18 April 2020

PHI VỤ BÍ MẬT TRÊN ĐẤT THÁI LAN (1) - Vũ Uyên Giang


Lời nói đầu: Ðây là một câu chuyện có thật xảy ra tại Thái Lan năm 1982. Tác giả ghi lại theo ký ức của mình. Những đối thoại, cách nói và nhân vật đều được viết một cách trung thực như tác giả được biết khi phụ trách việc điều tra trong vai trò một Sĩ quan An ninh thuộc Toà Ðại sứ Hoa Kỳ ở Bangkok. Các tài liệu này thuộc loại TUYỆT MẬT của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, nay đã được giải mật sau hơn 30 năm nên tác giả mới ghi lại thành truyện ngắn. – VUG
Chuyến bay bí mật
Chiếc phi cơ hai cánh quạt Antonov 26 do Nga sô chế tạo từ từ tiến ra phi đạo, chuẩn bị cất cánh. Lái chính (1) Ðại úy Lương Xuân Chương phối kiểm với Ðài kiểm báo và chờ lệnh. Hôm nay bầu trời phi trường Pochentong trong xanh, không gợn một áng mây. Ðài khí tượng cho biết thời tiết rất tốt, không có mưa. Chương đưa mắt nhìn lái phụ (1) Thiếu úy Nguyễn Văn Minh, nói trong ống liên hợp: “Ðồng chí sẵn sàng chưa?”. Minh gật đầu: “Báo cáo thủ trưởng sẵn sàng”. Tiếng rè rè phát ra từ radio rồi có lệnh của Ðài kiểm báo cho phép cất cánh. Chương cho phi cơ chạy vào phi đạo… Chiếc phi cơ tăng dần tốc độ rồi cất đầu lên cao, bay vào không trung. Chương cho phi cơ bay lượn vòng về phía tây của phi trường quốc tế Pochentong. Thành phố Nam Vang nhấp nhô phía dưới bụng chiếc máy bay những mái ngói mầu đỏ chói chang dưới ánh nắng, những tàn cây như đan vào nhau thành từng mảng màu xanh thẫm. Các con đường ngoằn ngoèo lúc ẩn lúc hiện vì bị che khuất bởi những hàng cây dọc theo các đường lộ. Tòa Hoàng Cung (The Royal Palace), nơi Vua Norodom Shihanouk ở là dinh thự đồ sộ nổi bật giữa thủ đô Nam Vang và ngôi chùa danh tiếng Wat Phnom rộng thênh thang với những vòm cây cổ thụ có hàng đàn khỉ nhảy nhót trên cành cùng những thớt voi nhẩn nha đi trên những thảm cỏ xanh nhìn thấy rõ mồn một từ trên phi cơ. Dẫn đường (2) Trung úy Hoàng văn Chính ngồi trước la bàn điện phía sau hai người hoa tiêu đang theo dõi hướng bay của phi cơ để hướng dẫn cho hai viên hoa tiêu.
Chính nói trong hệ thống truyền tin: “Báo cáo đồng chí, ta cho phi cơ về hướng tây bắc”. Chương lên cao độ 10,000 bộ, lấy bình phi cho phi cơ bay theo hướng của dẫn đường. Chiếc phi cơ bỏ thành phố Nam Vang lại sau lưng, phía dưới là những cánh đồng xanh rì màu mạ non trên những thửa ruộng lấp xấp nước, trông vuông vức như những bàn cờ tướng. Từ trên cao nhìn xuống, Chương thấy vùng ngoại ô U Dong và ngọn núi Phnom Aoral cao 1813 mét sừng sững. Phía xa hơn bên tay phải là Biển hồ Tonlesap rộng mênh mông; bên phía trái dãy Cardamom Mountains mờ mờ ẩn hiện qua làn mây mỏng.

Ngoài khoang hành khách, Trưởng đoàn Ðại úy Nguyễn Ngọc Ðại thuộc cơ quan A.40 (3) đang lim dim, trong khi viên cơ khí Hạ sĩ Nguyễn văn Khải ngồi phía cuối phi cơ đang mơ màng nghĩ đến cô bạn gái còn ở Hải Phòng. Khải mới tạm biệt cô trở lại đơn vị Không quân trú đóng ở phi trường Tân Sơn Nhất sau 7 ngày phép ngắn ngủi về Hải Phòng thăm gia đình, thì được lệnh đi công tác. Hương thơm con gái còn quyện trong anh… Người khách thứ hai thuộc đoàn cán bộ đi công tác hôm nay còn có Trung úy Lê Văn Thái thuộc Cục Quân Báo O.2 (4) đang ngó ra ngoài khung cửa sổ nhìn những cánh đồng phía dưới từ từ trôi về phía sau phi cơ. Trung úy Ðoàn văn Mễ thuộc Cục Tình báo Chiến lược O.22 (4) đang đọc một xấp giấy tờ trong tay, Trung úy Nguyễn Văn Thịnh thuộc Cục Bảo vệ (4) và 5 nhân viên khác thuộc 2 Cục O.2 và O.22 mang quân hàm từ Trung sĩ đến Thiếu úy người thì ngồi ngó mung lung như gửi hồn về xa xăm, người khác thì thầm trò chuyện với bạn đồng hành ngồi bên cạnh, người thì âu lo nghĩ ngợi… Trên nét mặt người nào cũng hiện nét băn khoăn cho công tác bí mật đang phải thi hành.
Trung úy Lê Văn Thái đang nghĩ đến những đồng chí của mình công tác tại vùng Bắc Thái mà anh sẽ gặp lại hôm nay. Thằng Toán còi, bạn thân từ thuở học cấp 1 ở trường làng, sang công tác ở Thái đã hơn hai năm nay không gặp, chẳng biết bây giờ có béo lên chút nào chưa hay vẫn gầy như que củi cho xứng với cái tên Toán còi của nó. Thằng Pha khểnh con bà Cả Ngợi ở đầu làng nói cà lăm không biết đã bớt cà lăm chưa? Nhất là đồng chí gái Phan Thị Sen con ông Ba Sứt, cô bạn học ở cạnh nhà, Thái thầm yêu từ lúc học cùng trường Quân báo mà chưa kịp phát triển tình cảm thì Sen đã nhận công tác đi chiến trường E (chiến trường Bắc Thái). Không biết Sen bây giờ ra sao, đã có người yêu chưa? Thái nghĩ nếu gặp lại Sen, nàng vẫn chưa yêu ai, anh nhất định sẽ ngỏ ý với nàng và nếu nàng nhất trí, anh sẽ xin đảng bộ xét duyệt. Anh cũng biết chuyến công tác lần này sẽ có rất nhiều gian nan, nhưng khi đảng đã bố trí thì dứt khoát thi hành. Là một đảng viên trung kiên như anh thì phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của đảng. Ðồng chí Nguyễn văn Sắc, bí thư đảng ủy Phòng Công tác thuộc Cục O.2 đã quán triệt trước khi giao nhiệm vụ cho Thái và các đồng chí khác thuộc Cục O.2 chung trong Ðoàn công tác hôm nay:
– Nghị quyết của Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng đã hạ quyết tâm làm nhiệm vụ Quốc tế vô sản nên đã bí mật gửi các đồng chí sang công tác ở nước ngoài, đó là một nhiệm vụ cao cả và vinh quang mà những đồng chí được chọn lựa để trên giao phó trách nhiệm. Là những đảng viên với khẩu hiệu “Ở đâu cần, thanh niên có; việc gì khó, có thanh niên”, các đồng chí cần làm tốt mọi công tác đảng giao phó để xứng danh là con cháu bác và đảng…
Rồi lại được đồng chí Nguyễn Ngọc Ðại, thay mặt đồng chí Lê Ðức Anh lên lớp động viên tại cơ quan A.40 ở Nam Vang trước ngày xuất quân và cả đoàn cũng đã hồ hởi hạ quyết tâm sẽ làm tốt nhiệm vụ hoàn thành công tác đảng giao. Thái bâng khuâng nghĩ đến chiến trường xa với những địa danh lạ lẫm khó đọc, khó nhớ và những công tác trong những ngày sắp đến; dù đã được học tập chỉnh huấn trong đợt rèn cán chỉnh quân đặc biệt dành cho những cán binh được chọn đi công tác, được quán triệt sâu sắc về tình hình xã hội và các tình huống ở nơi anh sắp đến phục vụ, nhưng anh vẫn còn một chút lo âu trong lòng.
Trung úy Ðoàn văn Mễ cầm tập hồ sơ có đóng dấu TUYỆT MẬT màu đỏ chói do Thượng tá Nguyễn Xuyên, Tư lệnh gửi về Tổng cục Tham Mưu và Cục Tình Báo Chiến Lược để báo cáo trình trạng quân số của Mặt trận E (5) mà anh có nhiệm vụ đi thực tế để kiểm tra. Mễ nghĩ, đảng ta lãnh đạo thật tài tình sáng tạo, sau khi ổn định được chiến trường K (Kampuchia) đã triển khai kế hoạch chiến lược quốc tế vô sản gây dựng được lực lượng trên chiến trường Thái Lan; thật đúng với câu “Chủ nghiã Mác Lê bách chiến bách thắng…” Quốc tế cộng sản đã chọn đảng CSVN để giao cho nhiệm vụ quốc tế là đúng vô cùng vì đảng ta đã vừa đánh thắng tên đế quốc Mỹ sừng sỏ, lại vừa giải quyết xong chiến trường Kampuchia. Anh nghĩ đến điều mà Thủ trưởng đơn vị đã nhiều lần giảng cho các đảng viên đơn vị trong các đợt tập huấn là: “…Ngay chính quyền Lào và Cămpuchia cũng do đảng CSVN lãnh đạo, những cán bộ đảng viên cao cấp đang lãnh đạo hai đất nước này cũng là người của ta…” Anh mơ ước một ngày kia sẽ được vào thủ đô Bangkok của Thái, nghe nói rất đẹp. Niềm mơ ước ấy rộn rã trong anh, anh mỉm cười sung sướng…
Chiếc phi cơ Antonov 26 vẫn phát ra những tiếng động ầm ĩ bởi hai cánh quạt quay tít. Phía dưới đã là những cánh rừng ngút ngàn, sừng sững từng tàn cây cổ thụ cao vút như một tấm thảm màu xanh. Chương nhìn qua cửa kính, bầu trời trong vắt, lãng đãng vài cụm mây mỏng, mờ nhạt lờ lững trôi trong không gian. Anh nhìn xuống thấy Angkor Wat (Ðế Thiên) mang nét văn minh Hindu giáo (6) hiện ở phía dưới trong một khuôn viên rộng nhiều dặm vuông. Kiến trúc đồ sộ mang nét văn hóa đặc thù Khmer, được Vua Suryavarman II (1113- 1150) cho xây dựng từ đầu Thế kỷ 12. Phía Bắc Angkor Wat là Angkor Thom (Ðế Thích) mang nét văn minh Phật Giáo. Ðây là một Thành cổ kiến trúc vĩ đại và mỹ thuật với 54 tháp bằng đá và khoảng 200 tượng mặt thần Avelokitesvana, được điêu khắc tinh vi bằng các tảng đá lớn xếp chồng lên nhau; nhiều pho tượng đã có những cây lớn với rễ phụ chằng chịt mọc từ các kẽ đá. Phật giáo Campuchia chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Ðộ nên các mặt tượng Phật đã được Vua Jayavarman VII (1181- 1201) cho những nghệ nhân thời ông chạm trổ dựa theo một nửa mặt tượng Phật của Ấn Ðộ và một nửa dựa theo khuôn mặt của chính nhà Vua. Chính giữa Angkor Thom là ngôi Chùa Bayon với những tượng Phật bốn mặt diễn tả nhiều trạng thái khác nhau theo tứ diệu đế của nhà Phật. Ðây là một kỳ công trên thế giới vì với các phương tiện thô sơ của Thế kỷ 12, mà đã tạo dựng được những pho tượng đá chạm trổ tinh vi, chồng chất lên nhau, chỉ bằng sức người…
Chương đã bay ngang qua Ðế Thiên – Ðế Thích (6) ở tỉnh Siem Reap chừng 15 phút; như vậy là sắp đến vùng biên giới Thái – Miên thuộc tỉnh Battambang. Nơi anh phải thả những người khách trên máy bay xuống là vùng rừng núi ở biên giới thuộc địa phận của Thái Lan và tỉnh Poi Pet của Kampuchia. “Phải cẩn thận mới được!” Chương thầm nghĩ…
Những người khách không mời
Tiếng động cơ chợt có những âm thanh nổ lộp bộp một cách lạ lẫm, nó không dòn và đều như thường lệ. Cơ khí Nguyễn Văn Khải nói trong ống liên hợp:
– Báo cáo đồng chí lái chính, phát hiện máy tàu có sự cố kỹ thuật. Động cơ bên trái có khói bốc ra.
Chương nhìn thấy chiếc cánh quạt bên trái của phi cơ có vấn đề, dường như nó quay chậm hẳn lại. Anh hạ cao độ, chiếc phi cơ xuống thấp dần… Tiếng động cơ càng lúc càng có nhiều tiếng nổ hơn. Bên cánh trái có một chút khói bốc ra chỗ cánh quạt. Anh nói với lái phụ Nguyễn Văn Minh qua ống liên hợp:
– Ðồng chí ra báo cho đồng chí Trưởng đoàn cán bộ biết tình huống và yêu cầu mọi người bình tĩnh. Có lẽ ta phải khẩn trương đáp xuống ruộng mới kịp.
Minh rời buồng lái ra khoang hành khách. Anh nói thật nhanh cho mọi người biết tình hình trên phi cơ và yêu cầu khách giữ bình tĩnh. Anh cũng mời Trưởng đoàn Nguyễn Ngọc Ðại hội ý với đồng chí lái chính. Ðại chụp ống liên hợp Khải vừa đưa đeo vào đầu. Anh nghe tiếng Lương Xuân Chương:
– Báo cáo đồng chí! Máy bay có sự cố kỹ thuật nặng. Ðể cứu sinh mạng mọi người trên tàu, tôi quyết định khẩn trương đáp xuống ruộng vì tàu có khả năng phát nổ. Các đồng chí giữ trật tự và bình tĩnh. Tôi chưa xác định được ở đây còn trên đất bạn hay ta đã vào đất Thái; yêu cầu là các đồng chí giữ bí mật công tác phòng khi bị các cơ quan quân chính Thái hỏi han nếu nơi ta xuống là đất Thái.
– Ðồng chí cứ vững tay lái. Tôi sẽ quán triệt với các đồng chí trong đoàn để nhất trí với đồng chí.
Ðại tháo ống liên hợp, quay sang phía các bạn đồng hành, hội ý với những đoàn viên trong đoàn:
– Ðồng chí lái chính vừa thông báo về sự cố kỹ thuật của máy bay, khả năng có thể phải hạ cánh xuống ruộng. Yêu cầu các đồng chí trong bất cứ tình huống nào cũng giữ vững khí tiết cách mạng, bảo mật cơ quan và hoạt động. Việc hạ cánh có thể có nguy hiểm, các đồng chí phải kiên cường. Phương án một, nếu vùng hạ cánh vẫn thuộc đất K (Campuchia), ta sẽ ít bị nguy hiểm vì dễ liên hệ với đơn vị ta đang trú đóng trên đất bạn. Phương án 2, có thể ta sẽ đáp xuống đất Thái, sự nguy hiểm cao hơn, các đồng chí phải cảnh giác nhiều hơn và tuyệt đối bảo mật.
Mọi người trên máy bay đều xôn xao, lo âu đưa mắt nhìn nhau. Mỗi người suy nghĩ một cách riêng, lo sợ riêng. Dù Ðại dặn dò phải kiên cường, nhưng trước sự nguy hiểm đến tính mạng, không ai còn đủ bình tĩnh để giữ can đảm.
Phi cơ xuống thấp dần, những cánh đồng mạ xanh rì, những ngôi nhà sàn và những tàn cây loang loáng trước mặt, chung quanh. Chương giảm tốc độ, đẩy cần lái xuống thấp và quay những cánh chắn gió hai bên cánh cho máy bay đáp xuống mảnh ruộng lúa. Anh không dám mở bánh mà đáp bằng bụng xuống đồng ruộng. Phi cơ nẩy lên như cóc nhẩy trên mặt ruộng lúa, những hành khách trên phi cơ bị nhồi xốc mạnh. Cơ khí Nguyễn văn Khải vì chưa kịp thắt dây an toàn, bị hất tung lên đập đầu vào cánh cửa sắt cuối phi cơ, máu loang trên sàn… Tiếng máy rú lên phành phạch những âm thanh chối tai và cuối cùng chiếc Antonov 26 của Nga chế tạo ngừng hẳn lại khi đâm vào một mô đất. Lương Xuân Chương, Nguyễn văn Minh, Hoàng văn Chính rời phòng lái, mở cửa vào khoang hành khách. Trong khi Minh loay hoay mở cửa cấp cứu, thì Chương dục mọi người gấp rút rời tàu.
– Yêu cầu các đồng chí khẩn trương rời tàu bằng cửa cấp cứu. Khi xuống đến mặt bằng, các đồng chí chạy ra xa và tập kết ở một chỗ để hội ý.
Hoàng văn Chính chạy xuống cuối phi cơ vác Khải ra khỏi lòng máy bay. Người Khải rũ xuống, hơi thở thoi thóp.
Mười hai người sống sót chạy lúp xúp trên cánh đồng lúa, nước bắn tung tóe trên mặt, bùn văng đầy trên những bộ quân phục màu xanh rờn của loại kaki Nam Ðịnh. Nguyễn Ngọc Ðại ra lệnh cho mọi người tập kết ở một đụn rơm cách xa chỗ máy bay khoảng 200 mét. Chính đặt Khải nằm xuống mặt đất chỗ bằng phẳng, đưa tay rờ vào ngực Khải, ngay chỗ trái tim, rồi quay qua Ðại, lắc đầu. Trên khuôn mặt thất thần hoảng hốt của những người sống sót lộ vẻ thương hại người bạn đồng hành xấu số.
– Yêu cầu các đồng chí kiểm tra xem có bị thương tích gì không. Có khả năng ta đã đổ bộ xuống đất Thái Lan, yêu cầu các đồng chí tháo gỡ các quân hàm và xé bỏ các giấy tờ cá nhân, cũng như tài liệu khiến địch có thể phát hiện tung tích chúng ta. Các đồng chí trong đoàn bay, cứ nhất trí chuyến bay của ta xuất phát từ Pochentong bay về Tân Sơn Nhất và bị lạc. Các đồng chí hãy kiên cường, nén đau thương để bảo toàn bí mật cho đảng. Yêu cầu các đồng chí cùng đứng dậy chào vĩnh biệt đồng chí Hạ sĩ Nguyễn văn Khải thân yêu của chúng ta đã hy sinh cho bác và đảng; đó là một cái chết vinh quang. Nhân danh đảng, tôi biểu dương đồng chí Nguyễn văn Khải. Các đồng chí hãy tiễn biệt đồng chí Khải về với bác Hồ kính yêu.
Mọi người lục tục đứng dậy theo lệnh hô nghiêm của Ðại, cùng đưa tay chào tử thi của Hạ sĩ Nguyễn văn Khải nằm dưới đất. Ðại cất tiếng hát và mọi người cùng cất tiếng hòa theo:
“Hôm nay trên đường hành quân ra mặt trận,
Trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác…”

Từ trong thôn làng gần chỗ chiếc phi cơ đáp xuống ruộng, những người dân và những người cảnh sát Thái chạy đến hiện trường. Họ vây quanh 12 cán binh VC lôi thôi, lếch thếch, bê bết bùn đất, tò mò nhìn chúng như nhìn những con quái vật. Trên con đường đất từ phía làng có mấy chiếc xe pickup truck (7) phóng ào ào đến, bụi tung mù mịt; trên xe, những người quân nhân Thái mặc quần áo rằn ri, trang bị súng ống, áo giáp và nón sắt. Một viên Trung úy đeo súng ngắn nhẩy xuống xe khoát tay ra hiệu cho binh sĩ của anh bao vây quanh chỗ các cán binh Việt cộng. Anh ra lệnh cho dân làng tránh xa khu vực để anh dễ dàng thi hành nhiệm vụ. Nguyễn Ngọc Ðại nghe và hiểu được tiếng Thái, Lê văn Thái và Ðoàn Văn Mễ cũng thế, nhưng họ vẫn giả vờ như không hiểu khi viên Trung úy hỏi bằng tiếng Thái: “Lý do tại sao các ông đáp xuống Tỉnh Sakaeo của Thái? Các ông đã vào sâu trong đất Thái 60 kms, các ông có biết không?” Cả ba viên sĩ quan đều giả bộ ngơ ngác ù ù cạc cạc như không hiểu. Những người dân làng mang nước đến, viên sĩ quan cho phép phát cho các nạn nhân của chiếc phi cơ Antonov 26. Viên Trung úy Thái gọi máy báo cho cấp chỉ huy của anh về tình trạng ở hiện trường; trong khi những binh sĩ dưới quyền thu dọn khu vực phi cơ đáp. Họ nhặt được một số giấy má bị xé, các phù hiệu và một số dù cá nhân nên bỏ cả các giấy tờ trong một bao nylon cột lại, trình cho viên Trung úy. Trên phi cơ Antonov 26 còn 9 dù cá nhân… Người sĩ quan chỉ huy nhận được lệnh của thượng cấp, chở hết 12 người cùng thi hài của Nguyễn văn Khải về đơn vị 506 Tình báo biên giới ở quận lỵ Aranya Prathet (8) cách Sakaeo 44 kms.
Khách sạn Aranya Prathet
Ðại tá Tong Ðen (9), Chỉ huy trưởng đơn vị 506 Tình báo biên giới trực thuộc Biệt Ðội 309 Quân Báo (10) đặt chồng giấy trắng trước mặt, cây bút nguyên tử để lên trên. Ông chậm rãi châm điếu thuốc lá Samit và chìa gói thuốc cho Nguyễn Ngọc Ðại. Ở bàn bên cạnh, Thượng sĩ Ạt đang hỏi cung Ðại úy Lương Xuân Chương; số cán binh còn lại ngồi dưới đất cách đó không xa, đang lắng tai nghe hai người chỉ huy khai báo. Ông Tong Ðen là một sĩ quan đã từng sang Việt nam phục vụ ở Phòng 2 của đơn vị Thái Lan đồn trú tại căn cứ Bear Cat Long Thành và sau khi về nước được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng đơn vị 506 đã lâu. Ông có dịp tiếp xúc nhiều với các cán binh VC thuộc Công trường 5 Biên phòng dọc biên giới Thái Miên, thuộc tỉnh Battambang, bị bắt hoặc ra đầu hàng ở biên giới Thái Miên và những người tị nạn bằng đường bộ, nên nói tiếng Việt sõi như người Việt chính gốc. Ông là một người mập lùn, vóc cục mịch và tính tình hung dữ. Ông thường đánh đập các tù nhân trong nhà giam Aranya Prathet, dưới sự cai quản của ông khi điều tra. Trong đơn vị 506, chỉ có ông và Thượng sĩ Ạt nói được tiếng Việt nên mọi cuộc điều tra đều do hai người phụ trách. Anh em tù nhân (VC) trong trại giam này thường gọi ông là Ðại tá Mập; ngay cả Trung úy Sẳng, thuộc cấp của ông cũng gọi ông như vậy. Trại giam Aranya Prathet thuộc đơn vị 506 Tình báo biên giới thường được các tù nhân gọi đùa là khách sạn Aranya Prathet.
Tong Ðen hắng giọng:
– Nào bây giờ ta bắt đầu. Tôi là Ðại tá Tong Ðen, chỉ huy ở đơn vị này. Anh tên gì?
Ðại liền đứng dậy giơ tay chào theo kiểu nhà binh để lấy lòng viên sĩ quan, rồi ngồi xuống nói bằng giọng nhỏ nhẹ:
– Thưa Ðại tá, tôi tên là Nguyễn Ngọc Ðại
– Cấp bậc?
– Ðại úy.
– Sinh năm nào? Tại đâu?
– Tôi sinh năm 1940 tại Lai Châu
Tong Ðen hí hoáy ghi chép. Vừa ghi, vừa hỏi:
– Anh nhập ngũ năm nào? Thăng cấp Ðại úy từ bao giờ?
– Dạ thưa tôi nhập ngũ năm bẩy nhăm. Tôi đang là giáo viên văn sử ở Trường Cấp 3 ở Thị trấn Nậm Nhùn thì được lệnh nhập ngũ vì nhu cầu cần quân để giải phóng Miền Nam. Vì tôi là giáo viên cấp 3 nên được biên chế theo mức lương và được mang quân hàm Ðại úy ngay. Tôi được bố trí làm giáo viên văn sử ở Ban Binh khí của Trường Phòng Không Không Quân ạ …
Tong Ðen nghe Ðại là thầy giáo nên kính phục vô cùng vì bản thân ông không được học hành bao nhiêu, suốt cuộc đời ông chỉ phục vụ quân ngũ và nhờ khéo điếu đóm nên thăng cấp ào ào; hơn nữa trình độ dân trí của người Thái Lan vẫn còn thấp, nước Thái cũng chỉ là một nước nông nghiệp lạc hậu, mới phát triển sau này nên những người có học vị hoặc danh phận vẫn được đặc biệt trọng vọng. Chính vì thế nên Tong Ðen đã không để ý đến sơ hở trong lời khai của Ðại: thứ nhất là chế độ cộng sản VN không có chế độ đồng hoá cấp bậc tương đương với ngạch công nhân viên; thứ hai là Ban Binh khí lo về vũ khí thì cần gì đến một anh dạy văn sử? Thứ ba là cho dù có thật Ðại nhập ngũ năm 1975 với cấp bậc Ðại úy đồng hoá thì đến nắm 1982 đã là 7 năm mà không được thăng cấp? Thứ tư là cái cơ quan A 40 mà Ðại phục vụ là cơ quan quyền lực cao nhất thay mặt Trung Ương Ðảng CSVN để chỉ huy chiếm đóng Kampuchia mà hai kẻ chỉ huy cao cấp là Lê Ðức Thọ và A 50 do Lê Ðức Anh. Tong Ðen liền đổi giọng:
– Thế giáo sư thuộc đơn vị nào ở Campuchia?
– Thưa Ðại tá, tôi mới được chuyển về A.40 ở Nam Vang mấy tháng nay để làm giáo viên dạy văn sử cho binh sĩ thuộc đơn vị này.
– Tại sao chuyến bay của giáo sư lại đáp xuống đất Thái?
– Thưa Ðại tá, chuyến bay của chúng tôi gồm những binh sĩ được đi phép về thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi cất cánh từ phi trường Pochentong để về Tân Sơn Nhất, chẳng may bị lạc vào nước Thái Lan. Xin Ðại tá giúp đỡ cho chúng tôi trở về nước.
Mặc dù là một đảng viên cộng sản vô thần, Ðại lại giả vờ lấy lòng người Thái bằng cách hỏi Tong Ðen xin tượng Phật và nhang đèn để cúng vái vì Thailand là một quốc gia hơn 94.4% dân số theo đạo Phật, nên Phật giáo trở thành quốc giáo. Tong Ðen nghĩ những người này cũng sùng bái đạo Phật như ông, nên hứa hẹn sẽ cấp cho.
Tong Ðen gấp tập hồ sơ, ông bảo Ðại về hàng ngồi nghỉ; rồi gọi Lê Văn Thái lên hỏi cung. Cũng những câu hỏi như Ðại, nhưng Thái chỉ khai là Trung sĩ bảo vệ thuộc đơn vị Hậu cần của A.50 và được đi phép về Tân Sơn Nhất. Tong Ðen lần lượt hỏi cung Ðoàn văn Mễ, Nguyễn Văn Thịnh; cả hai cùng khai là Hạ sĩ thuộc đơn vị vệ binh canh gác A.40 và A.50 (Bộ Tư Lệnh VC tại Nam Vang). Ông cũng thẩm vấn 2 cán binh khác, rồi ghi chép tất cả những lời khai của các cán binh VC thành bản cung từ với lời nhận xét họ là những người rất thành thật, cộng tác với cơ quan an ninh Thái trong lúc điều tra sơ khởi. Riêng đối với Nguyễn Ngọc Ðại, Tong Ðen viết những lời nhận xét đặc biệt, lại còn khen y là một giáo sư văn chương, người sùng bái đạo Phật nên đã rất thành thật hợp tác, khai báo với cơ quan 506.
Thượng sĩ Ạt chăm chú nhìn viên hoa tiêu chiếc máy bay Antonov 26. Anh là một hạ sĩ quan của Quân đội Hoàng gia Thái Lan, xuất thân từ một binh nhì đồn trú ở vùng biên giới Thái – Miên thuộc tỉnh Prachinburi. Nhờ tính cần mẫn và phục tùng cấp trên, anh đã được thượng cấp cho đi học khóa hạ sĩ quan và chuyển về phục vụ ở đơn vị 506, dưới quyền Tong Ðen. Anh là một người Thái chính gốc, nước da đen chũi, tóc quăn vóc người vạm vỡ, cao lớn. Anh nổi tiếng dữ dằn và hung ác; những người Việt đã từng bị giam ở nhà giam Aranya Prathet thường bị anh đánh đập khi điều tra và bắt họ gọi anh ta là “Ông Ạt”. Anh biết nói chút ít tiếng Việt nhưng không sõi như Tong Ðen, nhờ thẩm vấn nhiều cán binh VC bị bắt ở biên giới hoặc chạy trốn sang đầu hàng Thái Lan. Chương ngồi trên ghế đối diện, hai tay để trên đùi liếc mắt nhìn chung quanh, Anh vẫn giữ thái độ nhỏ nhẹ khi trả lời những câu hỏi của Ạt và cố làm ra vẻ thành khẩn. Cũng như Ðại, Chương khai là Ðại úy lái chính của máy bay Antonov 26. Anh sinh năm 1945 tại Cao Bằng, nhập ngũ từ năm 1965 và được gửi sang Liên Sô để học bay. Ðến năm 1975 thì tốt nghiệp. Lúc đó Miền Nam Việt Nam cũng vừa giải phóng xong, Chương được bổ sung về phi trường Biên Hòa để làm Huấn luyện viên phi cơ C.130 của Mỹ. Anh đang công tác ở Biên Hòa thì được lệnh về Tân Sơn Nhất để bay chiếc Antonov 26 đưa một số cán bộ sang Nam Vang và chở 9 đồng chí công tác ở Nam Vang đi phép về Tân Sơn Nhất. Ðang bay, anh lạc vào một cụm mây và phát giác hệ thống la bàn điện bị hư; rồi máy bị trục trặc nên phải đáp xuống ruộng. Khi xuống đất anh mới được dân làng cho biết đó là đất Thái.
Nguyễn Văn Minh khai rằng anh sinh năm 1954 tại Thái Bình; nhập ngũ năm 1975 và gia nhập vào binh chủng Không quân, được huấn luyện ở Trường Phòng Không – Không Quân 3 năm. Sau khi tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy, được thuyên chuyển về phi trường Tân Sơn Nhất làm sĩ quan căn cứ. Ðầu năm 1982, anh được điều về làm lái phó máy bay Antonov 26 và thăng cấp Thiếu úy. Chuyến bay này phi hành đoàn của anh gồm có 4 người: Ðại úy Lương xuân Chương lái chính, Minh lái phó, Trung úy Chính làm dẫn đường và hạ sĩ Nguyễn văn Khải (đã tử nạn) làm cơ khí. Phi vụ của anh bay từ Tân Sơn Nhất đến Nam Vang, chở một số cán binh mới thuyên chuyển sang Kampuchia và chuyến trở về chở 9 người công tác ở Nam Vang được nghỉ phép đi Thành phố HCM. Nguyện vọng của anh là xin được trở về quê hương đoàn tụ với vợ con.
Hoàng Văn Chính sinh năm 1947 tại Thanh Hóa, nhập ngũ năm 1967 được huấn luyện tại Trường Lục Quân Sơn Tây. Sau khi tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy, anh được chuyển sang binh chủng Không quân và được cử đi học về ngành Truyền tin. Rời Trường Truyền tin, anh được chuyển về làm dẫn đường cho phi cơ Antonov 26 ở phi trường Gia Lâm. Năm 1981, anh được chuyển vào công tác ở phi trường Tân Sơn Nhất. Trong chuyến bay lần này, phi cơ cất cánh từ Pochentong bay được khoảng 15 phút thì bị lạc vào một cụm mây lớn. Anh phát hiện la bàn từ bị hư và khi ra khỏi cụm mây, anh không còn nhận được phương hướng. Khi cơ khí Nguyễn văn Khải phát hiện máy có sự cố kỹ thuật, Chính đã nhìn thấy khói bên quạt trái. Sau đó lái chính Lương xuân Chương quyết định đáp khẩn cấp xuống ruộng. Lúc đó Chính mới biết đã bị lạc vào đất Thái…
Trung úy Sẳng báo cho Ðại tá Mập biết có lệnh từ Bangkok, đơn vị 506 phải giải giao 12 người của chuyến bay Antonov 26 về Phòng 2/ Bộ Tư Lệnh Không quân Hoàng Gia để họ điều tra. Tong Ðen bảo Sẳng đi chuẩn bị xe cộ, photocopy các bản cung từ và các đồ vật thu được ở hiện trường để giải giao cùng với 12 người chuẩn bị rời khỏi nhà giam Aranya Prathet để chuyển về Thủ đô hoa lệ của nước Thái: Bangkok mà người Thái gọi là Krung Thép.
Vọng Các, thủ đô hoa lệ
Trung úy Sẳng đưa 12 người thuộc chuyến bay Antonov 26 vừa bị bắt giữ ở Sakaeo lên chiếc xe autobus hạng trung có 4 binh sĩ trang bị súng M.16 đi theo hộ tống. Sẳng cho những cán binh VC ngồi ở giữa chiếc xe đò và chia 2 người lính ngồi phía cuối xe, 2 người ngồi phía trên; còn anh ngồi ngay chiếc ghế gần cửa lên xuống. Những tang vật thu được ở hiện trường gồm một số dù cá nhân và một bao giấy tờ cũng được áp tải chung trong chuyến giải giao này. Ðại tá Tong Ðen đứng ở dưới đất nhìn theo đoàn xe. Sẳng kiểm soát lại tập hồ sơ gồm các bản cung từ sơ khởi và Phiếu Giải Giao cùng Sự Vụ Lệnh rồi đưa tay chào Tong Ðen nói:
– Bai léo hổ ná (Tiếng Thái có nghĩa: Thưa xếp chúng tôi đi)
Anh ra lệnh cho tài xế khởi hành. Chiếc xe đò từ từ lăn bánh rời đơn vị 506 theo lộ trình từ Aranya Prathet, Watthana Nakhon, Sakaeo, Prachin Buri để về Bangkok dài trên 250 kms. Người tài xế ngồi trên volant, mở một băng nhạc Thái với tiếng hát của một nữ ca sĩ Thái đang nổi tiếng; trong khi lơ xe ngồi phía sau tò mò nhìn những người khách lạ trên xe. Trung úy Sẳng đã dặn dò không được tiếp xúc với họ nên anh ta chỉ ngó ngó vào nhóm người này. Những cán binh VC đã được phát những bộ quần áo dân sự sạch sẽ cùng vật dụng cá nhân như khăn mặt, áo thung, thuốc lá Samit, xà bông tắm, kem đánh răng và bàn chải đánh răng…, nên người nào cũng có một bao nylon đựng các vật dụng kể trên cùng bộ quân phục của họ. Nguyễn Ngọc Ðại tranh thủ truyền đạt chỉ thị của anh cho các cán binh trong đoàn thực hiện Phương án 2, phải kiên trì giữ vững khí tiết cách mạng và nhất quán trong lời khai để không tiết lộ bí mật của Ðảng, vì về thủ đô Bangkok có thể gặp những cơ quan an ninh cấp cao hơn…
Sau hơn 3 tiếng lái xe, chiếc xe đò đã đến Bangkok, tài xế cho xe rời xa lộ Rama IV để quẹo phải vào đường Phaya Thai và trực chỉ Bộ Tư Lệnh Không Quân tọa lạc thuộc khu vực Don Muang… Không lực Hoàng Gia Thái (KLHGT) là một trong 3 đại đơn vị chính của Thái Lan: Hải quân, Lục quân và Không quân (11) . Không Lực Hoàng gia Thái (tiếng Thái กองบัญชาการกองทัพไทย đọc là Kong Thap Akat Thai) được thành lập từ năm 1913 là một trong lực lượng không quân đầu tiên ở Á Châu.
Người Quân cảnh quân phục ủi hồ láng coóng bước ra chặn chiếc xe đò, anh giơ tay chào Trung úy Sẳng, nhận tờ Sự Vụ Lệnh từ tay viên Trung úy, rồi ngó lên số cán binh VC, hỏi Sẳng:
– Kỳ khun khấp? (Dạ. Bao nhiêu người?)
– Xịp soỏng khun khấp (Dạ mười hai người). Sẳng trả lời.
Vừa hỏi anh Quân cảnh vừa đưa ngón tay đếm số người; xong khoát tay cho tài xế. Người lính gác ngồi trong chòi canh mở cây chặn cổng nâng lên cao để chiếc xe đò chậm chạp tiến vào Bộ Tư Lệnh Không Quân.
Thiếu tá Visaputri, Phụ tá Trưởng Phòng 2 của Bộ Tư Lệnh Không Quân (BTLKQ)/ Quân Ðội Hoàng Gia Thái đón tiếp phái đoàn trước cửa Phòng. Trung úy Sẳng chắp hai tay trước ngực chào ông và trình Phiếu Giải giao số 12 cán binh VC thuộc phi vụ Antonov 26 cùng các đồ đạc thu được ở chỗ phi cơ đáp. Thiếu tá Visaputri thường được gọi tắt là Vi, một người Thái lai Tàu nên có nước da trắng trẻo chứ không đen như những người Thái chính gốc. Ông hơi gầy và cao, khuôn mặt xương, nhưng nhanh nhẹn và vui vẻ. Ông gọi mấy người lính thuộc quyền ra lệnh đem 12 người thuộc phi vụ Antonov 26 xuống nhà giam; rồi gọi điện thoại báo cáo cho Ðại tá Ratanokorn, Tham Mưu Trưởng kiêm Trưởng Phòng 2 của BTLKQ và trình lên Trung tướng Thaklaeo Susillavorn, Tư lệnh Không Quân. Sau đó Thiếu tá Vi dẫn toán giải giao xuống Câu lạc bộ giải khát.
Sau hơn 1 tháng giữ số người thuộc phi vụ Antonov 26 bí mật ở một nơi để điều tra, BTLKQ đã kết thúc hồ sơ với kết luận giống như cung từ sơ khởi của Ðại tá Tong Ðen thuộc đơn vị 506 Tình báo biên giới. Những người trong phi vụ Antonov 26 đã phải đáp khẩn cấp xuống đất Thái tại tỉnh Sakaeo chỉ vì lạc đường và trục trặc máy; họ không có một công tác đặc biệt nào. Phòng 2 BTLKQ cũng nhận xét những người này hoàn toàn hợp tác với cơ quan an ninh trong thời gian thụ lý hồ sơ và họ rất thành khẩn khi khai báo. BTLKQ cũng đề nghị trả họ về cho phía Việt Nam thể theo nguyện vọng của họ. Trong thời gian hơn 1 tháng này, Cơ quan Tùy viên Quốc Phòng (DAO – Defense Attached Office) thuộc Tòa Ðại sứ Hoa kỳ đã xin tiếp xúc với số cán binh VC nhưng đều bị chính quyền Thái từ chối vì lý do chưa kết thúc cuộc điều tra…
Vũ đang ngồi đọc sách trong phòng khách; hôm nay anh nghỉ ở nhà vì đã hoàn tất các hồ sơ phỏng vấn thanh lọc số đồng bào được đi đoàn tụ gia đình theo diện ODP, quá cảnh Thái Lan tạm trú ở Trại Phanat Nikhom thuộc tỉnh Chonburi trong vòng 7 ngày để hoàn tất các thủ tục an ninh trước khi vào định cư Hoa kỳ. Chuyến này, trên danh sách có 300 người, nhưng đến Thái chỉ có 297 người, trong đó có 1 hồ sơ 3 người bị đình hoãn chuyến bay. Gia đình bị đình hoãn chuyến bay là Phạm Thị Thanh, tức nữ danh ca Thái Thanh (12). Cũng trong tháng trước, anh đã phỏng vấn nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn (13), tác giả của nhạc phẩm Nắng Chiều. Sau lúc phỏng vấn, anh đã cho anh Lê Trọng Nguyễn nghe 2 băng cassettes nhạc đó là Tủi Nhục Ca của Hà Thúc Sinh (14) và cuốn nhạc Ngục Ca do nhạc sĩ Phạm Duy (15) phổ từ thơ của ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện (16). Sau khi nghe xong, anh Lê Trọng Nguyễn đã ngồi khóc tại chỗ. Cùng trong chuyến này còn có gia đình của ca sĩ Elvis Phương gồm mẹ của Phương, 1 cô em gái (sau này trở thành ca sĩ Kiều Nga) và 1 cậu em trai bị bệnh .
Vũ dự định đọc xong 1 chương của quyển sách, anh sẽ đi phố dạo chơi để xem phong cảnh Bangkok và mua sắm chút đỉnh vật dụng cần thiết. Hiếm hoi lắm anh mới có ngày nghỉ giữa tuần để trí óc thanh thản không bị công việc ngập đầu dồn nén. Vũ nhận công việc làm của Tòa Ðại sứ Mỹ ở Bangkok từ năm 1981; trong nhiệm vụ 1 sĩ quan an ninh thanh lọc số người Việt tị nạn đến Thái qua các diện ODP, con lai, vượt biển bằng thuyền (thường được gọi là thuyền nhân hay boat people) và vượt biên đường bộ qua ngả Kampuchia hoặc Lào); để phát hiện sự xâm nhập của cộng sản qua các ngả này. Với số lượng người Việt – Miên – Lào đến Thái mỗi ngày mỗi đông, với hàng chục trại Tị nạn trên khắp đất Thái; Vũ cứ đi lòng vòng các Trại Tị nạn để thanh lọc cũng đủ mệt nhoài. Dù ở vùng Aranya Prathet có anh chàng Thạch Thom (17) được lấy từ Trại biên giới ra phụ giúp việc thiết lập hồ sơ và ở Phanat Nikhom có Ðào Sanh Ngân (17); nhưng Vũ là người ở ngay Bangkok phải chịu trách nhiệm tổng quát. Hơn nữa các tay kể trên không phải là dân chuyên môn trong ngành Quân báo nên công việc vẫn đổ dồn cho Vũ quá nặng nề. Mãi về sau anh mới tuyển thêm được vài người khác ra phụ anh như Tôn Thất Hồng, Nguyễn Hoàng Châu, Bùi Minh Ngọc và Trương Long (17).
Tiếng chuông điện thoại chợt reo. Vũ nhấc máy:
– Allo! Victor tôi nghe.
– Chào ông Victor! Ông có khỏe không? Tiếng ông Walter McIntosh, đệ tam tham vụ Tòa đại sứ, cũng là xếp trực tiếp của Vũ. Ở Tòa Ðại sứ, anh có tên là Mr.Victor Nguyen. Ðối với người Thái anh mang tên Khun Chanas Michay (18).
– Tôi có công việc cho ông đây. Ông còn nhớ vụ chiếc phi cơ Antonov 26 của VC crashed landing xuống Sakaeo không?
– Có. Tôi biết vụ đó.
– Chính phủ Thái đã cho tiếp xúc với những cán binh VC bị bắt trong chuyến bay này. Vậy ông chuẩn bị vào ngay Embassy để bàn kế hoạch nhé.
– OK. Tôi sẽ vào ngay.
Vũ cúp máy điện thoại. Anh thầm nghĩ: “Thế là lại không được nghỉ rồi”. Vũ thay quần áo và xách cặp samsonite vào sở làm. Từ nhà anh là một villa ở Soi Sukhothai trên đường Sathorn Nua (19) đến Tòa Ðại sứ chỉ mất vài phút lái xe. Nhớ lại lần đầu tiên khi mới đến Bangkok năm 1981, Vũ được vị sĩ quan liên lạc người Thái là Đại úy AL chở đến căn biệt thự nằm gần đường Sathorn Tài (căn nhà anh đang ở bây giờ); sau khi mang hành lý vào nhà Đại úy AL dặn anh sáng mai đến Toà Đại sứ ở 95 đường Wireless để gặp ông Walter Mac Intosh, sau đó AL từ giã. Ngày hôm sau, anh ăn diện chỉnh tề, xách cặp ra đón xe taxi, vì không biết tiếng Thái nên anh toàn nói tiếng Anh để giao dịch. Người tài xế xổ một tràng tiếng Thái, khiến anh ngẩn tò te chẳng hiểu gì. Anh nói với tài xế: “Anh cho tôi đến Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở 95 đường Wireless nhé.” Tên tài xế lưu manh, biết anh là người ngoại quốc mới đến Bangkok nên nói 100 Baht. Vũ đồng ý và lên xe. Tên tài xế lái xe lòng vòng mấy con đường mất khoảng 10 phút thì dừng lại trước của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ. Anh xuống xe, trả tiền và vào trong Tòa Đại sứ. Khi vào gặp ông MacIntosh và một số đồng nghiệp anh kể chuyện đi tắc xi khiến mọi người cười hô hố. Họ nói anh bị gạt rồi. vì từ nhà anh đến Tòa Đại sứ chỉ có hơn 2 cây số tiền xe chỉ có 15 Baht mà thôi; vì anh không biết chút ít tiếng Thái họ biết anh mới đến Bangkok nên họ gạt anh. Anh phải học một ít tiếng Thái thì sẽ không bị họ gạt nữa. Thật là một bài học cho Vũ, mỗi lần nghĩ đến anh lại cười hoài kỷ niệm khó quên này. Từ sau lần đó anh không còn bị gạt nữa vì đã nói trôi chảy tiếng Thái…
Khi đến văn phòng nằm bên trong Tòa Ðại sứ Mỹ tọa lạc ở số 95 Thanon Vithayu (20), Walter giới thiệu anh với Ðại tá Gary Ford thuộc cơ quan DAO. Cuộc họp bắt đầu. Vũ và Gary được chuyển cho mỗi người 1 tập hồ sơ dầy cộm gồm 12 bản photocopy cung từ số tù binh đã được dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh. Vũ đọc lướt qua tập tài liệu, anh thấy các giới chức thẩm quyền Thái Lan đã có quá nhiều sơ hở trong việc khai thác tù binh mà một người có chút kinh nghiệm căn bản về quân báo cũng nhìn thấy. Như trường hợp Nguyễn Ngọc Ðại đã man khai một cách trắng trợn và coi thường trình độ chuyên môn của Thái Lan khi khai là một giáo viên văn sử của Truòng Cấp 3 và khi bị động viên, được đồng hóa mang cấp Ðại úy, chức vụ là giáo viên môn văn sử của Ban Binh khí thuộc Trường Phòng Không Không Quân. Quân đội Nhân dân của Việt cộng không bao giờ có trường hợp đồng hóa cấp bậc và Ban Binh khí chuyên lo về vũ khí thì đâu cần đến một người giáo viên dạy môn văn sử. Còn Lương Xuân Chương học lái cả 10 năm ở Nga, về nước lại làm huấn luyện viên C 130 là một loại phi cơ của Mỹ v.v… và v.v… Toàn những chi tiết phi lý ngụy tạo một cách ngờ nghệch để che giấu hình tích của họ.
Anh xếp tập hồ sơ lại, nói:
– Ðây là một tập hồ sơ không có chút giá trị nào. Người Thái chưa moi được gì trong những lời khai của toán tù binh. Theo ý kiến cá nhân của tôi, với kinh nghiệm của một sĩ quan hoạt động nhiều năm trong ngành quân báo của QÐVNCH, chắc chắn đây là một phi vụ gián điệp.
– Tôi cũng đồng ý với quan niệm của ông Victor. Ðại tá Gary biểu đồng tình. Bây giờ chúng ta phải lập ngay kế hoạch để điều tra. Ngay hôm nay, ông Victor có thể sang BTLKQ của Hoàng Gia Thái để tiếp xúc với số tù binh này.
Walter McIntosh chen vào:
– Tôi đề nghị Ðại tá Gary cung cấp cho Mr.Victor một bộ quân phục sĩ quan Lục quân Hoa kỳ và ông Victor sẽ đóng vai sĩ quan phụ trách việc điều tra. Mỗi buổi chiều chúng ta sẽ gặp nhau tại đây để đúc kết xem công việc tiến triển đến đâu.
– Chuyện đó thì dễ thôi. Tôi sẽ lo chuyện này. Ðại tá Gary vừa cười vừa nói.
Vũ bàn thêm:
– Vì tôi không nắm vững chuyên môn của binh chủng Không quân, xin cho Mr.November (Ðào Sanh Ngân được gọi là November) đang làm việc ở Trại Phanatnikhom về phụ giúp tôi. Ông Ngân là Ðại úy pilot chắc sẽ giúp tôi nhiều trong việc điều tra.
Walter và Gary đều cho ý kiến của Vũ là đúng. Walter liền điều động trực thăng đi đón Ngân, còn Gary thì đi lo thực hiện 2 bộ quân phục sĩ quan.
Khoảng 2 tiếng đồng hồ sau, Ngân đã có mặt tại văn phòng. Ðại tá Gary cũng đã mang sang 2 bộ quần áo nhà binh. Vũ và Ngân thay quân phục rồi lên xe cùng đi với Ðại tá Gary đến BTLKQ Thái Lan. Trên xe, Vũ dặn dò Ngân cách thức làm việc và hai người sẽ gọi nhau là anh Hai và anh Ba để ngụy trang hình tích.
Lúc thay quân phục, Vũ nhìn bóng mình trong kiếng; khi thấy chiếc nón lưỡi trai trên đầu, anh chợt thoáng buồn. Từ sau ngày buông súng tháng 4/75, đây là lần đầu tiên anh được đội lại chiếc nón sĩ quan. “Cũng vẫn còn oai phong chán”. Vũ thầm nghĩ. Nhưng buồn một nỗi chỉ là sĩ quan giả. Tất cả đã mất mát, đã trở thành dĩ vãng buồn đau. Nỗi hận tủi vẫn mang nặng trong lòng người bại binh, mọi thua thiệt nhục nhằn gán trên đầu kẻ bại trận, mà sự chiến bại ấy chẳng phải do những người chiến sĩ VNCH, nhưng do sự bội phản đê hèn của người bạn đồng minh, của sự sắp xếp bởi những chính khách salon ở Hoa Thịnh Ðốn, trên bàn hòa đàm để cố chấm dứt chiến tranh, để bằng mọi cách rút chân ra khỏi cuộc chiến và đem lính của họ ra về trong danh dự “đã có được thỏa hiệp hòa bình cho Việt Nam qua Hiệp định Paris ngày 27/1/1973” – Ðối với họ, “The War is over” kể từ sau ngày đó. Sống chết mặc bay…
Khi còn phục vụ trong quân ngũ, đơn vị của anh thuộc Phòng 2/ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III trú đóng tại Biên Hòa, anh thường xuyên trực diện với cán binh cộng sản Việt Nam bị bắt làm tù binh, hoặc các hồi chánh viên trình diện xin hồi chánh với các đơn vị của QLVNCH; hay anh trực tiếp tham dự trong những cuộc hành quân ở 11 tỉnh thuộc lãnh thổ Quân Đoàn III và Quân Khu 3. Sau khi giải ngũ tháng 3 năm 1973, anh đã làm việc cho Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài gòn và văn phòng của anh ở trên đường Tự Đức, thị xã Tây Ninh anh cũng vẫn tiếp tục công việc như khi còn trong quân đội. Năm 1981 khi vượt biên sang Thailand, anh lại làm việc cho Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Bangkok, anh thường xuyên thẩm vấn các cán binh VC thuộc Công trường 5 trú đóng ở Battambang thuộc Kampuchia bị Quân đội Thái Lan bắt ở chiến trường biên giới hoặc ra đầu hàng với Thái Lan và những thành phần này đều bị giam giữ ở đơn vị 506 Tình báo biên giới do Đại tá Tong Đen cai quản. Nhưng lần này anh lại đối diện để điều tra 12 người khách lạ không được mời mà đến Thailand: Những cán binh cộng sản Việt Nam tuy lạ với người Thái nhưng lại rất quen với Vũ, bởi anh biết họ một cách rành rọt như lòng bàn tay. Lần này thụ lý vụ chiếc Antonov 26 crashed landing vào sâu 60 kms trong đất Thái cũng chẳng lấy gì làm khó cho anh.
Vọng Các, thủ đô của Thái Lan là một kinh đô hoa lệ của Ðông Nam Á với đủ mọi dịch vụ ăn chơi được ngành du lịch Thái Lan khai thác triệt để hòng lôi cuốn du khách bốn phương mang tiền đến vung vãi ở xứ này. Ngành du lịch đã mang về một số ngoại tệ khổng lồ cho Thái Lan. Những con đường nổi tiếng dành cho du khách ngoại quốc thường dập dìu bóng giai nhân như Patpong Road (Patpong chạy từ đường Silom và đường Surawongse; gồm có 2 đường song song: Pat Pong 1 gồm toàn những nightclub, bar rượu có gái, tiệm vũ khỏa thân và múa cột và Patpong 2 là khu chợ đêm nổi tiếng ở Bangkok), Sukhumvit Road (Thanon Sukhumvit) là một khu ăn chơi dành cho người ngoại quốc khá sấm uất kéo dài từ Soi 1 đến Soi 33 (Soi có nghĩa là hẻm và Thanon là đường), Chaophrya v.v… mỗi khi mặt trời tắt nắng, bóng đêm bao phủ là muôn ngàn ánh đèn neon đầy màu sắc chớp tắt lung linh huyền ảo. Tiếng nhạc dâm dật từ những quán bar và những tiệm vũ khoả thân cửa mở rộng để du khách đi bộ bên ngoài có thể nhìn thấy những cô gái không một mảnh vải che thân đang nhún nhẩy theo tiếng nhạc trên các bục cao với ánh đèn màu rực rỡ. Dọc theo hai bên đường Patpong là hàng trăm quán bar và tiệm vũ khoả thân sán sát nhau, tiệm nào cũng tấp nập khách. Ngoài những quán bar và tiệm nhảy khoả thân trên đường Patpong và Sukhumvit, ở Bangkok còn có một hệ thống cửa hàng bán thịt sống được khai thác thành kỹ nghệ. Các cô gái làm trong các cửa hàng này đều có thẻ hành nghề và được khám bệnh định kỳ để bảo đảm khách làng chơi không bị mắc bệnh. Gọi là cửa hàng cũng không phải là sai vì các động gái mãi dâm này đều được trang trí tân kỳ, sạch sẽ, có kỹ thuật chứ không nhớp nhuá, dơ dáy như những động bình dân trong các khu xóm lao động nghèo nàn tồi tàn ở Ngã Ba Chú Iá hay Ngã Bảy hoặc An Nhơn Gò Vấp… Các cô gái hành nghề “bán trôn nuôi miệng” ở Bangkok thường được ngồi trong các “căn phòng” trải thảm đỏ có chiếu đèn màu rực rỡ và mỗi cô đều đeo số thẻ trước ngực để khách làng chơi chọn lựa. Bên giòng sông Chao Phraya có một cửa hàng thịt sống lớn mà người Thái thường gọi là “ạp nám ChaoPhraya” (Tiếng Thái có nghĩa là “tắm nước ChaoPhraya – ở đây không có nghĩa là tắm nước sông ChaoPhraya mà hàm ý là đến tiệm thịt sống ChaoPhraya tắm hơi và kiếm gái). Cửa hàng này là một cao ốc 10 tầng thiết trí tân kỳ, phiá trước có trang trí một giòng thác thiên nhiên nước đổ rì rào suốt ngày đêm. Cửa hàng này có một lồng kính lớn xoay tròn tọa lạc ngay phía trong cửa chính ra vào; trong lồng lúc nào cũng chứa 1000 cô gái mang số từ 001 đến 999, ngồi thành nhiều tầng để khách lựa chọn. Khách có thể đứng ở tầng trệt, tầng 2, tầng 3 hoặc tầng 4 đều nhìn được những người đẹp trong lồng kính để chọn. Ðặc điểm của Chao Phraya là phục vụ khách làng chơi từ A đến Z thỏa mãn mọi yêu cầu của khách. 1000 cô gái ngôi trong lồng kiếng đều là những giai nhân trẻ, đẹp, họ đều có giấy Bác sĩ khám bệnh định kỳ để bảo đảm không bị bệnh phong tình lây sang cho khách… Về phòng ốc thì khách có thể chọn các phòng ốc trang trí theo phong cách Âu Châu, Hy Lạp, Trung Hoa, Trung Đông và nhiều nước Á Châu. Có rất nhiều chỗ ăn chơi trên khắp cả nước Thái phục vụ khách du lịch bốn phương.
Cuộc đấu trí với những người khách lạ mà quen
Ðại tá Gary bắt tay Ðại tá Ratanokorn, Tham Mưu Trưởng kiêm Trưởng Phòng 2 BTL Không Quân Hoàng Gia Thái (21) và giới thiệu 2 sĩ quan Hoa kỳ gốc Việt Nam phụ trách thụ lý phi vụ Antonov 26.
– Xin hân hạnh giới thiệu với Ðại tá 2 vị sĩ quan của chúng tôi: Thiếu tá Hai (Ðào Sanh Ngân) và Thiếu tá Ba (Victor). Cả hai người là những chuyên viên về điều tra; họ có rất nhiều kinh nghiệm với VC.
Vũ và Ngân đưa tay chào viên Ðại tá người Thái. Ông chào lại rồi bắt tay 2 viên sĩ quan.
– Hân hạnh được gặp nhị vị Thiếu tá. Hy vọng quý ông sẽ giúp chúng tôi phá vỡ sự bí mật trong phi vụ này. Thực ra cá nhân tôi vẫn chưa hài lòng với lời khai của đám cán binh VC.
Nói xong, ông cho gọi Thiếu tá Vitraputri (gọi tắt là Vi) lên văn phòng và giới thiệu cho mọi người quen nhau. Ông nói:
– Trong suốt thời gian hai ông làm việc ở đây, Thiếu tá Vi sẽ là Sĩ quan liên lạc và sẽ đích thân làm tài xế cho hai ông. Quý ông có cần gì xin cứ cho Thiếu tá Vi biết. Ông ấy sẽ tận tình giúp đỡ 2 ông.
– Xin cảm ơn Ðại tá. Vũ nói.
Ðại tá Gary từ giã ra về và nói 5 giờ chiều sẽ cho tài xế đến đón Vũ và Ngân về Tòa Đại sứ để họp với Ông MacIntosh và Đại tá Gary. Vũ và Ngân cũng lên xe jeep theo Thiếu tá Vi xuống khu nhà giam nằm biệt lập ở cách xa Bộ Tư Lệnh khoảng 2 kms. Ðây là một nhà giam trực thuộc BTL Không Quân Hoàng Gia Thái nhằm giam giữ những tù binh cộng sản và những tù chính trị, chung quanh có hàng rào kiên cố và lính gác cẩn mật ngày đêm. Khu nhà giam là một building 2 tầng bằng bê tông nằm ẩn dưới những cây cổ thụ. Ðại úy Muangsuk chỉ huy nhà giam hướng dẫn Thiếu tá Vi, Vũ và Ngân đi một vòng thăm khu nhà giam. Vũ thật ngạc nhiên khi thấy cả 12 người VC trong nhóm Antonov 26 được giam chung trong một phòng lớn. Họ đang ngồi vòng tròn sinh hoạt, đàn ca hát xướng vang dội:
“Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời bác nay thành chiến thắng huy hoàng… 
…Việt Nam. Hồ Chí Minh
Việt Nam. Hồ Chí Minh…”

Bên trong phòng giam, chúng đã xin người Thái lập một bàn thờ Phật và nhang khói mù mịt. Vũ nghĩ bọn VC này xảo quyệt thật. Chúng là những kẻ vô thần nhưng biết người Thái vốn sùng bái đạo Phật nên đã lấy lòng họ bằng cách đóng kịch là những người sùng bái Phật pháp để dễ qua mặt. Anh quay qua Thiếu tá Vi nói bằng tiếng Anh:
– Tôi không hiểu các anh học tình báo từ trường lớp nào mà lại giam chung họ như thế này. Nguyên tắc điều tra là phải cô lập từng người để tránh việc họ thông cung với nhau, nhất là những can phạm cùng chung trong một vụ như họ, rất khó cho chúng ta thẩm vấn. Yêu cầu ông cho giam riêng họ từng phòng thì chúng tôi mới dễ làm việc.
– Khấp phổm. (Yes Sir). Thiếu tá Vi nói xong quay lại Ðại úy Muangsuk dặn dò ngăn cách nhóm người này ra làm nhiều phòng.
Vũ nói thêm:
– Cần nhất là 2 người chủ chốt phải nhốt thật xa nhau. Nếu Lương Xuân Chương ở dưới đất thì Nguyễn Ngọc Ðại ở trên lầu, không cho họ liên lạc được với những người khác. Thiếu tá cần ra lệnh cho lính canh là họ có mọi liên lạc gì với nhau thì phải báo cáo ngay cho cấp chỉ huy và cho chúng tôi biết. Ðây là những người nguy hiểm và thủ đoạn cần phải đề phòng cẩn thận.
Viên Ðại úy quay đi để thi hành chỉ thị. Thiếu tá Vi hướng dẫn Vũ và Ngân đến khu phòng thẩm vấn, rồi dặn dò là ông ngồi đợi bên ngoài, nếu có cần gì thì chỉ bấm chuông, ông sẽ vào ngay.
Vũ cho lính áp tải Nguyễn Ngọc Ðại lên phòng thẩm vấn của anh và Ngân sẽ làm việc với Lương Xuân Chương vì Ngân là Ðại úy Hoa tiêu trực thăng của Không Lực VNCH nên rành về các kỹ thuật vận hành phi cơ hơn…
Nguyễn Ngọc Ðại là một người tầm thước, cao khoảng 1m68, thân hình chắc nịch, khuôn mặt rắn rỏi, làn da trắng. Anh có cặp mắt sáng nhưng láo liên chứng tỏ ra một con người xảo quyệt. Ðại bước vào phòng, đứng nghiêm cúi chào Vũ rồi ngồi vào chiếc ghế đối diện. Vũ nghĩ thầm: “Với một con người như Ðại, anh phải chơi trò mèo vờn chuột để giăng cho y sập bẫy…”
Nghĩ như vậy nên Vũ không đi thẳng vào trọng tâm cuộc điều tra mà đặt những câu hỏi lòng vòng về gia đình, cha mẹ vợ con, nhà ở, quê quán… để hắn không để ý, lâu lâu lại hỏi một câu về bản thân hắn và làm như không đặt nặng việc điều tra nên không cần ghi chép gì. Thực ra anh đã để một máy ghi âm để thu lại lời khai của Đại. Anh không ghi chép gì để cho y cảm thấy thoải mái hơn khi trò chuyện với Vũ.
– Quê quán của anh ở đâu?
– Dạ tôi ở xã Trung Chải, Huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu (22). Đại nói.
– Anh là người dân tộc nào?
– Người Dao ạ.
– Nậm Nhùn có bao nhiêu xã? Vũ hỏi.
– Huyện Nậm Nhùn có 10 xã và Thị trấn Nậm Nhùn.
– Vậy xã Trung Chải của anh có gần với các xã Mường Mô, Pù Dao và Nậm Pì không?
– Dạ không ạ. Vì diện tích quá rộng trong vùng núi Hoàng Liên Sơn, lại là núi rừng trùng điệp nên không gần các xã ấy ạ. Đại thầm nghĩ: “Sao người này lại rành rọt về Lai Châu? Y còn biết mấy xã Mường Mô, Pù Dao và Nậm Pù chứng tỏ y rất am tường về vùng Hoàng Liên Sơn. Phải cẩn thận với người này mới được.”
– Xã Trung Chải có gần Quốc lộ 12 không.
– Dạ nằm sát Quốc lộ 12.
Sau một hồi dẫn Ðại đi lòng vòng, anh mới trở vào vấn đề chính ngồi giải thích cho Ðại biết những điểm vô lý và mâu thuẫn trong cung từ của y. Anh xử dụng ngay những lý luận duy vật biện chứng mà anh đã đọc trong sách vở của cộng sản khi bị giam trong tù và ngôn ngữ, cũng như cách nói của CSVN để nói với y, khiến y lúc đầu còn vênh váo; rồi trở nên lúng túng trước những bẫy sập của Vũ. Là một sĩ quan điều tra nhiều năm kinh nghiệm đã từng hỏi cung những cán bộ cấp Trung tá, Thượng tá của VC, từ tù binh đến hồi chánh viên trong thời chiến tranh Việt Nam nên Nguyễn Ngọc Ðại chỉ là một con mồi ngon đối với Vũ. Có những lúc anh đem giáo điều Mác Lê ra để đấu với Ðại khiến y chưng hửng vì sự hiểu biết sâu xa của anh. Rồi có khi anh đọc thơ Tố Hữu hoặc đem những lý luận về “cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân” trích trong sách của Trường Chinh hoặc trong sách “Tư Tưởng Hồ Chủ Tịch” ra để bắt bẻ Ðại, khiến y cứng họng trước những lý luận sắc bén vận dụng đúng quan điểm Mác Lê của anh. Thoạt đầu Ðại còn chối quanh co, nhưng càng chối, Ðại càng lòi thêm sơ hở và cuối cùng đã phải khai lại một số điều. Một người điều tra viên tài giỏi không cần phải dùng hạ sách đánh đập hoặc tra tấn tù binh mà chỉ cần đấu lý và đấu trí để buộc đối thủ lộ các sơ hở và phải khai ra sự thật.
Ðại có lúc đã toát mồ hôi khi bị Vũ chậm rãi và ôn tồn vạch những điều giả trá của Ðại. Y cúi đầu xuống để tránh ánh mắt lạnh tanh, sắc như dao của Vũ khi hỏi hắn và tránh né sự tinh ma trong các câu hỏi của anh. Y nghĩ thầm trong đầu “Tên Ngụy này hiểu biết nhiều về lý luận Mác xít Lê nin nít, biết kết hợp giữa chính trị và nghiệp vụ cao để đặt câu hỏi chứ không ngờ nghệch như mấy người Thái. Phải đề phòng kỹ mới được.” Nhưng càng tránh né Ðại càng sơ hở, càng ngụy biện; hắn trở nên lúng túng và càng lún sâu vào bẫy sập của Vũ. Cuối cùng Ðại đã phải khai lại lý lịch thật của mình khi Vũ phân tích rành rọt về lớp tuổi thi hành nghĩa vụ quân sự ở miền Bắc không có trường hợp ngoại lệ; khiến Ðại nghĩ anh phải là một người nằm trong guồng máy của CS mới biết rõ như vậy. Y khai lại như sau: sinh năm 1940 và trúng tuyển nghĩa vụ quân sự từ năm 1960. Sau thời gian huấn luyện, y đã được bổ sung về đơn vị phòng không trú đóng tại Lai Châu. Nhờ tích cực trong công tác, y được biên chế sang Tổng cục chính trị và được đi tập huấn về ngành này ở Sơn Tây. Năm 1965, y xâm nhập vào Miền Nam với cấp bậc Trung sĩ thuộc đoàn 2230 Xâm Nhập. Khi đến điểm tập kết Ông Cụ thuộc B2, hắn được bổ sung về Ðại đội 12 ly 7 phòng không thuộc Trung đoàn Q.16 (tức Trung đoàn độc lập Thừa Thiên hoạt động ở Miền Ðông Nam bộ). Y đã cùng đơn vị tham gia Chiến dịch Nguyễn Huệ (23) năm 1972 với nhiệm vụ chốt chặn tại Xa Cam (Bình Long). Năm 1975, y thăng cấp Thượng úy và năm 1979, y đã được bổ sung về A 40, cơ quan đầu não của VC ở Campuchia và được thăng cấp Ðại úy… Tuy nhiên y vẫn khăng khăng không khai chuyến bay này là một công tác bí mật. Sau 3 tiếng đồng hồ quần thảo Nguyễn Ngọc Ðại, mồ hôi hắn vã ra như tắm. Thấy hắn mệt nhoài nên Vũ cho hắn về nghỉ và đi sang phòng Ðào Sanh Ngân đang thẩm vấn Lương Xuân Chương để xem Ngân có cần anh giúp đỡ gì không. Trước khi Ðại theo người lính Thái bước ra khỏi cửa. Vũ cho hắn một gói thuốc và hỏi.
– Anh là một quân nhân, vậy Giấy Chứng Minh và Giấy Sinh Hoạt đảng của anh đâu?
– Dạ thưa anh. Người Thái đã tịch thu hết cả rồi ạ. Ðại nói.
Trên đường ghé sang phòng Ngân đang làm việc, Vũ gọi Thiếu tá Vi lại và hỏi về số tài liệu thu được của chuyến bay Antonov 26. Vi nói hiện còn giữ nguyên trong tủ hồ sơ của Phòng 2 BTLKQ chưa hề mở ra. Vũ không thể nào hiểu nổi cách làm ăn cẩu thả của Phòng 2/BTL Không Quân Hoàng Gia Thái khi những tài liệu quý báu như vậy để điều tra hình tích những cán binh VC của chuyến bay Antonov 26 mà họ lại không hề mở ra xem. Vũ yêu cầu Vi chạy về Phòng 2 lấy hết số tài liệu ấy giao cho anh rồi đẩy cửa bước vào phòng Ngân.
Ðào Sanh Ngân ngồi thẩm vấn tên Ðại úy Lương Xuân Chương ở Phòng điều tra cách chỗ Vũ hỏi Nguyễn Ngọc Ðại chừng 20 mét. Vì Ngân là 1 Đại úy pilot trực thăng của Không Lực VNCH nên nắm vững những căn bản về bay bổng và cấu trúc của buồng lái do đó khi thẩm vấn Lương Xuân Chương đã lật tẩy những điều man trá trong lời khai của viên hoa tiêu phi cơ Antonov 26. Dù là một phi cơ do Nga xô sản xuất nhưng không ra ngoài những nguyên tắc quốc tế căn bản của ngành hàng không. Khi Vũ đẩy cửa bước vào thấy Ngân đang tranh luận với Chương về kỹ thuật bay khi phi cơ không còn la bàn điện… Anh lẳng lặng đứng theo dõi. Một người hoa tiêu phải biết thiết bị trên 1 chiếc máy bay ngoài la bàn điện còn có la bàn từ và hệ thống radio FM để tìm cách làm sao không bị mất phương hướng và làm sao để bay về đúng mục tiêu. Ngay trong trường hợp các hệ thống trên bị hư, người hoa tiêu vẫn có thể dùng địa tiêu để tìm phương hướng đúng để về. Chương và đồng bọn đã khai trong cung từ của giới chức quân báo Thái Lan là họ bay từ phi trường Pochentong, Nam Vang để chở một số quân nhân đi phép về phi trường Tân Sơn Nhất, Saigon (tức là từ hướng Tây bay về hướng Đông) và bị lọt vào một cụm mây lớn. Khi ra khỏi cụm mây thì bị lạc sang đất Thái; cùng lúc đó thì phát hiện la bàn từ bất khiển dụng là những lời khai đầy mâu thuẫn và vô lý… Vì nếu cả hai loại la bàn đều bị hư, họ vẫn có thể dùng hệ thống Radio FM hoặc quan sát địa tiêu là Quốc Lộ 1 tứ Phnom Penh về Tân Sơn Nhất và ngọn núi Bà Đen cao 986 mét sừng sững giữa vùng đồng bằng. Từ Nam Vang về đến tỉnh Tây Ninh của Việt Nam toàn là đồng bằng với những ruộng đồng và sông rạch; có Quốc Lộ 1 từ Gò Dầu Hạ, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam sang Kampuchia dài khoảng 135.93 miles (qua các tỉnh Svay Riêng, Pray Veng) và chạy thẳng đến Nam Vang là một địa tiêu dễ nhận trong những ngày trời quang đãng; hơn nữa cả một vùng bình nguyên chỉ nổi lên một ngọn núi Bà Đen cao sừng sững chắc chắn sẽ nhìn thấy rõ ràng. Chương lúng túng chống đỡ một cách vụng về đầy sơ hở. Nhưng không thể chứng minh được vì sao không dùng hệ thống Radio FM và địa tiêu để tìm đường quay về.
Trong bản cung từ của cơ quan Quân báo Thái Lan, Chương đã khai: “sinh năm 1945 tại Phú Thọ, gốc dân tộc Tày, thi hành nghĩa vụ quân sự năm 1965 và được thuyên chuyển sang binh chủng Không Quân. Sau sáu tháng huấn luyện căn bản quân sự, Chương được sang Nga du học để đào tạo thành hoa tiêu. Chương học ở Nga từ năm 1965 đến 1975 có trên 4000 giờ bay. Sau ngày giải phóng Miền Nam thì trở về nước và được bố trí làm huấn luyện viên máy bay C 130 ở phi trường Biên Hòa… Đầu tháng 4 năm 1982, Chương được thuyên chuyển về Phi trường Tân Sơn Nhất để làm lái chính bay phi cơ Antonov 26. Chuyến này anh ta có nhiệm vụ bay sang Nam Vang phục vụ cho cơ quan A 40 và sau đó chở một số quân nhân đi phép về Saigon”. Một người học bay đâu cần đến thời gian 10 năm mới tốt nghiệp? Hơn nữa huấn luyện ở Nga về cách bay phi cơ của Nga sao lại làm huấn luyện viên C.130 là loại máy bay của Hoa Kỳ?
Chương lúng túng giải thích một cách vụng về đầy sơ hở. Y cúi mặt không dám nhìn thẳng vào Ngân và có vẻ suy nghĩ tìm cách chống chế các câu hỏi chuyên môn trong ngành không quân của viên Pilot VNCH.
Vũ nói với Ngân bằng tiếng Anh: “Tạm cho hắn về nghỉ. Mình bàn thảo với nhau một chút nghe bạn.” Ngân giơ tay ra dấu OK và kêu người lính dẫn Chương về phòng giam.
Hai người ngồi bàn thảo với nhau về những nhận xét sơ khởi sau khi thẩm vấn 2 kẻ chủ chốt trong chuyến bay Antonov 26. Cả hai người cùng đồng ý với nhau là toàn thể những lời khai của các thành viên trong chuyến bay này là gian dối và chắc chắn phi vụ này phải có một công tác bí mật gì đó mà họ cố che giấu. Vũ hướng dẫn Ngân cách hỏi người kế tiếp là Thiếu úy Nguyễn Văn Minh, hoa tiêu phụ của chuyến bay. Vũ nói:
– Khi bạn hỏi Nguyễn văn Minh không nên chú trọng hẳn về các mục tiêu chính mình muốn biết mà nên hỏi các chuyện ngoài lề về đời sống như nhà của Minh ở đâu? Nhà của Lương xuân Chương ở đâu? Gia đình Chương, vợ con, cha mẹ thế nào? Mô tả nhà của Chương ra sao và sinh hoạt trong gia đình như công việc làm của vợ Chương, trường học của các con Chương v.v… ra sao? Tôi sẽ dùng những chi tiết đó để nói với Chương là Minh đã khai hết mọi chuyện để Chương tức mà tố lại chuyện của Minh. Có như vậy mới moi được những chuyện bí mật của bọn họ. Sau khi kết thúc phiên họp, Ngân sẽ kêu lái phụ Nguyễn văn Minh lên để hỏi, còn Vũ sẽ hỏi Lê Văn Thái. Tên Thái gốc Quân Báo cùng ngành với Vũ sẽ có nhiều lý thú khi thẩm vấn đương sự…
Ngân hoàn toàn đồng ý với Vũ về những ý kiến Vũ vừa nêu. Hai người chia tay nhau để tiếp tục làm việc.
Khi Vũ chuẩn bị quay về phòng thẩm vấn thì Thiếu tá Vi đến trao cho anh 1 bao plastic lớn như bao rác được cột chặt; bên ngoài có dán một tờ giấy ghi tiếng Thái ngoằn ngòeo và được dịch 1 hàng tiếng Anh “Antonov 26’s documents” (Tài liệu Antonov 26). Vũ ký nhận tài liệu với Thiếu tá Vi rồi quay vào bàn làm việc, mở bao plastic ra xem. Anh thấy tất cả các loại giấy tờ đã bị xé rách thành nhiều mảnh, có cả những tấm giấy cứng có hình… Vũ cất tất cả vào ngăn kéo và dặn người lính Thái dắt Lê văn Thái lên cho anh thẩm vấn.
Lê Văn Thái là một thanh niên trẻ dưới 30 tuổi, vóc gầy, khuôn mặt xương nhưng rắn chắc, nhanh nhẹn. Trong hồ sơ y khai là Trung sĩ cảnh vệ của Hậu Cần cơ quan A.50 [cơ quan quân sự chỉ huy mặt trận K (Kampuchia) do Lê Đức Anh bí danh Sáu Nam làm Tư Lệnh; Bí thư thường vụ của cơ quan A 40 là Lê Đức Thọ chỉ đạo về mặt đảng ở chiến trường K]; quê quán ở Huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Thái bước vào phòng làm việc của Vũ, y đứng nghiêm chào theo kiểu nhà binh rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện, lom lom nhìn Vũ chờ đợi. Vũ hỏi:
– Tên anh là gì?
– Dạ. Lê Văn Thái.
– Đó là tên cha mẹ đặt hay bí danh.
– Tên do cha mẹ đặt ạ.
– Quê anh ở đâu?
– Dạ Tỉnh Thái Bình.
– Anh thuộc Huyện nào của Thái Bình?
– Dạ. Em ở huyện Vũ Thư ạ
– Anh ở huyện Vũ Thư; vậy anh có biết Vũ Thư được thành lập do sát nhập 2 huyện mà thành là những huyện nào không?
– Dạ. Vũ Thư là do sát nhập 2 huyện Vũ Tiên và Thư Trì ạ.
– Anh có biết sau khi sáp nhập, Vũ Thư có bao nhiêu xã không?
– Dạ có tổng cộng 29 xã và Thị trấn Vũ Thư. (24)
– Anh đúng là người Vũ Thư Thái Bình rồi. Vậy anh ở xã nào nhỉ?
– Em ở xã Hồng Phong ạ.
– Xã Hồng Phong có gần tỉnh Nam Định không?
– Dạ xã Hồng Phong sát bên sông Hồng. Bên kia sông là Cổ Lễ, Nam Định.
Vũ nghĩ thầm trong đầu: “Tên này đúng là người Vũ Thư, Thái Bình rồi. Điểm này y không hề khai man”. Quê của Vũ ở Nam Định và thuở nhỏ có sống ở Thị xã Thái Bình mấy năm nên anh rành rẽ vùng này; hơn nữa anh đã thẩm vấn nhiều tù binh, hồi chánh viên gốc Thái Bình khi phục vụ ở Phòng 2/ BTL Quân đoàn III nên còn nhớ. Vũ tiếp tục hỏi Thái:
– Anh sinh năm nào? Học đến lớp mấy?
– Dạ. 1952. Em học hết Cấp 3 năm 1970 ở Trường Trung học cơ sở ở Thị trấn Vũ Thư a.
– Anh thi hành nghĩa vụ quân sự năm nào?
– Dạ. Năm 1971.
– Lúc đó anh 19 tuổi? Rồi được huấn luyện ở đâu?
– Dạ đúng thế ạ. Em được huấn luyện ở Trung đoàn 586 thuộc Quân khu 3 ạ.
– Sau khi huấn luyện xong, anh được bổ sung về đâu?
– Dạ em được bố trí theo học nghiệp vụ của Tổng cục Tham Mưu trong 6 tháng.
– Nghiệp vụ là nghiệp vụ gì?
Lê Văn Thái chợt giật mình nói trớ sang ngành khác.
– Dạ là nghiệp vụ bảo vệ ạ.
– Nếu là bảo vệ thì bất cứ người chiến sĩ nào cũng làm công tác bảo vệ được không cần phải học đến 5, 6 tháng. Chỉ trừ những ngành chuyên môn như an ninh, quân báo, công binh, pháo binh, truyền tin v.v… mới cần học dài ngày về tác nghiệp chuyên môn. Vậy anh đã học nghiệp vụ gì trong 6 tháng? Vừa nói Vũ vừa quan sát sắc mặt của Lê Văn Thái; khi nhắc đến 2 chữ Quân báo ánh mắt của Thái hơi dao động và nét mặt hơi tái đi.
– Thôi được. Tôi tạm dừng ở đây. Anh trở về phòng giam suy nghĩ cho kỹ, ngày mai tôi sẽ lại gọi anh lên làm việc.
Vũ bấm chuông gọi người lính Thái vào đưa Lê Văn Thái về xà lim. Anh bước ra ngoài và tiến sang phòng Ngân đang hỏi cung Thiếu úy Nguyễn Văn Minh, lái phụ của phi cơ Antonow 26. Vũ nói với Ngân bằng tiếng Anh: “Toa có thể cho hắn về phòng giam, moa cần bàn với toa một chút; hơn nữa cũng đến giờ phải về rồi. Có gì ngày mai tính tiếp”. Ngân nói: OK toa. Rồi bấm chuông gọi lính Thái đem Nguyễn Văn Minh về phòng giam. Còn lại 2 người trong phòng, Vũ cho Ngân biết tình hình thẩm vấn tên Đại úy Nguyễn Ngọc Đại và tên Lê Văn Thái. Anh nêu những điểm nghi ngờ trong cung từ do đơn vị 506 Tình báo biên giới của Đại tá Tong Đen ở Aranya Prathet thiết lập và những lời khai của các đương sự. Đào Sanh Ngân cũng nói về việc thẩm vấn hai tên hoa tiêu chính và phụ là Đại úy Lương Xuân Chương và Thiếu úy Nguyễn Văn Minh. Anh cũng đem tất cả những điểm mâu thuẫn trong lời khai của 2 hoa tiêu này về kỹ thuật bay cũng như hệ thống la bàn điện, la bàn từ và ngay cả khi 2 hệ thống này hư hoàn toàn thì vẫn còn tần số FM để liên lạc tìm đường về. Ngoài ra còn có thể dùng địa tiêu dể tìm đường về khi bị bay lạc. Từ Nam Vang về Việt Nam có Quốc lộ 1 cứ theo Quốc lộ 1 bay về hướng đông là về Việt Nam, hơn nữa cả một vùng bình nguyên có Núi Bà Đen ở Tây Ninh cao 986 mét (tức 3268ft) cao sừng sững để lấy làm địa tiêu quay về Việt Nam thì làm sao mà lạc được? Sau khi bàn thảo và trao đổi với nhau, cả hai người cùng đồng ý đây là một phi vụ có tính cách tình báo, cố tình bay sang đất Thái Lan để làm gì đó; câu hỏi cần được điều tra để tìm ra sự thật. Cả hai người cùng ra xe để trở về Tòa Đại sứ Hoa Kỳ họp với Ông Walter Mc Intosh và Đại tá Gary.
Chiếc xe du lịch màu trắng mang bảng số ngoại giao của Tòa Đại sứ Mỹ rời BTL Không Quân Hoàng Gia Thái Lan len lách trên đường chen chúc xe vì đúng giờ cao điểm. Người tài xế Thái mặc bộ đồng phục màu trắng, đội caskette màu trắng, hai tay thoăn thoắt trên tay lái và từ từ cho xe vào exit để lên xa lộ Rama IV, sau đó chiếc xe phóng vun vút trên xa lộ về hướng trung tâm thành phố…
Vũ hỏi Đào Sanh Ngân:
– Chút nữa họp xong toa muốn đi ăn gì? Thức ăn Việt, Tàu hoặc Thái Lan đây ông bạn?
– Có lẽ mình chạy ra đường Sakhumvit kiếm nhà hàng Tây ăn Steak có nên không. Ngân nói.
– Tuyệt lắm. Uống rượu vang Pháp, ăn Steak thì còn gì bằng. Sukhumvit là khu phố quốc tế, ở đó có đủ mặt những nhà hàng nổi tiếng của các nước, tha hồ cho mình hưởng.
Cả hai cùng cười. Chẳng mấy chốc xe đã rời Xa lộ Rama IV (tiếng Thái gọi là Rama Xì) để tiếp tục luồn lách trong các đường phố đông đúc rồi khi đến ngã tư đường Sathorn Tài, khi băng qua công viên Lumphini thì quẹo trái vào đường Wireless và Tòa Đại sứ Mỹ toạ lạc tại số 95 trên đường Wireless.
Ông Walter McIntosh, Đệ tam tham vụ Tòa Đại sứ Hoa Kỳ đón Vũ và Ngân trước cửa 1 phòng họp nhỏ trên tầng 2; ba người bắt tay và hỏi han những câu xã giao thăm hỏi sức khỏe xong bước vào bên trong phòng họp. Đại tá Gary cũng đã ngồi sẵn trong phòng, đứng dậy bắt tay 2 nhân viên người Việt, cũng lại thăm hỏi sức khỏe nhau theo cung cách của người Mỹ; sau đó mọi người ngồi vào vị trí và cuộc họp bắt đầu. Vũ và Ngân đã thỏa thuận trước khi còn ngồi trên xe đi đến Tòa Đại sứ Mỹ là Vũ sẽ thuyết trình diễn biến sự việc sau ngày làm việc đầu tiên với những người khách đến từ Việt Nam bằng phi cơ Antonov 26.
Vũ tóm tắt kết quả sơ khởi trong ngày làm việc đầu tiên với 4 đối tượng Nguyễn Ngọc Đại, Nguyễn Văn Minh, Lương Xuân Chương và Lê Văn Thái. Anh cũng nêu những nhận xét cá nhân khi tiếp xúc với 2 người là Nguyễn Ngọc Đại và Lê Văn Thái. Vũ cũng cho ông xếp và Đại tá Gary biết về việc Phòng 2/BTL Không quân Thái đã giam chung 12 người vào một phòng lớn hoàn toàn trái với nguyên tắc điều tra vì bọn họ sẽ thông cung với nhau không thể nào điều tra được; anh cũng đã yêu cầu họ tách họ ra từng phòng giam riêng biệt, không thể liên lạc được với nhau. Vũ cũng đặt bao plastic đựng giấy tờ tùy thân của 12 người trong chuyến bay Antonov 26 mà người Thái chưa hề mở ra khai thác. Đêm nay anh cùng Ngân sẽ xem và khai thác số tài liệu này, hy vọng sẽ tìm ra nhiều điều lý thú. Sau khi Vũ trình bày xong, Đào Sanh Ngân cũng nói về chuyên môn trong không quân của anh để chứng tỏ rằng phi vụ của Antonov 26 phải là một phi vụ bí mật nào đó vì nếu chỉ bay từ phi trường Pochenton ở Nam Vang về Tân Sơn Nhất thì không thể nào lạc sâu vào đất Thái đến 60 Kms mà không phát hiện ra để tìm đường về lại hướng chính muốn đi.
Cả hai ông Mac Intosh và Gary cũng góp ý trong những đều Vũ và Ngân vừa trình bày, họ cũng không tin chuyến bay Antonov bị lạc đường và phải đáp khẩn cấp xuống đất Thái. Sau đó mọi người bắt tay từ giã nhau hẹn chiều ngày mai sẽ gặp lại. Ông Gary rời phòng họp trước, còn lại 3 người, ông Mac Intosh hỏi:
– Bây giờ hai ông định đi đâu?
– Tụi tôi định đến Sukhumvit để ăn Steak ở nhà hàng Pháp Le Cheval. Vũ nói.
– Ồ hay quá. Tôi cũng chưa ăn gì, để tôi mời hai ông ăn tối nhé. Ông Mac Intosh nói. Vũ đã làm việc với ông ở Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Tây Ninh sau khi giải ngũ khỏi quân đội, nên đã quá quen thuộc với cách đối xử rộng rãi với nhân viên của ông.
Cả 3 người cùng rời phòng họp tiến đến thang máy xuống tầng hầm nơi ông Mac Intosh đậu xe.
Chiếc xe Ford Mustang của Ông Walter McIntosh từ từ tiến ra cổng phụ của Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Bangkok rồi quẹo phải trên đường Wireless (tiếng Thái là Thanon Vithayu) chạy thẳng đến đường Pluenchit thì quẹo phải. Khi gặp giao lộ đường Express Way Chaleum Manarakhon từ đó bắt đầu là đường Sukhumvit. Khi đến Soi 4 (Soi là hẻm. Gọi là hẻm nhưng cũng đủ rộng cho hai xe chạy ngược chiều nhau. Soi 4 còn được gọi là Nana Phana), quẹo phải vào Soi 4 khoảng chừng 700 mét thì sẽ gặp nhà hàng Le Cheval. Ông McIntosh dừng xe trước của nhà hàng và giao chìa khóa xe cho người phục vụ đem xe đậu vào parking lot, sau khi nhận 1 ticket để khi ra về sẽ đưa cho nhân viên phục vụ, họ sẽ mang xe ra.
Vừa bước đến cửa nhà hàng đã có nhân viên tiếp nhận khách đón tiếp và hướng dẫn 3 người vào trong. Ông McIntosh chọn ngồi ở bàn gần phía cửa sổ. Người nhân viên chuyển 3 cuốn Thực đơn cho 3 người khách xong anh quay vào phía trong để chuẩn bị mang nước cho khách.
Ông McIntosh, Ngân và Vũ mỗi người 1 tập thực đơn bằng 3 thứ tiếng Anh, Pháp và Thái để tìm món ăn cho mình. Một lát sau ông McIntosh nhìn Vũ và Ngân hỏi:
– Hai ông chọn xong món ăn chưa?
Đặt cuốn Thực đơn xuống bàn, Vũ nói:
– Tôi chọn xong rồi.
Khi người nhân viên phục vụ mang đến 3 ly nước lạnh đặt trước mặt từng vị khách. Ông McIntosh nói:
– Anh có thể lấy order được rồi.
– Khấp phổm. (Yes sir)
– Cho tôi Salade Niçoise, Bouiabaisse soup và Coq au vin, cộng thêm 1 chai Bordeaux Domaine Haute Brande. Ông Mac Intosh nói.
Quay sang Vũ người chạy bàn hỏi: Thưa ông chọn được món ăn chưa?
– Bonsoir. Comment allez- vous? (tiếng Pháp: Chào buổi chiều. Anh có khỏe không?)
Người chạy bàn nói: Oui, ça va (tôi khỏe). Merci beaucoup Monsieur (Cám ơn ông nhiều)
– Anh cho tôi Salade Lyonnaise, Fillet mignon Chateauxbriand và Garlic Soup Soupe à l’ail. S’il vous plaît .Vũ nói.
– Cho tôi Salade mesclunet chèvre chaud sur toasts, Bowl of cassoulet and Boeuf bourguignon servi avec des pâtes (bò bourguignon). Ngân nói với người chạy bàn.
Sau khi nhắc lại các món đã gọi, người chạy bàn quay vào phía trong để giao ticket cho nhà bếp. Một lát sau anh mang chai rượu vang Bordeaux Domain Haute Blande ra bàn. Anh ta xoay cái chai về phía ông Mac Intosh và bắt đầu khui chai rượu, sau đó rót ra 3 cái ly chân cao để sẵn trên bàn.
Ba người ngồi nói chuyện tầm phào về những kỷ niệm khi còn ở Việt Nam thời gian trước năm 1975 trong khi chờ món ăn mang ra. Nâng ly rượu vang, ông Mac Intosh nói:
– Cheers!
– À votre santé! Vũ nói. Và Ngân cũng nâng ly “Cheers”
Ông Mac Inttosh quay sang Vũ hỏi: Ông vừa nói: À votre santé! Là tiếng Pháp phải không?
– Yes sir. À votre santé! Có nghĩa là cheers đó ông.
Cả ba cùng cười. Vũ nói:
– Nhân khi nói về tiếng “cheers!” khi uống rượu, bia; các ông có biết trên thế giới có nhiều tiếng của các nước đồng nghĩa với Cheers như thế nào không?
Ông MacIntosh và Ngân đều trả lời không biết.
– Trên thế giới tiếng cheers được các nước nói như sau: Người Tàu nói “干杯 đọc là gan bay”; người Đức nói “Zum wohl đọc là Tsum vohl”; người Ý nói “Cin Cin được đọc là Chin chin”; người Nhật nói “乾杯 phát âm là Kan- pie”; người Nam Hàn nói: “건배 phát âm Gun bae”; người Thái nói “Chok dee phát âm là chóc đi” và người Việt nói là Dô! Dô!
Ông Mac Intosh bổ sung thêm: người Hy Lạp nói: “ΥΓΕΙΑ phát âm là Yamas”; người Ái Nhĩ Lan nói: ”Sláinte phát âm là Slawn- cha”; người Ba Lan nói: ”Na zdrowie phát âm là Naz- droh- vee- ay” và người Bồ Đào Nha nói: “Saúde phát âm là Saw- OO- de”. Tôi đã đi qua những nước này nên biết chút ít.
– Hai ông đều hiểu biết nhiều quá. Đào Sanh Ngân vừa cười vừa nói.
Đúng lúc đó người bồi bàn đã bưng thức ăn lên bàn; anh ta đặt những món ăn của từng người vào đúng vị trí của mỗi người rồi “Chúc quý khách ngon miệng. Quý vị có cần gì thêm xin gọi tôi”
– Ça va bien, je vous remercie. Vũ trả lời.
Ngân nói: Không ngờ toa giỏi tiếng Pháp quá.
– Có gì đâu anh bạn. Thuở còn là học sinh Trung học sinh ngữ 1 của tôi là Pháp văn; hơn nữa tôi lại học mấy năm ở Centre Culturel de Français trên đường Đồn Đất (đối diện Bệnh viện Grall) ở Saigon nên thường phải đàm thoại nhiều với các thầy, cô giáo người Pháp; nhưng đã lâu lắm không nói nên đã quên nhiều. Vũ trả lời.
Vũ nhìn đĩa Fillet mignon Chateauxbriand của mình lại liên tưởng đến nhà hàng Sing Sing trên đường Phan Đình Phùng Saigon mà anh thường ghé đến ăn. Anh thầm nghĩ: “Không biết miếng fillet mignon Chateauxbriand ở tiệm này có mềm và ngon như ở Sing Sing hay không?”.
Giòng ký ức miên man kéo anh về khoảng thời gian 1972 – 1973 khi anh còn ở trong quân ngũ… Năm 1972 là năm chiến trận ác liệt trên nhiều vùng đất từ Tây Ninh đến Hậu Nghĩa, Bình Dương, Long An, Long Khánh v.v… nên anh phải di chuyển liên miên hết chiến trường này đến chiến trường khác; nay Tây Ninh, mai đã ở Bình Dương và tuần sau đã ở Long Khánh…; thỉnh thoảng có dịp về Saigon đôi ba ngày nghỉ ngắn ngủi sau mỗi chuyến công tác thì thường la cà ở Mai Hương, Givral, Thanh Thế, La Pagode hoặc Sing Sing để ăn uống. Chinh chiến nên bạn bè mỗi thằng phiêu bạt một phương anh chẳng gặp một ai; đôi khi gặp được Vũ Mạnh Quốc hoặc Nguyễn Văn Đỏ (hai người bạn cùng Khóa Thủ Đức và cùng ngành Quân báo với Vũ vì cả hai đều phục vụ ở Saigon) rủ nhau đi nhậu nghẹt với nhau. Khoảng tháng 7 năm 1972, Vũ bị thương ở mặt trận Tây Ninh, phải nằm Quân Y Viện Tây Ninh điều trị; lúc đó anh đã viết bài thơ:
TRONG QUÂN Y VIỆN TÂY NINH
Bây giờ mang kiếp ngựa què,
Trong Quân Y Viện bốn bề thương binh
Đời trai với nghiệp chiến chinh
Nhìn xe chở xác lặng thinh, sũng buồn
Từng giòng lệ héo rơi tuôn
Khóc cho bè bạn thoát vòng nghiệt oan
Trong ta như có cô đơn
Hàng cây ủ rũ tủi hờn khăn tang
Bóng người đi buổi chiều tàn
Ngả nghiêng nạng gỗ ngỡ ngàng xác thân
Nỗi đau chừng đã lớn dần
Chao ơi nỗi chết vờn quanh mọi người

VUG – Khi bị thương nằm Quân Y Viện Tây Ninh 1972
GIÃ TỪ VŨ KHÍ
Từ ta rời bỏ chiến trường
Giã từ vũ khí tưởng chừng chiêm bao
Nhớ xưa trừng mắt chiến hào
Trong đêm tiếng súng ào ào bủa vây
Bây giờ ngồi ngắm mây bay
Bình yên nghĩ thuở đắng cay ngày nào
Thương cho tiền kiếp xanh xao
Khóc khi nghe bạn áo bào phơi thây

VUG – Sàigon Tháng 2/1973 – Khi giải ngũ

(còn tiếp 1 kỳ)


Vũ Uyên Giang