Mồng 5 Tết Canh Tý 2020, một người bạn viết lách bên Houston
điện thoại qua nói đương tụ họp bạn bè làm lễ trăm ngày cho Nguyễn Mạnh An Dân.
Lạ quá, như một thần giao cách cảm, lúc đó cái tựa bài mới vừa được đánh máy
xong trên computer, người viết đương nhẩm trong trí coi mình sẽ viết gì về bạn
văn nầy. Không có đầy đủ tác phẩm của anh, nghĩ rồi lúc nào đó cũng sẽ thủ đắc
được thôi nên chỉ mới làng nhàng viết được mấy dòng, còn đương tìm ý. Lời báo
tin khiến tôi hăng hái hơn trong việc hoàn thành dự định viết về một người thơ
mới mất. Những đóng góp văn chương trước đó của anh rất có ý nghĩa, nói gì về
anh cũng là đem về sự công bình cần thiết cho người sanh ra đã lỡ cầm trong tay
lá bài xấu.
Nguyễn Mạnh An Dân là một người viết văn dấn thân, anh viết
về những điều đáng viết khi nhìn chuyện xấu xa ngoài xã hội. Anh chắt lọc đề
tài, cẩn thận trau chuốt lời để tạo nên những đoạn văn trơn tru, gợi cảm, đánh
vào lòng người đọc. Được hỏi tại sao viết ít và chậm, anh cười nhẹ, từ tốn trả
lời bằng cái nhún vai và đưa hai tay xòe ra trước ngực rất Mỹ đại ý rằng đi làm
suốt ngày để kiếm cơm, mệt nhọc, thường suy nghĩ về đề tài và bố cục khi đương
lái xe, viết văn thì lúc nầy một chút lúc kia đôi ba đoạn. Còn thơ thì tuôn ra
nguyên bài, có khi hai ba bài một lần, nhưng thiên hạ đã phóng thơ ra nhiều quá
khiến mình cũng ngài ngại làm thơ. Ý tưởng thì anh em thường trùng vì ai nấy đều
đau đáu trước nỗi đau thương của dân tộc. Mình phải chọn cách nào cho khác biệt
về kỹ thuật, may ra. Đời sống xứ người có những bận rộn cơm áo không chừa bao
nhiêu thời giờ cho việc viết vì viết lách ở ngoài nước không là một nghề để kiếm
cơm. Anh nhấn mạnh đến chữ kỹ thuật.
Điều giải bày trên không mới, biết bao nhiêu người viết đã
làm như vậy, đã suy nghĩ như vậy. Có người đã đánh vật suốt đời với câu cú, với
chấm (.) phết (,) đấu hỏi (?) dấu than (!) xuống hàng trong trường hợp bất ngờ
nhứt, kể cả sử dụng từ khác với tính chất của chúng bấy lâu nay để mang một ấn
tích khác thường cho thơ mình.
Mọi tìm kiếm đều có giá trị cố gắng đáng trân trọng và bổ
xung tri thức trong ngành. Những đón nhận của người đời lại là một chuyện khác.
Có thể hân hoan có thể hững hờ...
Nguyễn Mạnh Dạn là tên khai sanh của anh. Ra đời năm 1948, tại
Bình Định. Nhập ngũ khi chưa xong Đại Học, làm sĩ quan cấp thấp cho tới ngày
tàn cuộc chiến, đi tù gần chục năm. Qua được đất nước Tự Do liền cầm ngay cây
bút. Có tên trong vài tác phẩm chung với nhiều bạn cùng chí hướng. Riêng anh
có:
Hai tập truyện:
- Người
Lính Không Có Vũ Khí, Làng Văn, Canada, 1995.
- Cử
Đầu Vọng Minh Nguyệt, Làng Văn, Canada, 2000.
Một tập thơ:
- Tiếng
Thét, Anh Em, Na Uy, 2000.
Truyện anh thường lấy bối cảnh người lính VNCH, những người
vì dân, vì bổn phận trai trong thời chiến mà cầm súng. Truyện thường mang tính
bi đát của sự chiến đấu thiếu cân xứng của bên thua cuộc, yêu nước, hào hùng
nhưng không đủ vũ khí đạn dược vào giờ chót. Không khí ngậm ngùi độc giả cảm nhận
dầu chưa đọc hết truyện. Ngậm ngùi khi biết rằng những người hào hùng đó rồi sẽ
chết, sẽ bị tù đày. Ngậm ngùi khi thấy những tình yêu đẹp đẽ được chăm chút rồi
sẽ trở thành ảo mộng do thời cuộc. Ngậm ngùi khi thấy một đơn vị nhỏ cố giữ vững
vị trí nhưng cuối cùng không thể được vì biết bao nhiêu ‘đích thân’ đã tan hàng
trước tiên. Nguyễn Mạnh An Dân là chứng nhân và có trí nhớ tốt - người lính chết
tức tưởi, cô gái người yêu của anh mới vừa được nói chuyện với anh trên máy
truyền tin thì đã thành người cô phụ sau đó không lâu. Truyện anh trung thực, dễ
đọc, đáng tin rằng cường độ hư cấu không nhiều.
Tuy vậy tôi thích tập thơ của anh hơn. Có điều gì đó hấp dẫn
trong Lời Tựa:
Tập thơ nầy tôi làm trong hai trại An Dưỡng và Tân Hiệp,
Biên Hòa, được chép lại tại Sungei Besi, Mã Lai. Tôi đã đặt tên nó là Tiếng
Thét Từ Trái Tim… Tiếng Thét ấy của nhiều người, trong và ngoài trại giam.
Có người gọi đây là thơ tù… Việc người tù làm thơ cũng chẳng có gì mới lạ. Vấn
đề là ở chỗ vì sao đi tù và bao nhiêu người trong cả nước đi tù.
(NVS in chữ đậm.)
Chắc ai cũng chú ý đến chữ vì sao và bao nhiêu.
Chữ Vì sao dẫn đến câu trả lời: Chế độ họ như thế nên
họ phải cho người khác phe đi tù sau khi thắng trận với ngoại viện thiệt nhiều
và vô số dối gian. Thế thôi, chuyện chẳng có gì khó hiểu.
Chữ Bao nhiêu sẽ đi đến cái thở dài não nuột thay vì
là những con số vô hồn.
Đi tù đương nhiên sẽ một số người làm thơ, cách nầy hay cách
khác, lý do nầy hay lý do khác. Ra tù có người nhớ người quên những bài thơ
mình đã chắt chiu ghi vào tim gan, não bộ. Có người muốn phổ biến, người không.
Kể vài trường hợp phổ biến dầu phải mất một thời gian lâu sau khi ra tù:
Nguyễn Sỹ Tế: Khúc Hát Gia Trung, Edition Emn, Bonn
Germany, 1994.
Tuyết Sơn Nguyễn Văn Thu: Bạch Hoa, Vina, Seattle
USA, 2019.
Thơ anh là bức tranh xã hội với những chấm phá ít oi trên
khung vải rộng, cũng không được trét màu quá đen tối hay quá đậm nét, những nét
cọ nhè nhẹ với gam màu lờn lợt nhưng tạo được rung cảm, xót xa cho khách thưởng
ngoạn.
Người cha trong tù cảm nhận tương lai đen tối của những đứa
con mình khi bị cấm cửa tới trường. Những đứa trẻ khác may mắn hơn chút ít, được
đi học thì học được những điều dối trá từ trên đưa xuống như thiên đàng, ấm no,
lao động cho con cháu muôn đời sau:
Bé thơ khăn đỏ
cổ quàng
học bài xã hội
thiên đàng đẹp tươi
Lao động
bằng năm bằng mười
Ấm no con cháu
muôn đời về sau?!
(Khăn)
Nguyễn Mạnh An Dân làm thơ rất ít khi chấm, phết ở cuối
hàng, vậy mà ở đây anh dùng một lần cả dấu than và dấu hỏi (?!) một chỗ. Hai dấu
nầy nói giùm tác giả rất nhiều về sự không tin tưởng lẫn ngờ vực tới chán nản của
mình.
Đó là trẻ nhỏ, người lớn cũng chẳng khác gì hơn: Làm việc,
làm việc cho những khẩu hiệu, cho những bằng khen tiên tiến, để rồi nhìn lại
mình chỉ còn là những bộ xương biết đi.
nhà nước kế hoạch
triển khai
Mỗi người làm việc
bằng hai sức người
vàng sao rực đỏ cờ tươi
bóng che
những bộ xương
phơi giữa đồng
(Xương)
Và biết bao nhiêu cô phụ bị gạt gẫm, phỉnh phờ bằng những lời
hứa không bao giờ được giữ lời để thực hành:
Nghe nói
nhiều lần phải tin
đi Kinh Tế Mới
để xin tha chồng
Cả đời
chỉ biết thật lòng
làm sao em hiểu
người
không giống mình?
(Người)
Vậy đó mọi người, già trẻ bé lớn đều được mớm bằng ảo mộng, ảo
mộng vì bị lường gạt. Nguyễn Mạnh An Dân nói giùm người dân về cú bị gạt vô
cùng lớn đó: Mọi người, không chừa ai, đều mắc mưu. Và nếu có biết cũng nín
thinh, hi vọng mình được phần hên, bị gạt ít…
Phần đầu tập thơ là những chấm phá về xã hội VN mấy mươi năm
đầu sau khi chế độ VNCH bị xụp đổ. Mỗi bài là bốn câu lục bát xuống dòng thành
tám hàng với cái tựa chỉ độc một chữ lẻ loi. Vậy mà 29 chữ đó tả và gợi rất nhiều
điều…
Anh dùng loạt những bài thơ ngắn nầy nói về thực trạng khổ ải
của người dân Việt sống trong nhà tù cũng như bên ngoài xã hội. Nhà thơ nói
gián tiếp hay trực tiếp. Thường là gián tiếp vì thơ anh có ít chữ mà mục tiêu
hướng về thì nhiều, phải để cho người đọc trôi theo trí tưởng tượng của mình, từ
đó họ khám phá lại những điều đã thấy, đã nghe, nhưng bị quên đi vì đã trở
thành thường tình, giờ đọc thơ mới nhớ lại rằng mình vô phước.
Tôi gọi cách thế nầy của ý thơ Nguyễn Mạnh An Dân là cách viết
của thơ Đường: chữ ít, gợi nhiều.
Chẳng hạn:
Sữa: Người mẹ còn đói ăn lâu ngày lấy đâu có sữa nuôi
con.
Sách: Trẻ thơ còn mấy cuốn sách cũng bị chiến dịch đốt
sách tác hại.
Thuốc: Tù nhân được nhỏ mũi vài giọt nước tỏi trừ bịnh.
Họa: Họa cái điều cần tô hồng trong khi thực tế lại
quá đen
Mê: Người ngủ gầm cầu nằm mê thấy tương lai tươi
sáng.
Cãi: Bị can cãi cũng vô ích vì khung tội đã được làm
sẵn, quan tòa chỉ phán thuộc lòng.
Lợi: Dân oằn mình dưới những nghĩa vụ. Đảng muốn như
vậy dân phải chịu thôi.
Mấy chục bài lục bát xuống dòng của Nguyễn Mạnh An
Dân đều như vậy. Người thi sĩ chứng nhơn nhìn thấy những chuyện trái lòng, những
hành động kỳ dị, anh động tâm rồi tìm ra một vài chi tiết nho nhỏ để làm
thông số cho những điều độc giả sẽ nghĩ hộ anh sau đó.
Anh là chứng nhơn vì anh đã thấy đã ghi lại. Rồi đây
người lớp sau sẽ theo đó đánh giá thời đại chúng ta đương sống ngày nay, đánh
giá những người có trách nhiệm về những xấu tốt đó.
Xin thêm một bài loại nầy mà tôi thấy rất hay, cảm động như
xoáy vô tim:
Sư cụ
vừa tụng kinh xong
nhìn ra khắp xóm
bếp không khói chiều
trầm tư
chợt thấy một điều
Niết Bàn xa quá
buồn hiu đời này
(Đời)
Trước đây lục bát xuống dòng, hay lục bát ngắt câu đã có người
thử nghiệm rồi. Không ăn khách lắm nên thi sĩ chỉ làm vài ba chục bài, ít có
trường hợp thực hiện cả bảy mươi bài như Nguyễn Mạnh An Dân. Anh xứng đáng là đệ
tử thuần thành của thể loại lục bát xuống dòng.
Thiệt ra nhìn cho cùng lục bát xuống dòng không phải mới mẻ
gì, chỉ tại chúng ta quen với cách nhìn 6, 8 do người đi trước trình bày có khoảng
cách trong thơ bằng chữ Nôm nên ngỡ là luật bắt buộc phải xuống dòng. Từ đó có
sự phân cách hai câu 6, 8 trong chữ quốc ngữ. (Sau nầy ở trong Nam loại truyện
thơ bình dân viết bằng lục bát, để khỏi tốn giấy người ta in liền một hàng cả hai
câu 6 và 8. Và vẫn được chấp nhận, chẳng ai phản đối gì.
Nghiên cứu sự ngắt câu trong thơ Đoạn Trường Tân Thanh người
ta thấy nhiều cách, như tiểu đối 3/3 - 4/4, như ngắt đoạn từng cặp hai chữ 2/4
- 4/4, như 4/2 -2/6… Chỉ việc xuống dòng những trường hợp nầy thì ta có lục bát
xuống dòng kiểu Nguyễn Mạnh An Dân.
Phần hai, ba của tập thơ là những câu hỏi để tác giả trình
bày thực trạng của chế độ mới: Nói một đường làm một đường khác đối nghịch, biến
người dân thành những hình nộm, nói như vẹt, bỏ những điều tốt thiên lương để
làm điều xấu mong được sinh tồn.
Tất cả tập thơ là Tiếng Thét bất bình của người bất bình biết
quan sát và biết sống xứng đáng là mình. Our lives teach us who we are. (Salmon
Rushdie). Trong tù không thấp hèn bợ đỡ, ngoài tù mở mắt để thấy và lên tiếng
báo động về sự hiện diện của một xã hội xuống cấp. Được tự do không quay mặt lại
với những gì mình đã thấy trước kia.
Đó là nhà thơ dấn thân cho tới cuối đời như bao nhiêu nhà
thơ hải ngoại khác.
Trước khi chấm dứt, nghĩ rằng cũng nên ghi lại mấy câu thơ
xưa viết theo thể 7 chữ trong một bài thơ có nhiều khổ, nhưng nếu được viết lại
theo cách xuống dòng thì chắc là cảm xúc của người đọc tăng lên thập bội: (Trúc
Khanh: Bài thơ Mà Đời Đâu Phải…? trong Tạp văn Việt Nam Hồn,
phụ trương Nguồn Sáng, Sàigòn, 1948.)
Hỡi ôi!
Thương nữ mà vong quốc.
Thì đã đành rồi!
Đến lũ trai.
Cũng chẳng hơn gì
loài
đĩ điếm.
Ăn ngon
mặc đẹp
lại…
Than ôi!
Vậy thì sự xuống dòng cũng có giá trị gợi cảm của nó, miễn
là người làm thơ biết chỗ cần phải xuống dòng.
Mấy câu thơ của Nguyễn Hàn Chung trên fb gần đây khi bài viết
nầy khép lại cũng nên đưa vô đây để thấy lục bát cách tân – một dạng khác của lục
bát xuống dòng – có giá trị tạo được cảm xúc mạnh khi người thi sĩ muốn điều nầy.
Yêu đi, thà lỡ yêu lầm
anh, hơn hoang phế trăm năm, uổng gì!
Về trường hợp cuộc đời của Nguyễn Mạnh An Dân, và những trường
hợp tương tợ: dở dang việc học, đi lính, đi tù, đến xứ tự do chậm, lỡ cầm những
lá bài xấu trên tay nhưng họ đã chơi rất khéo léo. “Life is not always a
matter of holding good cards, but sometimes, playing a poor hand well.” – Jack
London.
Họ đã hạ xuống rất hay những cây bài xấu để thắng vì đã biết
đau nỗi đau của người đồng chủng trong thời đại Đồ Đểu. Họ đã lên tiếng và lên
tiếng lớn, trường kỳ.
Nguyễn Văn Sâm
CA, Tháng Giêng, Canh Tý 2020, mồng 5–rằm
CA, Tháng Giêng, Canh Tý 2020, mồng 5–rằm