Tôi có duyên nợ với những con ma, năm 20 tuổi, tôi về dạy học ở một thị trấn
ven đường, hoang sơ , vắng lặng… Trường nằm bên Quốc lộ 1, thời chiến tranh,
nơi này đã hứng chịu những tàn phá khốc liệt của đạn bom, là nơi mà ban ngày
Cộng Hòa, ban đêm Cộng Sản… Phụ huynh thấy cô giáo nhỏ xíu, ốm yếu thì thương,
nói:”Cô về nhà tôi ở, cái bàn viết mà trường phân cho cô ngồi soạn bài, chấm
bài là chỗ mấy ổng đâm nhau bằng lưỡi lê chết gục ở trển, máu me tùm lum mà cô
không để ý!” Quả thật, những vết máu khô nâu nhòe nhoẹt được học trò cạo tới
cạo lui bằng mảnh chai vẫn còn nhòa nhòa trên mặt. Mỗi lần ngồi làm việc ở đó,
tôi trải lên một tờ giấy báo để che đi .
(Tôi không sợ ma kể từ ngày Cà Rốt chết. Cà Rốt là bạn hàng xóm thân thiết
nhất của tôi từ thời thơ ấu cho đến lúc nó vĩnh biệt trần gian… Nó chết lãng
nhách vì một trái bom thả rơi vô tội vạ vào trung tâm khu cư xá công chức. Một
thành phố thanh bình yên ổn nhất chưa hề nghe tiếng đạn bom trong suốt cuộc
chiến tranh lại phải hứng chịu một trận mưa bom tan tác vào những ngày chấm dứt
cuộc chiến. Tôi vĩnh biệt Cà Rốt cũng là vĩnh biệt tuổi thơ tôi!)
Những buổi chiều cuối tuần buồn rợn, từ cửa sổ của phòng nhìn về phía con đường
nhỏ dẫn ra sau trường là một rừng xương rồng và một bãi tha ma hoang vắng. Tất
cả giáo viên đã về nhà còn mình tôi ở lại… Tôi không thể chen chân lên những
chuyến xe than chạy qua quốc lộ vì quá đông người và hàng hóa… Rất nhiều khi
các học trò ban ngày làm du kích, ban đêm đi học bổ túc văn hóa thấy cô giáo
đứng lơ ngơ chảy nước mắt khi những chiếc xe lần lượt đi qua không ngừng lại,
chỉ để rơi rớt những đốm lửa cháy đỏ trên đường… đã động lòng trắc ẩn, về xã
đội lấy súng chặn đường tài xế, gởi cô giáo về Nha Trang.
Những chiều sẩm tối, rừng xương rồng buồn bã một màu hoa đỏ, phụ huynh thường
nói những lúc đi qua nhìn thấy cô giáo đăm đắm nhìn về hướng đó:”Nó thấm quá
nhiều máu nên hoa màu đỏ rực!”.
Mặt trời chiều nào cũng nuối tiếc rơi xuống những đốm nắng tàn phai… tôi đi về
phía ngôi nhà nguyện đổ nát, hoang tàn để được đọc những bài kinh còn nhớ trong
tâm trí... Lạy Cha chúng tôi ở trên trời… Kính mừng Maria đầy ơn phước...
để cảm thấy mình được an ủi và có thêm chút nghị lực mà sống tiếp… Cứ mỗi lần
về ngang con đường mòn này trong chiều chập choạng tôi luôn nghe tiếng :” Chào
Cô Giáo” và thấy một người lính trẻ, áo lính bạc màu, mũ bê rê nâu đứng tựa bức
tường rêu thấp với nụ cười trêu chọc… tôi nhắm mắt chạy nhanh qua. Thầy Lập
nói: ” đó là oan hồn của một người lính trẻ, mới rời quân trường về thăm nhà
chưa kịp ra trận đã bị “bên kia” xử bắn ở cái cổng chào này! Cô giáo có duyên
lắm mới được nhìn thấy đó!”
Buồn, nhớ 2 câu thơ anh Võ Duy Chung: Như đám tàn quân chiều trận mạc/
Khoác chiến bào che giấu vết thương... Và thầm nghĩ: nếu những con ma đều
dễ thương đến vậy thì đâu có gì đáng sợ!
Hơn 6 năm dạy học ở đây, tôi nhiều lần theo phụ huynh học sinh đi vượt biển,
Thị trấn nằm giữa, bên biển bên rừng và lớp tôi chủ nhiệm đa số là học sinh
vùng biển. Trước mỗi chuyến đi, người lính trẻ đều đến trong giấc ngủ buồn bã
hỏi tôi rằng:” Nỡ bỏ tôi đi sao cô giáo?” và như một sợi dây neo chặt tôi vào
vùng đất đã trở thành quen thuộc này dù phụ huynh đã dặn dò tôi phải đọc thuộc
mấy câu kệ để thoát khỏi vòng âm khí …Tôi trả lời trong mơ:” Yết Đế Yết Đế, Ba
La Yết Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha” để linh hồn ấy được siêu sinh tịnh độ.
Năm ấy, Thầy Lập rủ:” Ở lại qua đêm Giao thừa này đi cô Thụy, dự một phiên
chợ Âm Dương cho biết với người ta!”
Chợ họp ở chân Dốc Găng, giữa rừng dương liễu, những ngọn đèn bão lững lờ như
trôi trong đêm sương, những ngọn đuốc chớp tắt theo gió núi và những đống lửa
nhỏ đốt bên đường sưởi ấm… Những bóng người mờ tỏ âm u. Tôi nắm chặt tay Hương
Giang vì nó đang sợ muốn khóc thét lên. Thầy Lập hỏi: ” sợ không cô Thụy?” Tôi
cười:” Thụy vốn là bạn của những con ma mà!”
Đêm nay là đêm Giao thừa, người sống và người chết trả hết những ân oán mà họ
đã gieo gặt cho nhau để không còn nợ nần vương vấn. Tôi chỉ cho thầy Lập và
Hương Giang thấy người lính ấy… Tôi không muốn đọc bài kệ cũ nữa. Mặc bạn thôi,
nếu bạn không muốn siêu sinh tịnh độ thì cứ ở lại nơi này mà lặng lẽ gởi đến
mọi người những nụ cười trêu chọc!
” Cô giáo, đói lòng ăn nửa trái Sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương” và
trút vào giỏ tôi một rổ Sim tím thẩm… tay thầy Lập còn lạnh ngắt hơn cả tay
Hương Giang nữa .” Cô nói chuyện với ai vậy Thụy?” Rồi kéo cả hai chúng tôi
chạy nhanh ra Quốc lộ.
Đó là đêm cuối cùng tôi ở nơi xứ đó, Thị- Trấn- Ven- Đường .Mùng một tết tôi
về nhà theo chuyến xe đò sớm nhất và không bao giờ trở lại nơi này vì lớp tôi
chủ nhiệm đã vượt biên gần hết trong đêm tôi đi tìm phiên chợ Âm Dương!
Luôn có những con ma theo tôi suốt những chặng đường. Trước khi sinh đứa con
gái đầu lòng, trưa nào nằm ngủ tôi cũng nghe tiếng banh thẻ đập đều đều trên
sàn gác. Tôi hỏi:”đứa nào chơi ồn vậy con!” Tiếng trẻ con nũng nịu :” con nè
cô, con là Tiểu Phượng”. Tôi nhớ, tôi gặp cô bạn thời trung học trong một trại
tạm giam ở Phú Yên, cô có bầu 7 tháng và sinh non trong trạm xá. Con bé chết,
cô nói trong dòng nước mắt đớn đau uất ức:” Tao đặt tên bé là Trần thị Tạm Giam
và gởi trong chùa Núi.Thỉnh thoảng mày về thăm nó giùm tao” Tôi để cô thấm
những giọt nước mắt đau buồn trên vai áo mà chẳng biết nói gì… Sau đó cô vượt
biên, mất tích để tôi cứ đau đáu chờ hoài tin tức từ một chiếc ghe thất lạc!
Tôi về chùa Núi, xin sư cô đổi tên cho bé. Tôi khấn thầm: ” Bé con, cô yêu
thương con vô cùng, cô gọi con là Tiểu Phượng… đóa hoa phượng bé bỏng xinh đẹp
cuối mùa hè mà mẹ và cô ép vào trang lưu bút rồi tức tưởi từ bỏ tuổi thơ ngây…”
Tôi sinh con gái đầu lòng, nó dịu dàng xinh đẹp như cô bé Tiểu Phượng của giấc
mơ tôi… nó cũng có một khóe lúm đồng tiền bên má trái như cô bạn học ngày xưa.
Phải chăng tôi đã dần dần tìm lại được những gì đã mất?
Nhiều năm sau ở Mỹ,tôi mua một căn nhà nhỏ ở miền Nam California, người phụ
nữ đang thuê căn nhà tôi định mua đã nói:
– ” Không ai dám ở đây đâu chị vì nhà bên cạnh có một con ma!”
– ” Vậy sao cô dám ở?”
– ” Vì em là một cô đồng, mấy con ma sợ em thì có! và em được cho ở không tiền”
– ” Tôi không sợ con ma nhà bên cạnh, giá rẻ thì tôi mua thôi!”
Nhà bên cạnh bỏ hoang mấy năm nay vì người chủ ở một mình đã chết. Tôi nhắm mắt
mua đại để có một chỗ yên thân và không dám nói với ai về con ma nhà bên cạnh.
Sửa sang nhà mình xong tôi qua quét dọn sân vườn bên ấy, trồng mấy luống hoa
Mười Giờ, Ngũ Sắc rực rỡ đủ màu… Tôi nói thầm:”Mặc dù ông là người Mỹ nhưng đã
chết rồi thì ông sẽ hiểu ngôn ngữ chung của tâm linh phải không? Ông cũng biết
tôi muốn gì chứ! Với tôi thì không sao, ông có thể về đứng bên hiên nhà ông
ngắm hoa ngắm lá! hút thuốc cũng được luôn(không hiểu sao tôi hình dung con-
ma- nhà- bên- cạnh là một người đàn ông nhân hậu, tóc bạc trắng, bụng phệ và
lúc nào cũng ngậm chiếc tẩu thuốc nghi ngút khói …) Nhưng còn mấy đứa nhỏ, thấy
ông chắc tụi nó tản hồn tản vía… Vậy thì ông đừng xuất hiện trước mắt tụi nó
nhen!” Tôi có cảm giác ai đó đang cười thanh thản. Thỉnh thoảng giữa khuya, tôi
lén mở cửa sổ nhìn qua, không thấy gì hết, ngọn đèn bên sân này hiu hắt chiếu
qua sân hàng xóm, lạnh lẽo, buồn buồn…
Theo truyền thống gia đình, cứ rằm và mùng một tôi hay ra thắp nhang khấn
vái giữa trời cầu bình an cho người thân và thỉnh thoảng cũng xin xỏ vài điều
mình muốn… Tôi hay bị la vì cái tội thích ăn gì cúng nấy chứ không áp dụng theo
sách vở như Cầu Dừa Đủ Xài hay Mơ Đủ Điều Chôm Cóc Đủ… Thôi kệ đi, những con ma
dễ thương vẫn theo tôi suốt cuộc, những lúc hoạn nạn ốm đau, trong giấc ngủ vẫn
có những cái nheo mắt rất ma, những nụ cười rất mị đủ sức vực tôi dậy để đi cho
hết cuộc đời!
Và sắp đến giờ Giao thừa rồi, tôi – bổn cũ soạn lại- bày biện nhang đèn hoa
trái giữa sân , khấn vái mấy con ma quen biết, chẳng cần xin giàu sang phú quý
gì cho vướng bận, mà chỉ xin rằng cho tôi muốn gì được nấy, chừng đó là quá đủ
với tôi rồi!
Tôn Nữ Thu Dung