Sáng 30-4-75, tôi dựng xe honda ở bờ sông Sài Gòn, đứng nhìn
một chiếc tàu hải quân cuối cùng rời bến. Người ta bỏ lại xe hơi, xe honda chạy
xuống tàu vội vã như một chuyến đi du lịch. Trong đầu tôi không có một chút xíu
nào nghĩ rằng đó là lần đi vĩnh viễn của họ rời đất nước. Thế nhưng không hiểu
sao tôi lại đứng như trời trồng, không làm theo như họ. Làm một cuộc viễn du
cũng thích thú lắm chứ. Nếu như đất nước sau nầy tốt, đối xử tử tế thì mình lại
trở về, có sao đâu. Cái ân hận nầy làm cho tôi ray rứt mãi, nhất là những ngày
đói khát, thất tha thất thểu ở Sài gòn…
Những đêm tập trung nhân dân ra phường hội họp, ngồi dưới đất
nghe những người thắng trận trong rừng mới ra, mang dép râu, đội nón tai bèo, xối
xả chửi vào mặt những người ngồi nghe là thứ bán nước, theo chân đế quốc, “ngụy”
tặc. Thấm đau cho cái ngu si không biết chọn lựa của mình, để bây giờ phải lỡ
khóc lỡ cười. Tôi lên xe chạy qua Khánh Hội, người ta đang mở kho vơ vét.
Tôi dừng xe ngồi nhìn. Một tay thuộc loại “anh chị” khiêng bao gạo 50 kí-lô
trên vai hỏi tôi có cần mua gạo không? Tôi gật đầu. Anh ta ném bao gạo trên yên
sau xe honda của tôi, không cần biết tôi đưa bao nhiêu tiền, anh trở vào kho
vác bao khác ra ngoài, đứng dáo dác không có ai mua, anh cho tôi thêm một bao nữa
để phía trước xe của tôi mà không lấy tiền thêm. Cửa kho mở rộng ai muốn vào lấy
cũng được, tội gì phải bỏ tiền ra mua. Tôi chạy xe về nhà người bạn mà tôi đang
ở nhờ. Yên tâm trong bụng không sợ đói. Tôi chạy qua lại tìm mua một thùng nước
mắm, hàng “hôi của” nên trả bao nhiêu tiền cũng được. Như vậy tôi vững bụng
không còn sợ thiếu ăn trong những ngày sắp tới, trong những ngày tranh tối
tranh sáng, vô chính phủ. Về nhà mua một lít đế, mấy miếng khô cá, tôi và thằng
bạn nhâm nhi vừa mở radio nghe ông Dương Văn Minh đọc diễn văn bàn giao đất nước
lại cho người thắng trận. Xem như hạ màn một cách nhanh chóng, chế độ Miền Nam
cáo chung, nhường sân khấu cho Cộng Sản điều hành đất nước. Hòa bình mà toàn
dân khao khát đang thực sự “hiện thực”.
Thế nhưng lòng người tan hoang, những chính sách sắt máu ụp
trên đầu dân chúng. Đốt sách, cải tạo, đánh tư sản mại bản, đổi tiền v.v.. những
món ăn mà dân Miền Nam không thể nuốt trôi, ói ra máu. Đường phố áo quần lính
chất đống, người người đi trên phố khuôn mặt ngơ ngác, không có ai biết được
mình sẽ đi về đâu. Mấy người trai trẻ hàng xóm mà tôi biết đó là những người
lính Miền Nam, đi ngang qua nhà nhập vào uống rượu với tụi tôi, hết lít nầy họ
chạy đi mua lít khác, tụi tôi ngồi nhậu tới chiều. Một bữa nhậu mà không có một
tiếng nói to, âm thầm uống, hồn ai nấy giữ. Xong cuộc nhậu tự động ra về, chỉ
chào nhau bằng cái gật đầu nhè nhẹ. Tôi thấy mọi người đều “xanh mặt”, mệt mỏi,
lo sợ, như chờ đợi một cái gì không may ụp trên đầu mình.
Ngày hôm sau có những người mang băng đỏ trên tay xuất hiện
trong xóm và điều khiển xe cộ trên đường phố. Trong xóm tôi ở đường Minh Mạng,
Phú Nhuận, có một ông ca sĩ nổi tiếng Sài Gòn, lái chiếc xe jeep của người anh
trước đây là trung tá của Miền Nam đi Mỹ để lại, trên xe ông và những người
mang băng đỏ chạy khắp Phú Nhuận, hò hét như các tay “cách mạng” thứ thiệt. Có
lẽ thời điểm nầy tôi đã chứng kiến được biết bao khuôn mặt tráo trở, họ không
có một chút xíu ngượng ngùng, tiếp tay chỉ điểm, đắc lực làm tay sai. Quả thật
tụi tôi hồi đó không sợ những người Cộng Sản mà sợ những thành phần nầy, họ làm
bất cứ việc gì để lấy điểm. Nên tụi tôi thấy họ phải lo tránh xa. Không loại trừ
thành phần nào trong xã hội Miền Nam, đâu cũng có thứ nầy. Qua Mỹ lại thấy ông
ca sĩ nầy mặc đồ lính rằn ri hát những bài ca của lính, họ thay đổi còn hơn tắc
kè. Đúng là cuộc sống đầy những nhiễu nhương.
Còn giới cầm bút thì sao? Một anh bạn kể lại cho tôi nghe những
ngày sinh hoạt của giới cầm bút, nó cũng bát nháo như xã hội bên ngoài, chỉ điểm,
hại nhau, đưa ra những “quan điểm” như một tay cộng sản thứ thiệt, những thành
phần nầy còn “đỏ” hơn những thành phần trong bưng biền ra “tiếp thu”. Anh em
thiêm thiếp nhận “khuyết điểm” rồi làm “kiểm điểm” như một cái máy, không dám hở
môi hay ý kiến. Bây giờ các ông đã từng sinh hoạt ở Sài Gòn có cơ hội qua được
đây, những người từng hầm hét, la ó, chắc rằng nghe những chuyện nầy thẹn mặt
phải không? Trong cái giới mà thiên hạ quý trọng về cái “thiên chức nhà
văn” mà còn hành xử với nhau tráo trở, coi nhau như kẻ thù, tìm cách dìm người
khác xuống bùn đen, thì đừng trách chi những thành phần khác trong xã hội. Hồi
đó anh em gặp nhau rỉ tai “Coi chừng thằng cha đó, mang băng đỏ đó”, vừa khinh
tởm nhưng cũng vừa sợ sệt, là thứ “cách mạng ba mươi” mà anh em ai cũng đều
lánh mặt.
Bây giờ kể lại những chuyện nầy như kể chuyện đời xưa, nghe
lại thấy tức cười. Tội nghiệp cho những con người yếu đuối, vì tìm một chỗ yên
thân mà họ phải tán tận lương tâm, làm những chuyện ruồi bu. Mấy ông có người
thân đi tập kết về thì dựa hơi, bắt nạt người khác, hoặc to tiếng khẳng định lập
trường của mình. Trong lúc chưa có người thì người ta để yên, mượn tay các ông
để răn đe người khác. Khi có đầy đủ nhân sự thì cho các ông “chầu rìa”. Lúc đó
các ông mới biết cái “lố bịch” của mình đối xử với anh em thì đã muộn. Có người
phải tránh mặt anh em vì khi gặp nhau ngượng ngùng mắc cở. Có người bắt đầu ngồi
quán café chửi đổng vì bị thất sủng.
Có lẽ trong buổi giao thời, tranh tối tranh sáng,mình mới thấy
được những bộ mặt “ghê tởm” nầy xuất hiện. Họ như những tên hề đứng trên sân khấu
múa may mà không biết trơ trẽn, cũng may những cây bút nầy “cách mạng” không
cho viết thoải mái trên báo chí, chứ họ được cầm bút thì họ sẽ “phơ” không biết
bao nhiêu đầu rụng vì họ. Không biết họ phải ăn nói thế nào với anh em bây giờ?
Những người đàng hoàng họ tránh xa những loại nầy.
Vụ án “Hồ Con Rùa”, những tay “biệt kích” cầm bút, đều có
thành phần nầy đứng bên trong chỉ điểm, chứ một mình Huỳnh Bá Thành không thể lập
hồ sơ thanh toán các văn nghệ sĩ có máu mặt của Sài Gòn trước đây được. Nói thế
để biết rằng anh em nạn nhân đều đoán biết ai hại mình, nhưng vì không có bằng
chứng xác đáng nên họ lờ đi. Bây giờ có đem chuyện nầy ra tranh cãi cũng chẳng
đi tới đâu, gây thêm sứt mẻ, thù oán nhau. Cái bối cảnh lúc ấy thật nhố nhăng,
thật sắt máu, nghi kỵ lẫn nhau, chà đạp nhau để kiếm điểm, để vươn lên. Những
người lập công cho “cách mạng” kiểu nầy dần dần bị đào thải, anh em thì xa
lánh. Họ thui thủi như một bóng ma. Cho đến bây giờ thời gian quá lâu, mọi chuyện
đã phôi pha, trong lòng mọi người không có ai muốn nhớ lại. Một bài học cho con
người về xử thế.
Những năm đầu “giải phóng” người Miền Nam không có ai ra được
Miền Bắc để trông thấy ngoài ấy ra sao? Tôi có một thằng bạn thuộc “gia đình
cách mạng”, muốn đi một chuyến ra Bắc thế nhưng phải năm lần bảy lượt mới đi được,
phải cái cỡ thứ trưởng bảo lãnh mới được cấp giấy cho đi. Sau khi trở về hỏi gì
nó cũng không nói chỉ lắc đầu. Một bữa tôi với nó đi uống café, nó nói nhỏ vào
tai tôi là trước khi nhận giấy được đi ra Bắc, người ta dặn không được nói với
ai về cuộc sống ngoài đó, nên nó không dám nói chuyện nầy với ai. Sau mấy đêm
suy nghĩ, nó tự thấy như vậy là không đúng, tại sao không nói cho thiên hạ biết
“chiếc nôi” của Chủ Nghĩa Xã Hội, cái thiên đường nầy đã đánh đổ Miền Nam để cả
nước cùng tiến lên. Nó không thể nào tưởng tượng Miền Bắc nghèo đói và lạc hậu
đến thế. Phố xá cũ kỷ dơ bẩn, ngoài đường áo quần chỉ mỗi một màu ô-liu, thỉnh
thoảng mới thấy màu xanh đậm hình như cho công nhân, họa hoằn lắm mới thấy chiếc
áo trắng, còn xe đạp bạt ngàn, không thấy có một chiếc xe gắn máy nào, nếu
có thì chắc từ Miền Nam mang ra. Hà Nội dưới mắt nó sao thấy thảm thương quá chừng.
Sau đó nó nói với tôi bằng giọng mỉa mai; “Tiến lên xã hội chủ nghĩa như vậy đủ
rồi, còn tiến mạnh tiến nhanh thì chắc chết quá mầy ơi”.
Mười năm sau (1985), tôi có một việc phải ra Miền Bắc vì mấy
cái hợp đồng với thương nghiệp ngoài đó. Tôi đứng giữa Hà Nôi mà lòng thấy se
thắt. Mấy chục năm người dân “văn vật” chịu đựng một cách dai dẳng mà không nổi
loạn nghĩ cũng lạ thật. Áo quần nghèo nàn nhưng con gái Hà Nội mặt mày sáng
trưng, phần đông người con gái đẹp hơn các thành phố trong Nam. Dưới con mắt của
tôi, cái nét thanh lịch chỉ còn lại trên nét mặt của người con gái Hà Nội, còn
bao nhiêu cái khác sau hai mươi năm Xã Hội Chủ Nghĩa đã tẩy sạch hết, tiêu tan
hết.
Mấy năm trước đây có nhiều văn nghệ sĩ Hà Nội qua Boston
theo chương trình của William Joiner mà tôi đã gặp. Trong lúc trà dư tửu hậu
tôi có nói với họ về chuyện ra Miền Bắc của tôi năm 1985, họ đều cười và nói với
tôi rằng có dip bây giờ nên ra Miền Bắc một chuyến, mọi thứ đều thay đổi một
cách chóng mặt. Thế thì cái chính sách Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ còn trên lý thuyết,
mọi người dân bây giờ giàu có và không còn tiến nhanh tiến mạnh như khi xưa, mà
họ chạy đua theo kịp đà tiến hóa của tư bản. Đó là một bước tiến đáng mừng cho
dân chúng, để họ được hưởng những tiện nghi, những phúc lợi mà thế giới đã
giành được trong những phát minh phụng sự cho con người. Đứng trên phương
diện nhân bản thật đáng mừng cho những mảnh đời tưởng rằng sẽ sống trong tăm tối
mãi mãi. Bây giờ ấm no hơn, thoải mái hơn tuy nhiên vẫn còn bị những rào cản về
tự do, dân chủ còn siết chặt.
Tôi có dịp lên Thái Nguyên nhìn những cánh đồng chè bạt
ngàn, những người hái chè buổi sáng sớm trong sương mù thật tội nghiệp, đồng
lương công nhân của công ty chè quốc doanh không bao nhiêu, mà phải chịu cực khổ
một cách nặng nề. Tôi cũng có dịp đi Quảng Ninh trông thấy công nhân mỏ than
lam lũ trong hầm mỏ. Không biết những nhà lãnh đạo của giai cấp nầy trước đây
có giống như anh chị em công nhân, mặt mày lấm lem, sống trong điều kiện kham
khổ như vậy không. Chứ bây giờ nhìn họ thấy không khá nổi. Còn nhiều cảnh thật
tang thương cho một chế độ xã hội chủ nghĩa mà họ ca tụng như là thiên đường.
Thú thật tôi vỡ mộng.
Trước đây tôi không tin những gì mà bộ máy tuyên truyền của
Miền Nam khi nói về Miền Bắc. Tôi không tin những tác phẩm của Xuân Vũ nói về
chế độ Miền Bắc. Tôi cho đây chỉ là những tuyên truyền rẻ tiền để hạ nhau, chứ
thực tế không đến nỗi như vậy. Sau khi ra Hà Nôi, tận mắt nhìn thấy đời sống
dân chúng, chứng kiến cảnh làm việc, nhìn thấy sinh hoạt của người dân từ nông
thôn đến thành thị, trật tự xã hội bị đổ nhào, đạo đức văn hóa không ai cần phải
giữ gìn, những cảnh trắng trợn liệm người không cảm thấy xấu hổ. Tàu hỏa và xe
buýt là nơi bọn đầu trộm đuôi cướp hoành hành trắng trợn mà cơ quan công lực
không làm gì được. Dân chúng bị hà hiếp không biết kêu than nơi đâu. Phải công
nhận là người dân Miền Bắc chịu đựng cái cảnh tai trời ách nước một cách cay
nghiệt, mà họ không hề phản kháng, chỉ cắn răng chịu đựng. Mà phản ứng làm gì
được khi mà bao tử đói meo, chỉ lo mỗi cái ăn chưa xong, hơi đâu phải ôm đồm
chuyện khác.
Xe chạy đến huyện Kỳ Anh (tôi không nhớ thuộc tỉnh nào vì
lâu quá, (hình như là Hà Tĩnh). Chúng tôi vào một quán cơm bên đường, người con
gái bán cơm rất đẹp, nói giọng Hà Nội. Tôi nghĩ giữa một một nơi đồng không
mông quạnh, lại có người nho nhã, ăn nói lễ phép và đồ ăn rất ngon. Trong lúc
đó ngay tại Hà Nội chưa có quán ăn nào vừa ý. Tôi cũng xin nói thêm chỗ nầy, Hà
Nội lúc đó tìm một quán café cũng rất khó. Đi ăn phở phải xếp hàng và trả tiền
trước. Đặc biệt khi chúng tôi cũng xếp hàng thì người giữ trật tự mời vào ngồi
bàn trước, ăn xong mới trả tiền (ưu tiên cho dân Miền Nam). Tôi hỏi người thu
tiền tại sao chúng tôi được đặc ân như vậy. Thì họ trả lời là phải thu tiền trước
để biết họ muốn ăn bát phở giá bao nhiêu, thì làm đúng với giá tiền, nếu không
họ chỉ trả ít hơn thì mình không biết phải làm sao, hoặc ăn xong không trả tiền
rồi bỏ chạy. Còn các anh ở Miền Nam đã quen với cái lối trả tiền sau, các anh
nhắm mình có đủ tiền mới vào quán và nếu có bỏ chạy thì các anh không biết đường
nào mà chạy thoát được. Vì vậy chúng em phải tiếp các anh như ở Sài Gòn vậy.
Chính quyền cách mạng xem tụi tôi như một thứ ghẻ lở, nhưng bà con Miền Bắc thì
lại xem tụi tôi rất thân tình. Sau khi ăn xong, tôi hỏi về gia đình và giọng
nói của cô gái khác với những người chung quanh đây. Cô ấy cho biết là cha mẹ
cô là dân Hà Nôi chính gốc, sau 54 bị tịch thu nhà cửa và đi kinh tế mới nên phải
trôi giạt vào đây. Cô hiện thời là sinh viên, cuối tuần phải về để giúp đở cha
mẹ bán cơm. Nhìn hình ảnh của cô tôi liên tưởng đến những bà con ở Sài Gòn đi
kinh tế mới. Chắc chắn họ không được may mắn như gia đình cô hiện thời, cái gốc
Sài Gòn của họ rồi cũng sẽ mất. Nhà to cửa lớn của họ đã được các “quan cách mạng
tiếp thu”, đổi chủ một cách hà khắc.
Chưa có một cuộc sống nào cay nhiệt người dân phải chịu đựng
oan ức như trong cái thời “giải phóng”. Tôi nhìn ra cánh đồng xa xa những chiếc
áo tơi (chầm bằng lá buông mà vào khoảng thập niên 60 không còn thấy xuất hiện
tại Miền Nam), nhấp nhô trên đồng ruộng. Tôi hỏi cô gái trời nắng như vậy mà tại
sao phải mặc áo tơi. Cô ta cho biết, làm gì có áo mặc để làm ruộng, họ mặc áo
tơi để thay cho áo
vải. Nhìn qua cánh đồng khác tôi thấy người kéo cày thay cho
trâu bò. Một cái cảnh lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy, thân hình thiếu ăn ốm
o, choàng sợi dây trên vai kéo cái cày có một đứa bé đứng phía trên, thật tội
nghiệp. Những năm của Miền Bắc đi trước Xã Hội Chủ Nghĩa đã gặt hái những gì tốt
hơn cho người dân? Cái cảnh trông thấy trước mắt mà tôi có dịp ra Miền Bắc, cho
tôi một bài học là phải bằng mọi cách tìm đường ra nước ngoài, nếu không thì
quá trễ và viễn ảnh cho thấy cuộc đời sẽ khốn nạn, thê thảm, bần cùng như bà
con ruột thịt Miền Bắc đang gánh chịu..
Một chuyện buồn cười, xe của chúng tôi tới phà Bến Thủy chờ
lên phà để về lại trong Nam. Đoàn xe nối đuôi nhau dài cả cây số, tôi nghĩ
trong bụng ở đây chờ ít nhất phải hai ngày trời mới tới phiên mình, vì lúc ấy
chiếc “phà” chỉ chở được bốn chiếc xe vừa qua lai mất cả tiếng đồng hồ. Nói là
“phà” cho nó oai vậy chứ quả thật là mấy cái phao cột dính lại với nhau, một
chiếc tàu nhỏ như ca-nô kéo đi. Tôi nghe các tài xế chạy trên đường xuyên Việt
kể lại rằng trong mùa nước lũ, phà bị đứt dây trôi mất là chuyện thường. Tôi hỏi
thế thì xe và người trên phà phải làm sao? May mắn thì được vớt, còn không thì
chết thôi. Chuyện quan trọng như vậy mà người kể chuyện xem như thường và những
cơ quan có trách nhiệm điều hành về phà qua lại trên sông, tỉnh bơ xem đó không
quan trọng, không phải trách nhiệm của mình. Chiếc phà bao năm vẫn không thay đổi.
Cho nên mấy chiếc phà bắt qua bắc Cần Thơ hay bắc Vàm Cống thấy rất an toàn.
Đang ngồi trên xe tán chuyện với nhau, thì người phu cầm cờ đỏ chạy đến xe
chúng tôi hỏi có cần phải qua phà nhanh không? Người tài xế hỏi ông giá bao
nhiêu. Ông trả lời muốn đi ngay thì cho nhiều một chút, muốn qua phà chậm thì
ít hơn. Người phu cầm cờ đỏ đưa hai ngón tay (có ý là hai trăm đồng) chạy
ngay. Hai trăm đồng lương công nhân thuở đó là năm mươi đồng một tháng.
Ông ta cầm cờ đỏ giơ cao chạy trước, miệng la lớn: “Anh em Miền Nam giúp đở anh
em Miền Bắc”. Họ xem cái chuyện đút lót nầy là bình thường, là công khai cho những
chiếc xe khác noi theo. Chiếc xe của tụi tôi ưu tiên xuống trước. Đứng trên phà
qua sông, thật tình tôi ngao ngán cho một xã hội mà tôi đã chứng kiến trên Miền
Bắc. Rồi đây Miền Nam của chúng tôi sẽ lăn trên vết xe của đồng bào ngoài kia
đã trải qua. Bây giờ chúng tôi đã thấy ngột ngạt khó thở, người ta đã bắt đầu
áp dụng đường lối cứng rắn để uốn nén dân Miền Nam rập khuôn Miền Bắc.
Xe chạy đến Quảng Bình, thành phố xem như bình địa vì bị bom
của Mỹ rải nát, mười năm sau vẫn còn nguyên si, không sửa chữa. Thành phố lợp
tranh trên những nền nhà cũ. Nhà thờ chính Quảng Bình chỉ còn trơ lại gác
chuông. Dấu tích chiến tranh vẫn chưa xóa, nhìn thành phố chúng ta đủ biết nơi
đây đã nhận biết bao nhiêu bom đạn. Chúng tôi vào uống nước tại một căn nhà
tranh trên quốc lộ, người chủ quán là một anh thương binh trạc tuổi tôi. Lúc đầu
mới vào anh nói chuyện với chúng tôi sặc mùi Cộng Sản. Chẳng hạn như về những
năm tháng chiến tranh mà Quảng Bình nhận lãnh hậu quả nặng nề nhất. Anh nói rất
tự hào: “Quảng Bình quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Người dân Quảng Bình kiên
cường đứng đầu cả nước chống giặc xâm lăng Mỹ”. Tụi tôi chỉ lắng nghe anh thao
thao bất tuyệt về chiến tranh, về chính sách, về con người sống thế nào cho phù
hợp chế độ. Luận điệu nầy tôi đã từng nghe những người thắng trận lớn lối nói
ra rả vào tai tụi tôi. Anh hỏi tôi trước khi hòa bình tôi làm gì ở Miền Nam.
Tôi không trả lời ngay câu hỏi của anh, tôi vén ống quần cho anh thấy cẳng chân
giả làm bằng plastic của tôi. Tôi chỉ trả lời vổn vẹn: “Tôi là người lính của
Miền Nam”. Sau khi nhìn thấy sự mất mát thân thể của tôi, sau khi nghe tôi xác
định một cách chắc nịch về con người thật của tôi. Con người mà đứng trên chiến
tuyến là đối nghịch với anh. Tôi nói không có một chút thù hận, không tranh cãi
với anh, tôi chấp nhận danh phận không may mắn của tôi. Thái độ nầy tôi làm cho
anh bất ngờ lúng túng. Tôi thấy anh ngồi suy tư, nhìn tôi có chút ngậm ngùi.
Anh thấy những gì anh nói với tôi đều là những câu tuyên truyền không cần thiết,
mười năm “giải phóng” tôi đã hiểu rõ chân tướng của chế độ, có đánh bóng nó
cách mấy cũng không thể che đậy cách trả thù hèn hạ trên đầu anh em chúng tôi.
Tôi trả tiền nước rồi ra xe, anh chạy theo bắt tay tôi thật chặt, anh nói là
anh cảm thấy mắc cở ăn nói quá nhiều hàm ý tuyên truyền, khi nhìn thân thể tôi,
anh biết không dễ gì lay chuyển được tôi. Dù là người bại trận, đang sống dưới
chế độ thù nghịch, tôi vẫn không tránh né về thân phận của mình.
Từ Quảng Bình về Quảng Trị con đường gập ghềnh, lởm chởm. Xe
qua cầu Hiền Lương, chiếc cầu lịch sử ngăn chia Nam Bắc. Chiếc cầu nhỏ nhắn, dễ
thương, nó đứng giữa ranh giới chứng kiến biết bao nhiêu tai ương đổ xuống trên
đầu nhân dân hai miền Nam-Bắc. Nó ngăn cách không những chế độ bên nầy, bên
kia, mà nó còn ngăn cách cả lòng người, xé tan tình tự của dân tộc. Bao nhiêu
năm hòa bình mà ấn tượng, đố kỵ còn nặng nế quá vẫn chưa biết làm sao nối lại
được. Chiến tranh chỉ trong vòng 20 năm, mà đến 35 năm sau sống trong hòa bình
vẫn chưa có cách nào chung sống trong tình anh em ruột thịt. Tuy không còn cầm
súng giết hại nhau, không còn ranh giới phân chia chiến tuyến, thế nhưng bức tường
chắn giữa lòng người (nói theo kiểu Tưởng Năng Tiến) vẫn còn kiên cố ngăn cách
đôi bên, không ai chịu phá bỏ và quên đi cái thời xa xưa nhục nhã của dân tộc.
Chút hồi ức nầy không dụng ý khơi dậy đống tro tàn, nhưng để
nói lên cho chúng ta biết “có một thời như thế”, một thời mà không muốn nhớ lại,
và rồi, cũng không thể nào quên được !!!
Phan Xuân Sinh