lại (2002) và Vườn cau Quê Ngoại (2003).
Tác phẩm mới nhất mà ông xuất bản trong năm nay là “Núi Cao Vực Thẳm” chân
dung của 9 vóc dáng văn học Việt Nam thế kỷ 20 do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương
in và phát hành. Mặc dù tháng 11 năm 2008 ông bị stroke đứt mạch máu não bị
liệt nửa người mà năm nay vẫn còn cố công in sách. Cầu mong cho ông sớm được
bình phục.
Những năm đầu thập niên 80 khi tôi cũng vừa bắt đầu viết lách thì qua tạp
chí Làng Văn mà ông là tổng thư ký có liên lạc thư từ với tôi. Thư ông viết khá
dài và biểu lộ nhiều tình cảm. Có lần khi nói chuyện bằng điện thoại tôi than
là bị thiếu ngủ mà ông lại tưởng tôi bị mất ngủ nên gửi cho tôi những toa thuốc
tàu và cả những món dược thảo để trị bệnh. Tôi phải cải chính là tôi không bị
bệnh mất ngủ mà bị thiếu ngủ vì thời gian này tôi vừa đi học vừa đi làm nên
không có đủ thời giờ để ngủ. Nhưng dù sao tôi cũng cám ơn lòng tốt của ông đối
với bạn bè.
Năm 1982 thì tôi và ông cùng cộng tác với tạp chí Việt Chiến của các anh Ngô
Vương Toại, Giang Hữu Tuyên và Nguyễn Ðình Hùng. Có một số báo đăng truyện ngắn
“Tím Mồng Tơi” của ông và bài thơ “Mầu Tím Mồng Tơi” của anh Giang Hữu Tuyên.
Cả hai bài đều làm tôi thích thú vì cũng có nhiều điều để nói về những dậu mồng
tơi này lắm. Ông viết thư hỏi tôi có ý nghĩ gì về bài viết của ông không. Tôi
trả lời rằng đã có nhiều người viết về dậu mồng tơi thí dụ như trong thơ Nguyễn
Bính chẳng hạn. Nhưng chưa thấy có bài nào tạo cho tôi một cảm giác gần gũi và
làm sống lại những ký ức của riêng tôi mà từ lâu tôi đã quên như bài viết của
Hồ Trường An và bài thơ của Giang Hữu Tuyên. Cả hai nhắc tôi nhớ lại những ngày
khốn khó ở quê nhà, ở trong trại tù cải tạo mà lá mồng tơi là món rau “sang
trọng” nhất lúc đó. Và tôi hứng lên hứa với ông là sẽ viết để kể lại bằng bút
mực. Ông viết sẽ chờ để đọc. Nhưng tôi hay quên và cũng lười nên thất hứa khiến
mấy năm sau gặp lại ông còn trách tôi hứa lèo…
Hồ TrườngAn là một chân dung nghệ sĩ đa diện. Như là một thi sĩ, ông đã in
hai tập thơ và thơ của ông cũng như văn xuôi đầy ắp những tình cảm và với ngôn
ngữ thật bình dị nhất là những bài thơ bảy chữ, tuy có phong vị cổ điển nhưng ý
tình đơn sơ thành thật. Trong tập thơ: “Vườn Cau Quê Ngoại” ông viết tặng cho
những bằng hữu thân thuộc bằng tất cả những thiết tha của tâm cảm mình. Ông
viết “Trại Lá Chầm” để tặng cho chị ruột của mình là nhà văn Thụy Vũ để nhớ lại
những ngày sống dưới mái lá chầm ở làng Tân Giai tỉnh Vĩnh Long. Ông cũng viết
“Khúc Hát Thương Hồ” để tặng hương hồn nhà văn Nguyễn Văn Ba, một người đã thực
hiện tuyển tập những cây bút miền Nam và cũng là một nhà văn miệt vườn như
ông….
Thơ của ông đầy những bóng dáng của quê xưa của làng cũ. Và đó là nét riêng
biệt của ông. Thí dụ như trong bài “Nhớ đất Tiền Giang” tặng nhà thơ Phương
Triều:
“.. năm cùng tháng tận trạm thời gian
đánh dấu từng xâu chuỗi mộng tàn
nhưng ngọn tàn đăng vùng ký ức
đưa tôi về viếng đất Tiền Giang.
Hồi chuông kim cổ Vĩnh Tràng ơi
Chùa đất Mỹ Tho nhạt bóng rồi
Trái mận hồng đào xuân thiếu nữ
Như bình minh sáng rực lòng người
Cồn Phụng Cồn Rồng soi bóng nước
Ai qua Rạch Miễu nhớ con đò?
Thương hồ bao mảnh đời xuôi ngược
Thắm mặn ngày xanh đĩa cá kho
Cá úc cá duồng còn béo lắm?
Hến cồn có ngọt tộ canh rau?
Vĩnh Long quà tặng chàng thi sĩ
Trái mận da người dòn ngọt sao…”
Thơ của ông qua những địa danh và những đặc sản địa phương đã nhắc chúng ta
đến một quê hương của đồng bằng sông Cửu Long hiền hòa trù phú. Thơ của ông đẹp
nhưng lại có người phê bình rằng những hình ảnh ấy quen thuộc quá và đã thành
một khuôn sáo thi ca nên thơ của ông chỉ tha thiết một giọng và không có nhiều
mới lạ làm bất ngờ người đọc. Mỗi một nhận định như thế đều có những lý lẽ để
chứng minh. Tôi chỉ đọc thơ bằng cái cảm của mình và không thích phân tích tìm
tòi cái hay cái dở như một nhà phê bình. Tôi đọc thơ Hồ Trường An để nhớ lại
những buổi chiều qua bắc Mỹ Thuận của một chuyến vượt biển, lòng nao nao buồn
khi nhìn những bè lục bình trôi phăng phăng theo triều nước xanh in bóng mây
trời và thấy mình cô đơn xiết bao trong thiên nhiên. Lúc ấy , thời gian và
không gian như lắng đọng vào nhau thành một giao hưởng nào ngân nga không dứt
trong lòng tôi. Ðọc thơ Hồ Trường An tôi như nghe lại những giao hưởng ấy.
Thơ của ông không chỉ có toàn về ký ức mà còn có nhắc nhở cho hiện tại và
tương lai . Trong bài thơ: “Khai từ cho một quyển sách” Hồ Trường An viết:
“Bỗng tiếng thổ ngơi xưa nhắn nhủ
trong chiều hoang vắng giữa lòng đêm
Từng phen gục ngã, từng phen chết
xin ngẩng đầu lên hãy đứng lên
Hãy nhớ mảnh ao dòng nước mát
Hãy yêu vườn rộng rẫy xanh tươi
Có nghe vết cháy hồn đau cũ
Ngời vết son trang điểm cuộc đời
Tươi mãi trong lòng bóng khóm tre
Vàng hanh kỷ niệm buổi trưa hè
Ngát thơm ký ức mùa xôi cốm
Sớm nắng còn say lắng tiếng ve.
Nuôi mãi niềm tin qua đất cũ
Ðể còn gốc rễ bám quê hương
Ngẩng đầu thế kỷ huy hoàng đón
Dẫu đã chồn chân mấy chặng đường”
Nuôi mãi niềm tin qua đất cũ/ để còn gốc rễ bám quê hương. Thơ của ông không
phải chỉ nhắc mãi những kỷniệm của đời sống đã qua trong qúa khứ. Mà thơ của
ông còn hướng về tương lai để tin tưởng vào những chặng đường sắp tới.
Thơ của ông nhắc đến nhiều người thân, gửi đến nhiều thân hữu tâm giao và là
những ngôn từ thiết tha thành thật nhất của ông. Hình ảnh gây cho ông nhiều cảm
xúc và nhớ thương nhất là hình ảnh của bà ngoại ông, một hình ảnh không bao giớ
phai mờ của bài thơ Vườn Cau Quê Mẹ.
Bà ngoại sống lúc thúc trong căn nhà xưa mà hình bóng đã thành quá quen
thuộc trong thi ca. Thế mà với tâm cảm đậm đà chứa đựng bên trong, cảnh không
còn đơn thuần là cảnh nữa mà gián tiếp phác họa thành môi trường của tình yêu
thương của nỗi nhớ mong trong hồn người. Bà quét lá buổi chiều ở hiên ngoài có
phải là hành động quét đi ánh trăng trên sân lá như cơn gió quét đi lớp mây
giăng của chiều buồn? Vườn cau không phải đáng nhớ từ cái vẻ đẹp và mùi hương
mà vườn cau chính là một nhắc nhở đến một cuộc đời của ngoại luôn luôn săn sóc
che chở con cháu
“ vườn cau quê mẹ thời niên thiếu
ươm giữa hồn thơ nét đẹp buồn
ký ức tháng ngày rung bóng lá
thơm hương cau tỏa dưới trăng sương
vườn cau hòa tiếng tim châu thổ
dựng mộ bia sau mái miếu đường
có bóng ma người bao thuở trước
suốt đời bám riết đất quê hương”
Từ tác phẩm đầu tiên in ở hải ngoại, chúng ta có một Hồ Trường An, nhà văn
miệt vườn. Thực ra, tôi không thích lắm cái tên “miệt vườn” nghe quê quê làm
sao ấy… Nhưng đó lại là một đặc tính rất rõ nét của văn chương Việt Nam ở hải
ngoại cũng như một đặc tính khác cũng nổi bật là văn chương nữ giới mà các nhà
ghi chép lại văn học sử không thể nào bỏ qua. Có rất nhiều tác giả tự nhận mình
là nhà văn miệt vườn và đọc tác phẩm của họ quả thực đã có nhiều tính chất của
một đời sống và sinh hoạt khởi đi từ những người di dân đến những nơi đất đai
còn hoang vu để xây dựng cuộc sống mới. Tính chất ấy biểu lộ trong nếp sống,
trong phong tục, trong ngôn ngữ và cả trong tình cảm, trong tính tình nữa.
Chúng ta hãy bước vào thế giới miệt vườn của nhà văn Hồ Trường An. Trong tất
cả các tác phẩm của ông, tác phẩm nào cũng bàng bạc chân dung của một nhà văn
miệt vườn.
Tác phẩm đầu tiên mà Hồ Trường An viết và in ở hải ngoại và được tái bản
nhiều lần. Ðó là truyện dài Lớp Sóng Phế Hưng. Ông viết truyện này khi văn học
Việt Nam ở hải ngoại bắt đầu khởi sắc với sự góp mặt của các cây bút mới thành
danh hợp cùng các nhà văn kỳ cựu của 20 năm văn học miền Nam. Hồ Trường An tuy
đã làm báo viết thơ truyện từ trước năm 1975 nhưng những tác phẩm đáng chú ý
của ông đều là những tác phẩm mà ông viết sau này.
Truyện dài này có bố cục thật đơn sơ. Nhân vật chính là bà Bếp Luông và các
con của bà gồm ba gái hai trai. Gia đình này là một gia đình trung lưu sinh
sống ở vùng đất Hóc Hỏa, quận Hỏa Lựu, tỉnh Rạch Giá. Mấy người con với danh
tính Hai Cường, Ba Kiểm, Tư Diễm, Năm Nhan, Út Biên đều ở tuổi phải dựng vợ gả
chồng và bố cục câu chuyện xoay quanh việc gầy dựng hôn nhân của các chàng trai
và các cô gái ấy. Họ sống, họ yêu, họ buồn vui, họ thất vọng và họ hy vọng, tất
cả chỉ là những chi tiết đời thường nhưng Hồ Trường An đã làm sinh động với bút
pháp đặc thù miền Nam. Tả người hay tả cảnh, cái địa phương tính từ ngôn ngữ
đến câu chuyện chuyên chở đã làm rõ ràng hơn cái chân chất của người dân ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
Ðời sống dân quê đơn điệu như vậy chắc khó có những chi tiết hấp dẫn người
đọc? Nhưng tại sao tác phẩm này lại được hâm mộ đến như thế để cúng xôi chè cho
cái tên Bà Già Trầu của Hồ TrườngAn?
Có một người rất mê văn Hồ TrườngAn sẽ trả lời cho câu hỏi ấy. Ðó là giáo sư
Nguyễn Ngọc Bích. Ông viết: “Muốn đọc Hồ Trường An, ít nhất trong Lớp Sóng Phế
Hưng, ta không thể chỉ đọc bằng mắt. Ta còn phải nghe được giọng miền Nam với
cách phát âm đặc biệt của nó, với những hình ảnh, những ẩn dụ, ngoa ngôn của
nó, mới nghe thì tưởng độc địa ác ôn lắm nhưng đích thực, đôi khi lại bao bọc
một tình thương vô bờ. Nói cách khác, đọc Hồ TrườngAn, ta phải đọc thực sự – từ
“đọc” theo nghĩa là có phát âm lên cho đến “đọc” theo nghĩa là đọc giữa hai
hàng chữ, đọc được ra cái tâm lý cái tâm cảnh của người đang phát ngôn, đang
nói chuyện, đọc được ra cái tình yêu trong lối chửi đổng của người mẹ” Giáo sư
Nguyễn Ngọc Bích đã từ những câu chửi với đầy tính ngoa ngôn nhưng ẩn tàng
nhiều tình thương của Bà Bếp Luông khi đề cập đến cậu con trai trưởng của bà là
Hai Cường tính tình hay đam mê chuyện gió trăng tình dục,..
Hình như trong tất cả các tác phẩm của ông ông đã xử dụng đối thoại như một
phương cách tả tình tả cảnh gián tiếp. Ðối thoại chuyên chở tâm ý của nhân vật
và tạo ra nhiều ấn tượng cho người đọc. Những câu chửi, những lời bóng gió, như
là gia vị cho một món ăn ngon đã làm đậm đà hơn cho câu chuyện kể. Ðối thoại
của ông không có những chữ nghĩa rắc rối mà có khi chỉ là những câu nói thường
ngày hay những câu ca dao, những câu tân nhạc , những điệu vọng cổ chen vào.
Ðối thoại làm sinh động hơn cái sinh hoạt vốn đã thầm lặng của đời sống dân quê
Hồ Trường An tả người với con mắt quan sát của người thích cái đẹp và tìm sự
sắc sảo trong cái tỉ mỉ nhỏ nhặt. Tả cô gái đang yêu, ông tả luôn cả cách trang
sức, cả cách ăn mặc, cách đi đứng, cách nói chuyện. Và như thế vô tình ông đã
phác họa một cách gián tiếp tình yêu của nhân vật này. Tả cảnh, ông đã mang tấm
lòng của ông để nhìn vào thiên nhiên để cảnh vật vô tình mang theo những tình ý
của người. Tôi nghĩ Hồ Trường An là người lạc quan nên ông nhìn cuộc đời bằng
sự bình hòa xuề xòa trong phong cách văn chương. Ông rất khác với nhà văn
Nguyễn Bá Trạc: uống nước mưa ở Mỹ đắng cả mồm”. Ông ở Pháp nên bằng lòng với
giọt mưa châu Âu rơi xuống thành phố Troyes nơi ông cư ngụ một chút mát lòng..
Ông tả cảnh tả người đẹp qúa như vậy có làm cho người đọc thấy sự đơn điệu
không trong nghệthuật của ông?
Tôi nghĩ không có sự đơn điệu, mà trái lại. Thí dụ như về giới tính và ông
đã đề cập đến trong truyện dài Hợp Lưu mà nhà văn Võ Phiến đã viết trong bài
tựa cho tác phẩm này. Ông viết rất bóng gió nhẹ nhàng:
“ Trong Hợp Lưu thỉnh thoảng gặp một cảnh ái ân, đôi khi là một cảnh ái ân
nồng nàn, tôi sắp sửa ngại ngùng thì đã nghe đâu đó lời chị Liên ôn tồn bảo
Quế: “Em hãy tìm cái Chân trong Vọng đi (..) Em Chấp trước rồi em ạ,,” Tôi bẽn
lẽn trở về chỗ nhát gan của mình.
Hồ Trường An không Chấp trước. Anh không ngại các bộ phận thân thể, các hoạt
động sinh lý mà người đời kêu là bẩn thỉu. Anh viết về những cái ấy rất tự
nhiên, khơi khơi, như viết về chuyện hò hát trên sông, trên rạch, về bướm bay
chim hót trong vườn. Anh không xem cái gì là bẩn thỉu, cái gì là trong sạch cao
quí. Ðã chấp nhận được cái xấu lẫn cái tốt, cái ác lẫn cái thiện, chấp nhận đồng
hóa ta với người, cởi mở vui vẻ.. thì nghiệt ngã làm chi với chính thân xác của
mình? Dù cho cái thân xác ấy có những lúc nhiễu sự đòi hỏi lắm trò..”
Có phải Hồ Trường An là người đồng giới tính? Trong cuộc phỏng vấn của nhà
văn Lưu Diệu Vân trên trang mạng Da Màu, Hồ Trường An đã trả lời rất thành thực
về giới tính của mình. Ông tâm sự:
“Cô Vân, tôi chấp nhận cuộc phỏng vấn này là một lời tự thú trong buổi tàn
thu của cuộc đời. Tôi đã vào tuổi thất tuần rồi, cô ơi! Mỗi đêm, trước khi đi
ngủ tôi luôn luôn tự hỏi: sáng mai mình có thức dậy được không đây? Hay là mình
phải làm một chuyến đi tàu suốt vào giấc ngủ miên viễn? Vậy tại sao mình lại
giấu diếm cái bí mật trong cuộc sống tình cảm lẫn tình dục của mình? Chấp nhận
cuộc phỏng vấn của cô, tôi muốn cho lớp thế hệ bọn gay sau tôi một vài kiến
thức hay một vài kinh nghiệm nho nhỏ nào chăng?
Vào những năm đầu của thập niên 80, tiết lộ giới tính và khuynh hướng tình
dục của mình là một hành động can đảm. Hồi đầu thập niên 60, tôi chỉ tiết lộ
thân phận mình cho chị Thụy Vũ của tôi cùng một số bạn thân. Bắt đầu năm 1980
tôi có người yêu là dân Pháp chính gốc, tôi ngang nhiên sống chung với đương sự
tới nay kể ra cũng đã 30 năm.. Một phần là tôi tức giận tên Thi Vũ Võ VănÁi
(nhà báo/ nhà thơ) nó nỡ đem tâm sự của tôi đi bán rao tùm lum tà la. Cho nên
từ đó, khi đi dự các cuộc tiếp tân nào trong giới văn nghệ sĩ kiều bào ở Paris
tôi cũng dắt người bạn lòng của tôi theo. Ðương sự nhỏ hơn tôi 9 tuổi nhưng cái
tác của hắn lớn hơn tôi khá nhiều.”
Tác phẩm Hợp Lưu có phải là tác phẩm viết về những người đồng tính? Ông
viết: “Năm 1983, tôi tung ra quyển Hợp Lưu trong đó có nhân vật gay tên Quế
phản ảnh đôi chút tâm trạng của tôi. Trước tôi vào năm 1967, bạn tôi tên Ðỗ Quế
Lâm có viết tiểu thuyết tự truyện có tựa là “Vết Hằn Rướm Máu” do chính chị
Thụy Vũ tôi viết lời tựa. Sau đó ở hải ngoại vào năm 1979 thằng bạn khác của
tôi tên Lucien Trọng, một kỹ sư thủy lâm có viết quyển “L’Enfer Rouge, Mon
Amour” do Seuil xuất bản. Sau đó nó dịch ra “Hỏa Ngục Ðỏ, Mối Tình Tôi” kể lại
mối tình của nó với một chàng trai bụi đời tên Hải trong thời gian hai đứa
bịCộng Sản giam cầm. Ðúng như cô Vân nghĩ, hình như những cây bút gay như Ðỗ
Quế Lâm và Lucien Trọng không dám diễn tả huỵch tẹt như Hồ Trường An, không mô
tả cuộc làm tình tỉ mỉ và tới nơi tới chốn như Hồ Trường An. Tôi diễn tả chuyện
giao hợp giữa cậu trai Việt và anh chàng gay quý tộc Pháp khá táo bạo và khá
đậm đà. Chính nữ ca sĩ Quỳnh Giao thuở thập niên 1980 bảo rằng đây là quyển
sách mà Quỳnh Giao thích. Song song cũng có nhiều độc giả chửi tôi khá nặng. Họ
gọi điện thoại xài xể anh Mai Thảo vốn là người chủ trương tờ tập san văn
chương Văn tại sao có thể đăng từng kỳ những chương sách dơ dáy nhớp nhúa của
quyển Hợp Lưu?”
Không những Hồ Trường An ngoài viết truyện làm thơ còn viết nhận định về văn
học và những ký sự phác họa chân dung các tác giả trong văn học Việt Nam rất
sinh động đầy chất sống thực. Ông đã phác họa những chân dung văn học như một
cách thế làm sống lại một thời kỳ văn học đã qua nhưng để lại nhiều giai thoại
nhiều kỷ niệm. Thí dụ như đã viết Giai Thoại Hồng để kể cho những người không
biết tò mò đọc và tìm kiếm một cách thích thú những điều sẽ biết về những nhà
văn nữ thí dụ như cách ăn quà vặt và đấu láo với nhà thơ Hoàng Hương Trang hay
tổ ấm tình yêu một thời của nữ thi sĩ Tuệ Mai và “ôngđạo” Phạm Thiên Thư hay
phong cách nho phong sang cả của nhà thơ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội và nhà văn
Ðông Hồ. Dù là người ở trong văn giới hay không nhưng cảm giác làm người khách
lạ sẽ có khi giở những trang sách. Một thế giới có nhiều mới lạ.
Tâm tư của ông thế nào khi viết ký sự văn học Giai Thoại Hồng?
Ông viết: “Trong lứa tuổi mùa thu cuộcđời tôi sẽ vẽ từng tấm chân dung các
nhà văn nhà thơ nữ kèm theo những cuộc hôn nhân, những giai thoại của họ. Ðó là
những điều mà tự thuở hoa niên tươi thắm của tôi thêm phì nhiêu, trái tim tôi
chan hòa những cảm hứng trong mát kỳ diệu.
Theo ngón tay lật, từng trang hai quyển album phơi bày những tấm ảnh của
nhiều nhà văn nữ. Tôi thấy rồi, qua khóe mắt qua nụ cười qua nét môi họ những
giai thoại đẹp của họ đã được tôi đưa lên một vài trang sách báo, đã gợi óc tò
mò cho độc giả và đã đóng góp vào tư liệu, tài liệu văn học dù nhỏ nhoi ít ỏi
vẫn là một đóng góp chân thành vào các giai đoạn văn chương nào phải buổi bình
thời này”
Năm nay , 2011, nhà văn Hồ TrườngAn có xuất bản một tác phẩm mới
Ðó là tác phẩm nhan đề Núi Cao Vực Thẳm do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương của
nhà văn Uyên Thao và Trần Phong Vũ chủ trương.
Nội dung là viết về tác giả và tác phẩm của 9 khuôn mặt văn học: Nguyễn Ngọc
Bích, Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan, Thụy Khuê, Vũ Tiến Lập, Võ Phiến, Ðặng
Phùng Quân, Trương Anh Thụy và Thanh Tâm Tuyền.
Nhà phê bình UyênThao trong bài tựa viết:
“Từ đây, khoảng trống đáng buồn trong sinh hoạt văn học nghệ thuật và cuộc sống
Việt Nam càng như mỗi lúc một càng mở lớn hơn để sẽ mang thêm về nhiều nỗi đau
đớn theo ngày tháng. Khi viết tác phẩm Núi Cao Vực Thẳm có thể chính Hồ Trường
An không hề nghĩ về khoảng trống bi thảm trên của sinh hoạt văn học nghệ thuật
cũng như thực tế đời sống Việt Nam. Hồ Trường An chỉ đến với một số tác giả đã
hoặc đang góp mặt trong sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam, chính xác hơn là
chỉ dừng lại với một số tác phẩm của 9 tác giả Việt Nam và ghi lại những cảm
xúc cùng phát kiến khởi từ các tác phẩm đối diện. Hồ Trường An không phác họa
chân dung cho những tác giả được nhắc tới không làm công việc của nhà phê bình
văn học hay của người ghi chép văn học sử kể cả khi tán thưởng hay bất bình
vớiđiều bắt gặp nơi một tác phẩm nào đó. Sẽ không lầm khi nói rằng Hồ Trường An
chỉ diễn tả cảm nghĩ của người thưởng ngoạn và đôi khi bước xa một chút bày tỏ
nhận định hoàn toàn chủ quan đối với tác giả qua tác phẩm đang đối diện..”
Riêng cảm nghĩ của tôi. Tôi nghĩ mỗi một người đọc sẽ soi bóng chính mình
qua những trang sách đang giở. Ðọc được những lời chủ quan mà thành thực của
tác giả, tôi dễ dàng có những liên tưởng xa hơn khởi đi từ trang sách….
Nguyễn Mạnh Trinh