Ngày 7-8-1987, khi Trần Minh Triết lên thuyền, anh kể: “Tôi
thấy chuyến vượt biên còn có hai thầy giáo và hai người bạn học cùng lớp của
mình”. Những năm ấy, người dân miền Nam nói: “Nếu cây cột đèn mà biết đi chắc
nó cũng đã bứng đất mà đi mất”. Nếu như những gì xảy ra trong các trại cải tạo
có thể được giữ kín, thì vượt biên lại là vấn đề gây chú ý ngay sau khi có các
thuyền nhân tới được vùng biển quốc tế. Những chiếc thuyền đánh cá nhỏ nhoi chở
hàng trăm người đối chọi với sóng dữ, với cướp biển, với sự thờ ơ của các quốc
gia lân bang đã gây rúng động dư luận.
“Vượt biên”
Vụ vượt biên đầu tiên bị bắt và bị đưa ra công khai do “đám
chủ công ty vàng lá Kim Thành” tổ chức. Nhưng, do tính đơn lẻ của nó, chính quyền
và dư luận chưa đánh giá vượt biên thực sự là một vấn đề. Báo chí Sài Gòn, kể cả
tờ báo của của nhóm các dân biểu đối lập trước 30-4-1975 như Ngô Công Đức, Hồ
Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, cũng coi những người vượt biên này như tội phạm.
Vụ việc được nhật báo Tin Sáng viết: “Lực lượng võ trang giải
phóng quận Nhà Bè vừa tóm được trọn ổ bọn người định vượt biên trốn ra nước
ngoài đem theo một số lượng lớn vàng và kim cương vào ngày 22-8 vừa qua. Được
biết kẻ chủ mưu là đám chủ công ty vàng lá Kim Thành. Đám này đã đứng ra tổ chức
cho một số tài phiệt Hoa kiều và một số sĩ quan chế độ cũ trốn ra nước ngoài.
Hiện nay cả bọn đang bị câu lưu và chờ ngày ra tòa xét xử” . Báo Sài Gòn Giải
Phóng còn cho biết thêm: “Phần lớn số này là những sĩ quan ngụy ác ôn, trốn
tránh học tập cải tạo” . Tờ Tin Sáng viết tiếp: “Sau khi cả bọn bị bắt, Ủy ban
Quân quản đã đến tiếp thu căn nhà lầu hai tầng tại số 39 Phan Châu Trinh vào
lúc 4 giờ 15 phút ngày 26-8. Đây là tiệm vàng Kim Đô, bán các loại nữ trang bằng
vàng ở phía ngoài, nhưng phía trong là cả một cơ sở đúc vàng”.
Biên bản họp Trung ương Cục do ông Hà Phú Thuận lập vào ngày
3-9-1975 cho biết chi tiết vụ vượt biên đầu tiên này: “Ta còn bắt giữ chín tên:
La Quang, Sầm Hào Tài, Đặng Ngôn, Đào Hưng, Huỳnh Diệu Quang, Lê Văn Y và Nguyễn
Văn Thôi. Hai tên sau cùng là nhân viên hàng không, nhiều lần tổ chức mua bán
vàng lậu từ Hong Kong – Sài Gòn và Sài Gòn – Hong Kong thời Ngụy. Khi bắt Lê
Văn Y ta lấy được 200 lượng vàng. Sơ kết, ta đã lấy được 8.437 lượng vàng 24
cara; 70 hột xoàn từ một đến năm ly; 182 triệu tiền miền Nam; 10.550 đôla,
1.700 tiền Thái Lan. Toàn bộ tiền vàng đã kiểm kê và giao cho ngân hàng”. Chính
quyền quân quản đã tịch thu nhà của chủ tiệm vàng Kim Thành. Quyết định này về
sau sẽ có giá trị như một án lệ.
Biên bản ngày 3-9-1975 còn nhắc đến một vụ vượt biên nữa do
“chủ hãng Việt Hoa, công ty Kiến Trúc tổ chức” mà chính quyền biết được qua lời
khai của “cơ sở”. Những người vượt biên trong vụ này khi bị phát hiện đã “đổ
vàng xuống sông và xé đô la”. Đặc biệt, theo biên bản: “Cơ sở ta cho biết, nó
nói đã hối lộ cán bộ hai triệu nên nó được thả. Được về, nó tỏ ra hối tiếc với
số vàng và đôla. Nó nhận xét có thể mua chuộc được cán bộ, cán bộ ta cũng ăn hối
lộ nhưng ăn ít mà hở hang – thua Ngụy, ăn nhiều mà kín, những vụ hối lộ lớn hai
ba năm sau mới bị lộ. Hiện nay chúng chuyển tiền ra miền Bắc về Hong Kong qua
trung gian cán bộ. Chúng chủ trương có hai hy sinh: hy sinh tài sản còn sinh mạng
thì tìm mọi cách để trốn ra đi bằng mọi đường chủ yếu là hối lộ… Có mấy vụ liên
quan đến cán bộ như sáu cán bộ Ban Thống nhất ở không đăng ký và sau đó trốn
đi. Một cán bộ Thông tấn xã Trung ương tên Lương Mạnh ở đường Nguyễn An Ninh đã
làm biên nhận lấy hai triệu bạc cho cơ quan Thông tấn xã”.
Đến tháng 11-1977, cuộc họp Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ
Chí Minh bắt đầu ghi nhận hiện tượng vượt biên. Nghị quyết 44/NQ-77 của cuộc họp
này viết: “Trên lĩnh vực an ninh chính trị nổi lên các hiện tượng đáng chú ý
như số vụ, số người bỏ Tổ quốc chạy trốn ra nước ngoài vẫn tiếp tục tăng trong
đó có cả cán bộ, nhân viên đang công tác trong các cơ quan nhà nước… Đối với một
bộ phận nhân dân, thậm chí cả một số ít cán bộ, đảng viên, trước khó khăn về đời
sống kinh tế… đã xuất hiện tâm lý dao động, băn khoăn, hoài nghi, đặc biệt là
giới trí thức và tầng lớp trung gian, thiếu tin tưởng ở tiền đồ của Cách mạng”.
Ngày 7-5-1979, tại Hội nghị Cải tạo Công thương nghiệp Tư
doanh diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh với thành phần gồm lãnh đạo các tỉnh
thành từ Bình Trị Thiên tới Minh Hải, ông Võ Văn Kiệt nói: “Tôi xin nêu vài con
số về số người trốn ra nước ngoài: Từ tháng 10-1978 đến tháng 3-1979, có trên
20.000 người, không kể số người Hoa ta cho họ đi sau khi cải tạo. Trong số này
có trên 1.500 cán bộ, nhân viên, cán bộ khoa học, kỹ sư, bác sỹ… Đáng chú ý, có
trên ba mươi vụ cướp tàu đánh cá trốn, mười lăm vụ cướp chúng ta ngăn chặn được”
. Nhưng ngay sau đó, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những con số trên đây còn thấp
so với sự thật”.
Chỉ tính riêng những người may mắn được cứu vớt đưa tới các
trại tị nạn, con số đã cao hơn nhiều số được báo cáo. Năm 1975 mới chỉ có 377
người; năm 1976 đã tăng đến 5.619 người; năm 1977 tăng lên 21.276 người; năm
1978, con số cao gấp tám lần so với mức thống kê của chính quyền, 106.489 người;
năm 1979, chỉ tính đến tháng 7, đã là 292.315 người .
Không chỉ có vượt biên bằng thuyền, một số không nhỏ khác thậm
chí còn đến Thái Lan qua ngả Campuchia trong những năm tháng Quân đội Nhân dân
Việt Nam đang đánh nhau với Khmer Đỏ. Năm 1981, khi nhà văn Phan Nhật Nam đang ở
trong tù, vợ và hai con ông, một chín tuổi, một mười bốn tuổi đã theo đường bộ
qua ngả Campuchia. Ông Nam nói: “Không hiểu nhờ phép màu nào mà vợ con tôi trốn
thoát. Ở biên giới Campuchia – Thái Lan có đêm giày lính Pol Pot gần như đạp
ngay trước mặt”.
Tháng 11-1985, sau chín lần vượt biên bằng thuyền bất thành,
và sau khi gia đình được chính phủ Thụy Điển bảo lãnh nhưng không được Việt Nam
cho phép, chàng trai hai mươi mốt tuổi Lê Phương Đông đã đi bộ suốt bốn tháng
theo ngả Campuchia. Anh bị quân đội của Son Sann bắt cùng bốn người Việt Nam
khác. Cả bốn người bị giam giữ tại trại lính của Son Sann và bị buộc phải lao động
khổ sai. Sau mấy tháng, Đông và ba người cùng đi được một người lính Thái Lan
giúp trốn thoát. Tháng 4-1987, Đông được đưa sang Thụy Điển.
Lê Phương Đông là con trai của nữ nhà văn Nhã Ca và nhà thơ
Trần Dạ Từ. Cả hai đều bị bắt, và cho tới khi Đông tới Stockholm, ông Trần Dạ Từ
vẫn đang ở trong tù. Từ trường hợp của vợ chồng nhà văn Nhã Ca, năm 1981, chính
phủ Thụy Điển và Hội Văn bút Quốc tế bắt đầu gây áp lực lên chính quyền Hà Nội
yêu cầu thả những nhà văn bị giam giữ. Năm 1984, Thụy Điển cũng đã bảo lãnh cho
hơn 700 người Việt Nam ra đi.
Trước đó, ca sỹ Mỹ Joan Baez, người đã từng phản đối cuộc
chiến tranh Việt Nam, năm 1979 đã dẫn đầu một cuộc biểu tình lên tới 12.000 người,
đốt nến và đi bộ đến Nhà Trắng, cho công bố một thư ngỏ “phản đối chính sách
tàn bạo của Chính phủ Việt Nam”. Ngày 20-7-1979, Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc
triệu tập một hội nghị về thuyền nhân Việt Nam tại Geneva với sáu mươi quốc gia
tham dự. Tại hội nghị, Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Nguyễn Cơ Thạch,
nói “thuyền nhân” chỉ là “những phần tử bất mãn của chế độ cũ, những kẻ có nợ
máu với nhân dân, những thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động”.
Khi về nước, ông Nguyễn Cơ Thạch lại có thái độ khác. Ông Trần
Quốc Hương (Mười Hương), bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, kể:
“Tôi ra Hà Nội, Nguyễn Cơ Thạch chửi: các anh làm ăn thế nào để người ta vượt
biên. Trong khi đó, anh Lê Đức Thọ lại nói, các anh phục kích bắt vượt biên là
không nên. Tội gì làm cho mang tiếng. Không thể giữ được họ đâu, ngày xưa vợ
con lính sống bằng lương Mỹ, giờ họ sống bằng cái gì. Tôi biết quốc tế có Cao ủy
Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR), tôi chỉ thị cho công an, phối hợp với họ làm
chương trình cho họ ‘đoàn tụ’ đi. Cho đi hết. Ta không giữ cái đó làm gì. Đây
là tội chúng nó, phải để chúng nó gánh” . Ở thành phố, những nhà lãnh đạo như
ông Mười Hương biết, “thuyền nhân” không phải là “những kẻ nợ máu hay đĩ điếm”.
Từ “trí thức yêu nước”
Nhiều trí thức Sài Gòn cũ, không phải vô cớ, đã trở thành
thuyền nhân. Con đường để họ phấn đấu trở thành “con cưng” của chế độ mới không
hề bằng phẳng. Họ vừa có thể bị khinh rẻ bởi các đồng nghiệp cũ, vừa bị kỳ thị
bởi các “trí thức xã hội chủ nghĩa” vừa từ miền Bắc vô, vừa bị bế tắc bởi môi
trường làm việc thiếu thốn và không được chế độ mới hoàn toàn tin cậy.
Khi tình hình kinh tế trở nên khó khăn, Thành ủy Thành phố Hồ
Chí Minh quan tâm tới các trí thức Sài Gòn cũ bằng cách trợ cấp thêm mỗi tháng
mấy lít xăng, mấy chục ký gạo, một ít than củi, nhưng lại không thể giúp họ phá
vỡ những bức bách để có thể làm những điều mà người trí thức mong muốn. Vậy mà
theo ông Võ Văn Kiệt: “Một số trí thức từ miền Bắc vào hoặc đi tập kết về than
phiền, ‘Thành ủy nuôi mấy ông cũ, tụi này heo nuôi’. Anh em ở ngoài vô cũng đòi
tái đánh giá để cấp bằng lại đối với những trí thức trong Nam, kể cả những người
đã làm tiến sỹ ở Pháp, Mỹ”.
Những ngày ấy, tiến sỹ học ở Liên Xô về được tính hệ số 1,
tiến sỹ ở Pháp được tính hệ số 0,9, còn tiến sỹ ở Mỹ thì chỉ được tính hệ số
0,8. Trong đợt đầu, một người từng lấy bằng tiến sỹ ở Mỹ, từng được phong giáo
sư trước năm 1975 như ông Chu Phạm Ngọc Sơn cũng chỉ được nơi ông giảng dạy đề
nghị phong phó giáo sư . Ông Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhà tôi, năm 1954 di cư từ
Bắc vô, rất sợ, vì đang là trưởng Phòng Xét nghiệm của Bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Giải phóng vô nói bả là giai cấp áp bức phải giao lại chức cho người khác không
có chuyên môn lên thay. Cái bàn cũng không có ngồi mà bả không dám kêu ca gì cả”.
Sau ngày 30-4-1975, Chu Phạm Ngọc Sơn là một nhà chuyên môn
hợp tác toàn diện với chế độ. Ông và một số nhà khoa học khác thường không câu
nệ khi nhận các đơn đặt hàng thực hiện những công trình “khoa học” phục vụ nhu
cầu chính trị. Theo Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh
Kim Báu: “Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn
phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’.
Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa
học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người
thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng
một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả
những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”.
Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhìn vào lý lịch, thấy trước
đây năm nào tôi cũng đi Mỹ nghiên cứu hoặc đi dạy, người ta cứ thắc mắc sao đi
Mỹ quá trời. Tôi nộp đơn xin vô Hội Trí thức Yêu nước, mấy lần bị từ chối”. Năm
1980, trong thời gian Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn đi Liên Xô, một người con của
ông vượt biên không thành. Người con gái của ông cũng cảm thấy bế tắc khi thi
không đậu vào dự bị y khoa. Biết chuyện, ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò
chuyện, khi hiểu thêm nội tình, ông nói với Giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho
cô ấy và mấy cháu đi, đi chính thức. Bên đó có điều kiện cho các cháu học hành.
Sau này nếu các cháu trở về thì tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tròn
bổn phận”.
Ông Huỳnh Kim Báu kể: Sau giải phóng, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn
vào Sài Gòn, sau khi nghe Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân báo cáo tình hình, ông
nói: “Nãy giờ có một chiến lợi phẩm rất lớn mà các đồng chí không đề cập, đó là
lực lượng trí thức được đào tạo từ nhiều nguồn. Lenin nói, không có trí thức là
không có xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Kim Báu, cách mà chính
quyền sử dụng trí thức chủ yếu là “làm kiểng”.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ tuy ở thời điểm đó vẫn còn là hiệu phó
Đại học Khoa học, nhưng theo ông Báu: “Đấy chỉ là một chức vụ bù nhìn, không có
vai trò gì trong giáo dục”. Giáo sư Hộ là hiệu phó nhưng không phải đảng viên,
nên khi có vấn đề gì thì những người trong Đảng họp riêng, quyết định xong, có
việc nói với ông, có việc ông không bao giờ được biết. Từ rất sớm, Giáo sư Phạm
Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào
chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ
mất căn bản”.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ nói lên điều này sau khi chính ông đã
được trải nghiệm trong những ngày học chính trị. Năm 1977, một lớp học kéo dài
mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức miền
Nam đã được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Võ Ba, người tham gia tổ chức
lớp học này, kể: “Chính quyền tưởng rằng sau lớp học sẽ có được một tầng lớp
trí thức của chế độ cũ yêu mến và phụng sự chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu như
Marxism đã từng được các trí thức miền Nam quan tâm như là một môn khoa học thì
giờ đây họ lại nghe những giảng sư miền Bắc nói về Marx hết sức giáo điều. Chưa
kể, những người đứng lớp còn rao giảng với tư thế của người chiến thắng, tự
tôn, tự đắc”. Những đảng viên tham gia lớp học như ông Võ Ba cũng thừa nhận:
“Trước giới trí thức Sài Gòn, chính quyền đã thất bại ngay trong lần trình diễn
đầu tiên”.
Chưa kết thúc lớp học, Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung, một giáo sư
triết học nổi tiếng của Sài Gòn, một người được coi là “hằn học với Giáo hội”,
đã coi cộng sản cũng là “một giáo hội”. Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung cho rằng hình
thức “kiểm điểm” mà cộng sản áp dụng trong sinh hoạt chính là một thứ “xưng tội
man rợ”. Về đường lối, ông cho rằng: “Có thể có những điều Lenin nói đã đúng
vào năm 1916, nhưng sau bảy mươi năm mà ta áp dụng là không lý trí”. Còn Giáo
sư Châu Tâm Luân thì khi nghe các giảng sư miền Bắc say sưa nói về con đường
“tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản” đã mỉa
mai: “Sao không tìm hiểu xem sau chủ nghĩa cộng sản là gì để nhân tiện bỏ qua,
mình bỏ qua luôn hai, ba bước”.
Giáo sư Châu Tâm Luân lấy bằng tiến sỹ về kinh tế nông nghiệp
ở Đại học Illinois, Mỹ, năm hai mươi lăm tuổi, trở về dạy cùng lúc ở hai trường
đại học Minh Đức và Vạn Hạnh. Ông là một trong những trí thức phản chiến hàng đầu,
bị chế độ Sài Gòn bắt giam đầu năm 1975 cho tới những ngày cuối tháng 4-1975 mới
được Chính quyền Dương Văn Minh thả ra. Giáo sư Châu Tâm Luân là một thành viên
của nhóm “sứ giả” được ông Dương Văn Minh phái vào trại Davis và được giữ lại ở
đây cho đến trưa ngày 30-4-1975. Sau giải phóng, chính quyền xếp ông vào diện
“người của ta”. Ông là đại biểu khóa I Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,
đồng thời là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Về phía mình, Giáo sư Châu Tâm Luân cũng là một trong những
trí thức kỳ vọng nhiều vào chế độ mới.
Mấy tháng “sau giải phóng”, giá cả sinh hoạt tăng vọt lên, trong khi dân tình
lo âu thì ông lại cho là giá tăng vì “tâm lý”, giống như cách giải thích thời ấy
của chính quyền . Sau khi cho rằng nhà nước không thể dùng ngoại tệ để nhập
hàng như trước đây, Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Giờ đây không còn bọn tay sai
đem máu của con em nhân dân đổi lấy đô la nữa thì cần phải tiết kiệm tối đa số
ngoại tệ mà dân phải lao động đổ mồ hôi mới đem về được cho quốc gia… Vì vậy
ngoài sự tiếp tay chánh quyền kiểm soát gian thương, chúng ta cũng cần kềm hãm
bớt kẻ địch ở ngay trong lòng mình…” .
Khi trao cho Giáo sư Châu Tâm Luân nhiều trọng trách, Chính
quyền nghĩ đơn giản ông là người “dùng” được. Nhưng, cũng như nhiều trí thức
Sài Gòn, ông đã không hành xử như là một công cụ. Từ năm 1976, Giáo sư Châu Tâm
Luân không được đứng lớp vì kiến thức kinh tế của ông là “kinh tế tư bản”, tuy
nhiên, ông vẫn còn được để ngồi trong Hội đồng Khoa học của trường. Chỉ ít lâu
sau, Đảng ủy trường nhận xét ông muốn “tranh giành lãnh đạo với Đảng”.
Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi ngạc nhiên, chế độ cũ hai lần
giao chức cho tôi mà tôi có màng tới đâu”. Nhưng té ra vấn đề không phải là “ghế”,
mà là những ý kiến của ông ở Hội đồng Khoa học luôn luôn khác với ý kiến của
chi bộ. Trong một cuộc họp, khi nghe ông Đỗ Mười thao thao nói về “hợp tác
hóa”, về chủ trương phải đưa những người bần cố nông lên làm lãnh đạo hợp tác
và “phải đào tạo họ”, Giáo sư Luân hỏi: “Nhà nước định đào tạo trong bao lâu?”.
Ông Đỗ Mười nói: “Tình hình gấp rút, đào tạo ba ngày”. Giáo sư Châu Tâm Luân nhớ
lại: “Tôi bắt đầu ngao ngán vì muốn thay đổi thì phải bắt đầu từ cái đầu mà… những
‘cái đầu’ thì như thế”. Sau lần gặp ông Đỗ Mười, nhà kinh tế nông nghiệp Châu
Tâm Luân được đưa về Viện Khoa học Xã hội.
Không chỉ có những đụng độ tại cơ quan. Ở Hội đồng Nhân dân,
Giáo sư Châu Tâm Luân là trưởng Ban Nông nghiệp. Trong một phiên họp toàn thể
thảo luận về các chương trình khoa học của Thành phố, sau khi nghe ông Luân
tranh luận, một đại biểu trong Hội đồng mặc quân phục đứng dậy xin ngưng cuộc
cãi vã, và lớn tiếng: “Các chuyên viên đã để ra rất nhiều thời giờ soạn thảo, đại
biểu đó tư cách gì mà đòi sửa qua sửa lại”. Ông Luân cố dằn lòng: “Tôi xin
ngưng cuộc thảo luận, bởi như vị đại biểu vừa nói, đã có các chuyên viên nghiên
cứu cho chúng ta rồi thì chúng ta chỉ còn là chuyên viên giơ tay thôi”. Chủ trì
phiên họp, ông Mai Chí Thọ không nói gì, chỉ yêu cầu biểu quyết. Nhìn thấy ông
Luân không giơ tay, ông Mai Chí Thọ hỏi: “Ai không chấp thuận?”.
Ông Luân cũng không giơ tay, ông nói: “Toàn thể chấp thuận, một phiếu trắng”.
Một số cán bộ cách mạng tốt bụng bắt đầu lo lắng cho vị giáo
sư trẻ tuổi này, một trưởng Ban Đảng khuyên: “Tôi sáu mươi tuổi, người ta vẫn
xem tôi như con nít, phải ăn nói thận trọng lắm. Anh nhớ, anh chỉ mới hơn ba
mươi tuổi”. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tại diễn đàn của Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, tôi đề nghị phải áp dụng ‘kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước’. Ông Xuân Thủy nghe, nói với tôi: ‘Anh phải có người đỡ đầu, anh về
nói với Sáu Dân đi’. Tôi trả lời ông Xuân Thủy: ‘Nếu tôi nói đúng thì các anh
phải nghe chứ sao lại cần người đỡ đầu?’. Sau đó, ông Mai Chí Thọ nhắc: ‘Cậu
đúng, nhưng áp dụng như vậy thì phức tạp quá, làm sao chúng tôi quản lý được.
Muốn làm phải có những người như cậu. Mà nói thật chúng tôi chưa thể tin hoàn
toàn những người như cậu’”.
Theo ông Luân: “Những năm ấy, tôi chê ông Võ Văn Kiệt nhát,
‘xé rào’ là vá víu; phải ‘phá vỡ’ để áp dụng kinh tế thị trường chứ không thể
phá những đoạn rào. Ông Mai Chí Thọ nghe, nhắc: ‘Phải giữ chính quyền trước hết,
chính sách sai thì còn sửa được chứ mất chính quyền là mất hết’. Về sau tôi mới
thấy ông Mai Chí Thọ đã nói rất thật lòng, họ đã ngủ rừng hàng chục năm để có
chính quyền, làm sao họ để mất cái mà họ vừa giành được đó”.
Hai vợ chồng Giáo sư Châu Tâm Luân đều học ở Mỹ. Trước năm
1975, gia đình ông đã định cư ở một nước Bắc Âu, nhưng cả hai đều chọn con đường
về nước. Sau năm năm cố gắng chòi đạp trong chế độ mới, ông không tìm thấy một
cơ may thay đổi nào. Đầu năm 1979, ông vẫn còn được trả lời phỏng vấn các phóng
viên nước ngoài, nhưng càng về sau thì không thấy nhà báo nào gặp ông nữa. Giáo
sư Châu Tâm Luân nói: “Tôi bắt đầu có dự cảm bất ổn. Khi tình cờ gặp một vài
phóng viên, nghe họ nói mấy lần đến Việt Nam xin gặp tôi đều được chính quyền
trả lời là Giáo sư Châu Tâm Luân đang đi công tác xa. Tôi biết tôi đang dần dần
bị cô lập”.
Dù từng hoạt động trong các phong trào chống đối dưới chế độ
Sài Gòn, ông Huỳnh Kim Báu vẫn phải thừa nhận: “Trước 1975, mặc dù chính quyền
bị coi là bù nhìn, nhưng trí thức vẫn được trọng dụng, họ có quyền thực sự
trong chuyên môn. Sau giải phóng, chính quyền được nói là của mình nhưng trí thức
gần như chỉ được dùng như bù nhìn, trong khi đa phần họ là những người khảng
khái”.
Năm 1977, có lần hệ thống nước máy của Thành phố bị đục, ông
Võ Văn Kiệt mời các nhà trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông
Phạm Biểu Tâm ngồi im. Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Biểu Tâm
nguyên là chủ tịch Hội Sinh viên Hà Nội trước 1945. Năm 1963, con gái Ngô Đình
Nhu là Ngô Đình Lệ Thủy thi y khoa đã bị ông đánh rớt dù bị nhà Ngô gây áp lực.
Ông là một nhà giáo được sinh viên kính nể. Ông Tâm được nói là rất quý ông Kiệt,
nhưng có lẽ do quá bị dồn nén, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu
trí thức khỏe, vì cái gì cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh
đâu phải chuyện tụi tui”.
Một thời gian sau, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trả lại chức hiệu
phó. Trường sợ mang tiếng không nhận, ông khóa phòng, giao chìa khóa, tự chấm dứt
vai trò “chim kiểng” của mình. Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm
Hoàng Hộ hàng năm sang Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên
đó rồi viết thư về cho ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần
phải ở nơi có phương tiện cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ
về.
Còn Giáo sư Châu Tâm Luân, nhân một buổi tối rủ ông Võ Ba tới
nhà chơi, đã đưa cho Võ Ba coi một tập đánh máy hai mươi trang về “tình hình
kinh tế nông nghiệp miền Nam”, rồi nói: “Võ Ba ơi, mình rất mừng vì bản báo cáo
này của mình đã được Mặt trận Tổ quốc đánh máy gởi đi. Hai lần trước thì họ
không chịu đánh máy. Nhưng, Võ Ba ạ, họ đánh sai hết, những thuật ngữ như ma trận
họ đánh thành mặt trận ông ạ”. Mấy hôm sau, Võ Ba chạy qua nhà Giáo sư Luân thì
thấy cửa đóng, bên trong thấp thoáng bóng mấy công an đến “chốt nhà”. Cho dù,
sang tới Thái Lan ông bị các thuyền nhân khác đánh rất đau, khi viết thư về, trả
lời câu hỏi của ông Huỳnh Kim Báu, “liệu vượt biên có phải là một quyết định
sai lầm”, Giáo sư Châu Tâm Luân vẫn cả quyết: “Không, Báu! Dù phải trả giá đắt,
mình vẫn thấy đi là đúng”.
Trong số các trí thức miền Nam, ông Võ Văn Kiệt “xếp” Giáo
sư Châu Tâm Luân vào hàng “khó tính”. Tuy nhiên, ông kể: “Đến nhà Châu Tâm Luân
mình rất thích vì ảnh thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, có khi như búa bổ. Ảnh hy vọng
khi đất nước hòa bình, với sự phì nhiêu của đất đai miền Nam, sẽ có dịp thi thố
giúp phát triển nền nông nghiệp. Nhưng một thời gian sau, thấy cơ chế như thế
thì không thể nào đóng góp được”.
Một người khác từng quen biết Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt
nhưng cũng phải vượt biên là Kỹ sư Phạm Văn Hai, giám đốc nhà máy dệt Phong
Phú. Ông Phạm Văn Hai là người đưa kỹ nghệ nhuộm vào miền Nam. Ông có hai người
con, một người được đặt tên là Phạm Chí Minh, một người là Phạm Ái Quốc. Sau
ngày 30-4, ông Phạm Văn Hai vẫn nhiệt tình tư vấn để phục hồi ngành dệt và
nghiên cứu chất kích thích cây cỏ. Nhưng năm 1977 ông quyết định “đi”.
Vượt biên hai lần, cả hai lần đều bị bắt. Lần đầu bị bắt ở Kiên Giang, Thành ủy
lãnh. Lần hai, bị bắt ở thành phố, ông Võ Văn Kiệt vào thăm, ông Hai nói: “Cho
dù anh quan tâm nhưng như thế này thì không làm được”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận:
“Những người như Kỹ sư Phạm Văn Hai, như Giáo sư Châu Tâm Luân…, nếu chỉ khó
khăn về cuộc sống họ sẽ vượt qua, nhưng nếu bị đặt vào hoàn cảnh không thể đóng
góp thì họ không chịu được. Tôi cũng không biết làm gì hơn, chỉ đề nghị mấy ảnh
đừng vượt biên nguy hiểm”.
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tôi tiếc đứt ruột khi để những anh
em trí thức ấy ra đi, nhưng biết là nếu họ ở lại thì cơ chế hiện thời cũng chưa
cho phép mình sử dụng họ”. Trước khi vượt biên, ông Dương Kích Nhưỡng, một công
trình sư cầu cống, thủy điện, nói với ông Võ Văn Kiệt: “Ước mơ của các anh rất
đẹp, nhưng các anh làm như thế này là không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị
quyết, làm cái gì cũng chỉ theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay
vì theo pháp luật. Trị nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung thì không
được”.
Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu nhớ lại: ông
Kiệt biết là các trí thức bắt đầu vượt biên, ông gọi tôi lên và dặn “Nghe
ngóng, nếu có anh em trí thức bị bắt ở đâu, anh phải lãnh về”. Khi nhận được
tin công an Bình Thuận bắt giam Kỹ sư Dương Tấn Tước, ông Kiệt cấp giấy cho ông
Báu ra Bình Thuận xin “di án về Thành phố”. Ông Báu kể: “Công an Bình Thuận thấy
giấy của Thành ủy thì cho nhận ‘can phạm’. Nhưng khi anh Tước thấy tôi mừng quá
định kêu lên, tôi đã phải giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc
đường, tôi cứ phải làm thinh mặc cho Kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi
Bình Thuận, tôi mới mở còng và giải thích: Công an Bình Thuận mà biết, người ta
chụp đầu cả tôi”.
Đích thân ông Kiệt cũng nhiều lần đến các trại giam để bảo
lãnh các trí thức. Theo ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc
thời đó của ông, hình thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh
Sáu Dân” là kêu tụi tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Nhưng phần
lớn các trí thức đã ra đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu
lần. Lần bị giữ lâu nhất là ở Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai
mình là ai. Như bốn lần trước, ở nhà cứ lo một cây vàng thì được thả”.
Có những người không chịu nhờ Thành ủy, hoặc “lo” bằng vàng.
Theo ông Huỳnh Kim Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đã tự sát.
Đến “thường dân”
Sau ngày “giải phóng”, dồn dập các sự kiện xảy ra trên khắp
miền Nam: hết sỹ quan, công chức bị đưa đi “học tập”, đến cải tạo tư sản, đến đổi
tiền rồi đưa dân đi kinh tế mới. Người dân miền Nam vừa chịu cảnh gia đình ly
tán, vừa bắt đầu phải đứng xếp hàng mua những thực phẩm vốn chưa bao giờ thiếu ở
vùng đất màu mỡ này.
Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ kể: “Ba tháng sau ngày 30-4, cha tôi mất
sau khi nhìn cảnh đời thay đổi khác hẳn với những gì mà ông chờ đợi. Cảnh nhà
đơn chiếc sau khi ông anh thứ hai của tôi di tản, hai ông anh còn lại bị đưa đi
cải tạo. Mẹ tôi rơi vào khủng hoảng. Những người bà con từ Nghệ An vào đều hỏi
tôi đúng một câu: chúng mày có ăn học tại sao lại không đi Mỹ. Những người giữ chức
vụ lớn trong chính quyền dạy chủ nghĩa cộng sản, trước đám đông nói khác, nhưng
ngồi trong gia đình thì không giấu được khi nói về một miền Bắc xã hội chủ
nghĩa điêu tàn. Họ cảnh cáo tôi về những chuyện đấu tố sắp xảy ra. Trong tổ dân
phố của tôi cũng bắt đầu ám chỉ việc gia đình có người đi Mỹ, nhà cho Mỹ mướn,
con có liên hệ đến Nguyễn Văn Thiệu… Mẹ tôi nghe rồi trở bệnh”.
Nhưng điều mà một bác sỹ như ông Nguyễn Đức Tuệ cảm thấy đụng chạm trực tiếp tới
mình là khi chứng kiến chính trị chen vào mọi mặt. Những buổi học tập chính trị,
những buổi họp tổ là dịp để các bác sĩ thiếu tay nghề bù đắp bằng cách cố tranh
đấu được đứng vào “hàng ngũ Đảng”. Phương châm “hồng thắm hơn chuyên” đã khiến
cho trình độ y khoa của các bác sĩ ngày càng đi xuống. Bác sỹ Tuệ kể: “Trong những
buổi sáng giao ban ở bệnh viện Bình Dân, chúng tôi đã phải ngồi chịu trận nghe
các đồng chí y sĩ từ rừng ra răn dạy các thầy tôi như đại Giáo sư Phạm Biểu
Tâm, Giáo sư Trần Ngọc Ninh! Bệnh viện Bình Dân, nơi tôi làm việc, vốn là một bệnh
viện nổi tiếng về giải phẫu, càng ngày càng thiếu thuốc men phương tiện, các cuộc
mổ xẻ thiếu thuốc mê và thiếu dụng cụ”.
Sau vụ “nạn kiều”, chiến tranh lại xảy ra ở hai đầu đất nước.
Giặc giã, đói kém, sự sợ hãi đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài, khiến cho lượng
người vượt biên tăng vọt trong khoảng cuối năm 1979, đầu năm 1980. Một trong những
người bắt đầu vượt biên sau chiến tranh là Lục Phương Mai.
Cha Mai, ông Lục Văn Sáu, là một kỹ sư Tây học nổi tiếng
trong ngành xây dựng, gia đình có nhiều người nắm những chức vụ có nhiều quyền
lực trong chế độ Sài Gòn, nhưng vợ ông Sáu lại là Việt Cộng. Anh em Lục Phương
Mai không thể nào di tản theo các thành viên khác của đại gia đình vì vào đúng
chiều 28-4-1975 thì ông Lục Văn Sáu mất. Khi đó, mẹ Mai vẫn còn đang bị chính
quyền Sài Gòn giam trong một nhà tù ở Thủ Đức. Sáng 30-4-1975, khi anh chị em
Mai đang cúng “mở cửa mả” cho cha thì “Việt Cộng vô”, mẹ Mai một mình lê lết đi
bộ ra khỏi nhà tù. Mãi tới khoảng 3 giờ chiều mấy anh em mới tìm thấy mẹ.
Ba mươi tháng Tư, với gia đình Mai, không phải là một ngày
đoàn tụ, và những ngày tiếp theo thì còn khốn khổ hơn nhiều. Trước đây, ngoài
thu nhập của ông Lục Văn Sáu, gia đình còn có thể sống phong lưu nhờ vào khoản
tiền mà cuối thập niên 1960 chính quyền ông Nguyễn Văn Thiệu trả cho ông nội
Mai, địa chủ Lục Phương Giản, sau khi trưng mua ruộng đất của ông để thực thi
chính sách “người cày có ruộng”. Sau 30-4-1975, khoản tiền nằm trong ngân hàng
Việt Nam Thương Tín ấy không còn giá trị.
Mẹ Lục Phương Mai dù có công nuôi giấu nhiều cán bộ cao cấp
của Cách mạng, nhưng khi ra tù thì cũng không còn sức để nhận được bổng lộc, chức
tước gì. Mấy cô tiểu thư họ Lục bắt đầu nhìn những “con phe” tới nhà khênh ra từng
chiếc tủ lạnh, cây đàn. Năm 1979, anh rể Lục Phương Mai là Thượng sỹ Hải quân
Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Ngọt, một “chuyên gia tổ chức vượt biên”, thu xếp để
mấy chị em ra đi.
Vượt biên khi ấy là lối thoát của những gia đình đã từng
dính dấp tới “ngụy” như Thượng sỹ Trần Văn Ngọt. Trong khi những người vợ sỹ
quan đi học tập phải son sắt đợi chờ thì con cái họ được gửi lên những chiếc
“thuyền” của bạn bè. Theo ông Phan Lạc Phúc: “Khi tôi đi cải tạo, con gái út
tôi mới có năm tuổi. Khi tôi về nó đã mười lăm tuổi, bắt đầu thiếu nữ. Các chị
nó vượt biên hết cả chỉ còn nó ở lại với mẹ cháu đợi tôi”.
“Ra đi” cũng là một quyết tâm mãnh liệt của những người trở
về từ các trại cải tạo. Mặc dù ai ra trại cũng được nhận xét trong tờ lệnh là
“đã nghiêm chỉnh chấp hành chính sách cải tạo khoan hồng độ lượng của Đảng và
Nhà nước”, nhưng họ bắt đầu cảm thấy mình lại đang bước vào một nhà tù lớn hơn,
bởi trên thực tế, họ vẫn không thực sự có tự do. Cả con cái và gia đình đều
không nhìn thấy tương lai. Không có một chỗ đứng nào cho họ ở trong chế độ.
Năm 1977, ông Vượng được ra khỏi trại cải tạo. Sau khi trình
diện ở phường, ông được một sỹ quan an ninh “rất dễ thương” tới gặp và yêu cầu
hợp tác. Công việc tưởng như đơn giản: Mỗi tuần một lần báo cáo gặp ai, đi đâu,
có ai từng là tình báo của chế độ cũ mà trốn học tập không. Ông Vượng nói: “Tôi
hợp tác một tháng để không gây nghi ngờ rồi trốn khỏi Sài Gòn và từ lúc đó bắt
đầu tìm đường vượt biên”. Không tính một lần có ý định vượt biên qua ngả
Campuchia, bốn lần khác bị lộ trước khi lên thuyền nên chỉ kịp chạy thoát thân,
đến lần thứ sáu ông Vượng mới tới được Malaysia.
Tháng 2-1985, họa sỹ Chóe trở về sau gần chín năm nằm sàn xi
măng ở số 4 Phan Đăng Lưu và lao động giữa rừng Gia Lai, bệnh phong thấp và bệnh
tiểu đường bắt đầu nặng thêm. Nhưng sức khỏe không phải là thứ có thể dễ dàng
quật ngã con người khát khao làm việc của Chóe. Từ một cây cọ phản chiến, ông
giờ đây phải “đeo” tờ giấy xác nhận thành phần là “văn nghệ sỹ phản động”. Bà
Kim Loan, vợ ông, nhớ lại: “Không có công ăn việc làm, ông ấy càng ngày càng phẫn
uất rồi trở thành u uất”. Một trong rất ít người tới thăm họa sỹ Chóe lúc bấy
giờ là Huỳnh Bá Thành, nhưng Chóe từ chối tất cả những đề nghị giúp đỡ của
Thành, kể cả việc nhập lại hộ khẩu.
Ngày 7-4-1976, khi an ninh tới tòa soạn tờ Lao Động Mới bắt
Chóe, ông Tổng Biên tập Tống Văn Công nói với người chỉ huy tên là Đô: “Tôi thấy
Chóe làm bất kể giờ giấc, anh ấy muốn đóng góp, muốn hòa nhập. Tôi xin lấy sinh
mạng chính trị của mình ra đảm bảo”. Ông Đô liền nói: “Anh biết gì mà đảm bảo”.
Năm 1985, Chóe đến nhà Tống Văn Công: “Bạn bè cũ tránh tôi
như hủi, anh có dám tiếp tôi không?”. Họ ngồi với nhau rất lâu, cho dù Chóe
không nói ra nhưng ông Công biết người họa sỹ tài ba này đang bế tắc, ông nói:
“Mình tự thấy không đủ tư cách khuyên Chóe điều gì, vì chín năm trước mình đã
không bảo vệ được bạn. Mình chỉ góp ý, nếu đi thì đi chính thức, vượt biên nguy
hiểm lắm”. Sau lần gặp ấy, Chóe biến mất. Gần hai năm sau, một ngày đầu tháng
8-1987, Chóe đột ngột xuất hiện trước mặt Tống Văn Công, áo quần nhếch nhác. Tống
Văn Công chưa kịp hỏi, Chóe đã nói: “Mới ra tù. Hồi đó, tôi vượt biên, bị bắt”.
Sau gần mười năm ở Khám Chí Hòa, năm 1985, nhà báo Đoàn Kế
Tường cũng được ra tù. Mặc dù biết vợ ông đã bán nhà, vượt biên, quyết định tha
của Trại vẫn trả ông về căn nhà ở đường số 2, làng Báo Chí Thủ Đức. Ông Tường về,
bấm chuông, một người phụ nữ trung niên ra mở cửa nhìn ông ái ngại, nói: “Căn
nhà này xui lắm, em tù tội, lại bị vợ bán nhà bỏ đi. Chồng chị đi kháng chiến về,
chị mua nhà này ở chưa được bao lâu thì ổng bỏ chị đi lấy vợ khác. Thôi, nếu
không có chỗ nào để về thì cứ ở đây với chị”. Đọc được sự chia sẻ khá chân
thành của người chủ mới, nhưng ông Đoàn Kế Tường chỉ cám ơn rồi về nhà chị gái
mình.
Bà chị gái thương em, nhưng trong cái không gian chính trị
ngột ngạt lúc đó, chứa trong nhà “một thằng tù phản động” như Tường là điều
không phải dễ dàng, nhất là mấy đứa con của bà chị đã có mấy năm “hòa nhập vào
chế độ mới”. Bà chị dặn: “Cậu nên ra khỏi nhà lúc 5 giờ sáng và về sau 11 giờ,
đừng để công an khu vực nó thấy thằng cậu đi tù về, khó cho mấy đứa”.
Vào đúng rằm tháng Tám năm 1985, Đoàn Kế Tường nhảy xe Kamaz
lên Đaklak. Trời tối, mưa như trút, Tường lang thang từng rẫy cà phê xin việc.
Ông kể: “Tờ giấy tùy thân duy nhất mà tôi có là giấy ra tù, không ai dám nhận.
Đến nửa đêm thì gặp rẫy của một thiếu tá cảnh sát đi học tập về, ông nhận. Ông
cựu thiếu tá dựng cho tôi một cái chòi trên hai mẫu cà phê đang phục hóa. Cực
nhọc nhưng dù sao cũng có việc làm.
Được ít lâu thì anh Trần Hữu Thọ con trai Đại tá Việt Nam Cộng hòa Trần Hữu
Dũng đi qua thấy tôi khổ quá, kêu về nhà ông ở cùng, ngày làm rẫy, tối dạy học
cho mấy đứa con của anh”. Làm được gần một năm thì, một buổi sáng, ông Thọ ra
phố ăn sáng về kể, đội Cảng Sài Gòn lên đá ở Buôn Mê Thuột, ông gặp huấn luyện
viên Tam Lang ở đó. Tường buột miệng: “Tam Lang là bạn tôi”. Sáng hôm sau, ông
Thọ lại ra phố thuật lại với Tam Lang, Tam Lang xác nhận: “Mai nếu anh lại ra
thì đưa nó đi cùng cho tôi gặp”. Gặp nhau, Tam Lang khuyên Tường: “Sài Gòn thiếu
gì việc. Về đi, ở đây làm gì”.
Sài Gòn đúng là có rất nhiều việc, nhưng tù phản động như
Đoàn Kế Tường thì cho dù trình độ cỡ nào, lúc đó cũng chỉ có thể đạp xích lô. Một
người bạn giới thiệu với Hội thánh Tin Lành để nơi này cho mượn một chiếc xích
lô, Tường và một người bạn chia nhau đạp. Đoàn Kế Tường kể: “Sau đổi tiền, kinh
tế càng xuống tận đáy, ăn còn không đủ lấy đâu tiền đi xích lô”. Đấy là những
năm Sài Gòn đầy những ông đạp xích lô trong khi ngóng khách ở các ngả ba, ngả
tư, tranh thủ đọc các cuốn sách tiếng Anh, tiếng Pháp. Nhiều người trong số họ
cũng vừa mới đi tù về.
Ông Tường kể: “Một bữa dong xe cả buổi mà không có người
khách nào, tình cờ gặp thằng bạn thân chạy chiếc Honda tới. Tôi muối mặt hỏi:
Tao đói quá, mày cho tao xin mười đồng. Thằng bạn nói đợi chút tao quay lại.
Tôi đợi tới trưa không thấy. Về nhà, bà chị cho một lượng vàng, bảo vượt biên
đi”.
Đoàn Kế Tường xuống Cà Mau, tham gia vào chuyến vượt biên do một cựu tù cải tạo,
ông Nguyễn Thụy Quế, tổ chức. Ông Tường kể: “Chúng tôi lên một chiếc ghe chở
heo chạy từ Năm Căn ra Ngọc Hiển. Gặp con nước ròng, ghe phải tấp lại chờ. Trên
bờ, từ một quán cà phê, bài hát Quê Hương cứ được phát lặp đi lặp lại. Năm ấy,
Quê Hương nổi như cồn, tôi ở Sài Gòn nghe, nghĩ: tào lao. Nhưng lúc chuẩn bị rời
quê hương, tự nhiên xúc động quá. Tôi trốn ghe quay về, chị tôi chửi quá trời.
Tôi chủ động tìm gặp Đỗ Trung Quân tính khen. Không ngờ Quân bảo: em mắc nợ
anh, anh đi thì tốt hơn. Khi đó tôi chưa hiểu hết lời Quân nói”.
Những ngày sau đó của Đoàn Kế Tường là ra ga Hòa Hưng xếp
hàng để sau đó bán chỗ cho người đi tàu mua vé; đêm thì cho khách đợi tàu thuê
chiếu và bán cho họ vài xô nước rửa mặt. Theo ông Tường, điều đó vẫn chưa phải
là bi kịch. Một dịp trước ngày 30-4 năm 1987, như thường lệ, công an “truy quét
tệ nạn xã hội”, bắt tất cả về công an Quận 3. Sáng hôm sau, công an sàng lọc,
ai có chứng minh thư, có hộ khẩu thành phố thì cho về, ông Tường chỉ có giấy ra
trại thì bị giữ lại để chuẩn bị đưa đi tập trung cải tạo.
Ông Tường kể: “Đang đứng xớ rớ trong sân công an Quận 3 thì
thấy Huỳnh Bá Thành chạy xe Vespa vô. Anh ta dừng lại trước trước đám can phạm.
Tôi cúi mặt xuống tránh. Lúc sau, ngẩng lên thấy ông vẫn nhìn trừng trừng, rồi
hỏi: Đoàn Kế Tường à? Có lẽ thấy tôi tàn tạ quá, Huỳnh Bá Thành khóc, bảo công
an tha tôi rồi cho tôi năm mươi đồng, dặn: mai mốt qua báo Công An gặp tao, có
cả thằng Từ Kế Tường nữa. Tôi về, vào chùa Liên Trì gặp nhà sư Thích Không
Tánh, hỏi nên không, nhà sư gật đầu rồi nói: Tao đã phản động, thêm mày phản động
nữa, cái chùa này sẽ không phật tử nào dám đến. Thầy Thích Không Tánh lúc ấy
cũng chỉ mới ra tù”.
Ông Tường kể tiếp: “Tôi lên, Huỳnh Bá Thành mua cho hai bộ
quần áo rồi hỏi: ‘Ông muốn đi thì tôi lo cho đi’. Tôi nói không, lúc này không
vì bài Quê Hương nữa mà vì không muốn lại bị tù đày. Thành nói: ‘Ông có một tuần
để suy nghĩ’. Một tuần sau tôi cũng nói không đi. Thành hỏi: ‘Muốn làm báo lại
không, tôi đang cần những người có nghề’. Tôi nhận lời. Rồi Thành thu xếp dẫn
tôi tới gặp ông Mai Chí Thọ , nhân một lần ông Thọ vào Sài Gòn. Sau khi ông
Thành giải thích, ông Thọ hỏi: ‘Chú mày dám bảo lãnh không?’, ông Thành nói:
‘Dám’. Ông Thọ kêu người đem giấy bút ra cho Thành cam kết. Thế là tôi trở
thành người của Công an Thành phố Hồ Chí Minh, một tờ báo đang ăn khách lúc
đó”.
Bài báo đầu tiên đăng lên, tôi ký Đoàn Thạch Hãn nhưng bạn bè cũ vẫn biết đấy
là tôi. Chị tôi mừng vì ngoài chuyện tôi có công ăn việc làm, từ một thằng tù
phản động, tôi trở nên có thế ăn thế nói trong chế độ. Nhưng ngay sáng hôm báo
ra, Đinh Viết Mâu, cựu thiếu úy biệt kích, là bạn thân trong Chí Hòa, đạp xe tới
nhà chị tôi. Mâu lặng lẽ bước vào tát vào mặt tôi hai tát rồi nói: ‘Thằng phản
bội’. Rồi, giữa trời mưa như trút, Mâu đạp xe đi luôn. Tôi đưa bài báo cho ông
Khai Trí, một bạn tù khác, ông nói: “Cậu viết không có gì xấu nhưng tôi đọc có
cái cảm giác như cậu đang cầm quạt lông ngâm Kiều của Nguyễn Du trong động đĩ”.
Ông Tường kể tiếp: “Có lẽ những người ca ngợi sự kiên cường
của tôi khi còn ở trong Chí Hòa muốn tôi mãi mãi là người hùng trong mắt họ.
Còn những người ở phía khác thì cũng nhìn tôi khinh miệt như nhìn một kẻ chiêu
hồi. Khi nghe Đỗ Trung Quân nói ‘em mắc nợ anh, anh nên đi’, tôi chưa hình dung
hết. Càng về sau, tôi càng hiểu vì sao phần lớn những người tù như tôi phải tìm
lối thoát bằng cách vượt biên”.
Năm 1982, ngay sau khi ra khỏi trại cải tạo, Trung úy Trần
Quang Phước lo cho cả gia đình gồm mười bốn người vượt biên. Khi vừa ra cửa biển
thì một lốc máy tàu bị hỏng. Chủ tàu đề nghị mọi người gom tiền để họ vào bờ
mua phụ tùng sửa máy. Ai dè họ đi luôn. Mấy giờ sau thì tàu công an ra. Người
tài công cố cho thuyền chạy bằng lốc máy còn lại. Trần Minh Triết, con trai ông
Phước, năm ấy mười sáu tuổi, nhớ lại: “Một loạt đạn bắn thẳng vào buồng lái,
xác người tài công văng xuống biển”. Sau một thời gian chờ thanh lọc, vợ con
ông Phước cũng như những đứa trẻ khác, chỉ bị giam hai ngày rồi được tha về.
Ông Phước bị giam tại trại giam Trần Phú.
Trần Minh Triết kể: “Một hôm, tôi đang thụt bida thì bà già
sang, ngoắt ra, dắt đi ngay lên chùa Tĩnh Hội, Nha Trang. Đi không kịp mang quần
áo. Mấy thầy chùa đưa về xóm Bóng gửi chờ bắt tàu vô Sài Gòn. Lúc đó mới hay,
ông già trong khi được ra khỏi buồng giam đã tìm cách trốn trại. Từ đó, hai anh
em tôi mỗi đứa được gửi một nơi, hai ông bà già cũng trốn chui, trốn nhủi. Cả
nhà hiếm khi mới được gặp nhau. Dượng tôi đi tập kết về, là bác sỹ một bệnh viện
lớn quen biết rất nhiều những người trong chế độ mới, nhưng cũng không thể giúp
gì hơn. Một hôm ông bảo với ba má tôi: Anh nghĩ các em nên đi, ở đây sống không
nổi đâu”.
Nữ nhà văn Nhã Ca chỉ bị tù hơn một năm. Nhưng trong thời
gian hai vợ chồng bà ngồi tù, chính quyền địa phương đã trục xuất ba người con
của bà ra khỏi nhà. Căn biệt thự của ông bà trên đường Ngô Tùng Châu, Bình Thạnh,
bị chính quyền lấy giao cho hợp tác xã mây tre lá. Ra tù, Nhã Ca đưa các con về
nhà bà ngoại ở số 142 Tự Do. Bà chỉ định buôn bán làm ăn, nuôi con và chờ chồng
– nhà thơ Trần Dạ Từ – đang bị đưa đi “cải tạo” trên trại Gia Trung. Nhưng áp lực
đến với gia đình bà càng ngày càng thêm dồn dập.
Năm 1977, hai đứa con của bà, một mười bốn tuổi, một mười một
tuổi, bị đuổi khỏi Nhạc viện Thành phố. Năm 1978, ngôi nhà dùng làm cửa hàng ở
số 142, bấy giờ gọi là đường Đồng Khởi, bị niêm phong. Bị ép và lo sợ bị “xe
cây” tới nhà “hốt đi kinh tế mới” như số phận của nhiều nhà tư sản khác, nửa
đêm, Nhã Ca phải đưa các con về Cần Thơ ở nhờ nhà người thân. Bức bối và bế tắc,
Nhã Ca đã phải để cho ba đứa con lên tàu vượt biên. Chuyến đi bất thành. Cả ba
con của bà bị bắt.
Trước khi tới biển
Thời ấy, thường có hai dạng tổ chức vượt biển – tự túc,
nghĩa là không dính líu gì đến công an, và mua bãi. Dạng thứ nhất thường gặp
nguy hiểm hơn lúc xuống tàu rời đất liền. Mọi thứ đều lén lén, lút lút trong
màn đêm. Những người này thường chọn những đêm không trăng, và chấp nhận bị bắt
bất kỳ lúc nào. Dạng thứ hai, thường được mấy người tổ chức móc nối, sắp xếp
ngày giờ trùng với ca trực của “tay trong” để đưa người xuống tàu. Không có dạng
nào là chắc chắn, nhưng những người đã “móc nối” thì khả năng bị công an xông
ra từ trong các lùm cây là ít hơn.
Không phải ai cũng có tiền có vàng để đóng cho các chủ tàu:
“đĩ điếm” thì coi như đã hết thời sau ngày 30-4-75; những “gia đình ác ôn”
không phải đi học tập thì trước đó không phải ai cũng có chức tước tiền bạc; những
người mà chồng con đang ở trong trại thì còn phải mang gánh nặng thăm nuôi – đối
với nhiều người vợ tù, nước có thể bỏ nhưng chồng trong trại giam thì không thể.
Trở lại câu chuyện của Thượng sỹ Trần Văn Ngọt và cô em vợ của
ông, Lục Phương Mai. Ngày 7-6-1979, từ nhà, mấy chị em, dì cháu Mai đi xích lô
máy ra bến xe miền Tây rồi đi xe đò xuống Tiền Giang. Họ “ém” trong nhà một
nông dân, chờ đêm ập xuống thì nhảy lên một chiếc xuồng con chạy ra ghe lớn đang
đậu chờ ngoài cửa sông. Theo dự kiến, 12 giờ đêm chiếc ghe lớn ấy sẽ bắt đầu
hành trình. Nhưng khi vừa thấp thoáng thấy cửa sông thì bỗng từ trong bờ dừa nước,
một chiếc bo bo xé nước phóng ra, ép sát con xuồng. Thượng sỹ Trần Văn Ngọt
chưa kịp phản ứng đã ăn một báng súng khuỵu xuống. Tất cả trai tráng lẫn đàn bà
con gái bị đưa về trại giam Tiền Giang. Ngay trong đêm, đoàn bị chia hai: nam một
bên, nữ một bên. Và lập tức, quản giáo quát: “Cởi áo ra”; rồi, “Cởi quần ra”; rồi,
“Cởi luôn quần lót”. Quần áo, giày dép đều bị sờ nắn tới từng đường chỉ.
Trước khi ra đi, những người vượt biên đều đã dự liệu tình
huống này nên khi chiếc bo bo vừa phóng ra, hạt xoàn, vàng, đô la đều đã bị ném
không thương tiếc xuống nước. Với nhiều người, “thà để cá ăn, dứt khoát không để
vàng bạc rơi vào tay Việt cộng”. Nhưng Lục Phương Mai vẫn cố giữ lại hai lượng
vàng. Trước khi cởi đồ, chị lén lút chuyển hai lượng vàng ấy cho cô cháu gái
tên là Thùy, Thùy chuyền cho em gái là bé Tí Hương, năm ấy mới lên sáu tuổi
không bị quản giáo để ý. Tí Hương nhét vàng vào bụng để rồi khi mấy dì cháu về
buồng giam liền đưa lại cho dì giấu trong một tuýp thuốc đánh răng.
Chín anh em, dì cháu nhà Lục Phương Mai nằm khoảng hơn một
tháng thì được mẹ viết thư lên Quận ủy “nhận lỗi là đã không giáo dục tốt con
em để chúng nó làm điều sai quấy”. Xét gia đình “có công với Cách mạng”, mấy chị
em Mai được tha, riêng Thượng sỹ Trần Văn Ngọt thì bị kêu án ba năm tù .
Nếu như chiếc thuyền vượt biên của Lục Phương Mai bị chặn
ngay từ cửa sông thì thuyền của chị em nhà Ngô Hồng Ngọc lại đã đi được nhiều
giờ trên biển. Ngày 26-12-1983, Ngọc, lúc đó hai mươi ba tuổi, vượt biên cùng với
một đứa em, hai người dì và bốn chị em họ khác. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi được
đón bằng xe buýt lớn, giống như một đoàn người hành hương, được đưa tới lăng Ngọc
Hà – Bà Rịa, vào một nhà dân đợi tới đêm thì lên một thuyền nhỏ. Chiếc thuyền
taxi này chạy khoảng một giờ thì tới địa điểm đón, từ đó chúng tôi được đưa vào
một thuyền đánh cá.
Chiếc thuyền nhỏ này – ngang khoảng 2,5m, dài 15m – do sáu
gia đình hùn tiền: Gia đình bác sĩ Vận cùng vợ và hai con trai nhỏ (bác sĩ Vận
và vợ là y sĩ, họ có trách nhiệm lo sức khỏe cho mọi người cùng đi); một người
hoa tiêu cùng gia đình; ông tài công cùng ba gia đình chúng tôi. Thế nhưng, khi
được đưa vào thuyền lớn, một nhóm người đông hơn cả số đóng tiền, ém sẵn trước ở
đấy, nhân lúc lộn xộn, cùng lên tàu. Thế là con tàu phải chở tới 126 người, lớn,
bé, già, trẻ. Từ các tai mắt ở khu vực cho đến lực lượng thường xuất hiện ngoài
“bến bãi” đều được “lo bao”, lại đi vào dịp cận Tết, nên việc khởi hành diễn ra
suôn sẻ”.
Ngô Hồng Ngọc kể tiếp: “Hai chị em tôi được mẹ đưa cho một
túi sâm cắt lát với lời dặn, lúc khát và mệt thì lấy ra ngậm. Mẹ cũng may lẫn
trong gấu áo, gấu quần tôi 1 số tiền đô la Mỹ, trên tay đeo bốn nhẫn nhỏ loại một
chỉ, với hi vọng khi tới đảo có thể dùng liên lạc về cho bố mẹ. Xuống thuyền,
đàn bà và trẻ em được đưa vào dưới boong, chúng tôi nằm chen chúc lên những
thanh gỗ đan vào nhau quét đầy nhựa đường. Mỗi đợt sóng đánh, ruột gan ai nấy
quặn lên và ói. Em gái nhỏ của tôi đói và khát, những miếng sâm nhỏ mẹ cho
chúng tôi đã nhấm hết mà vẫn không hết mệt. Anh Lê, một người bạn của gia đình
tôi, phải đi ‘ngoại giao’ để mang về từng bát nước cháo cho chúng tôi chia
nhau. Ngày thứ ba trên biển, lâu lâu anh Lê dìu hai chị em tôi lên boong để hít
thở chút ít rồi phải quay lại hầm tàu”.
Ngày thứ tư, thuyền bị cháy máy do tài công ngủ quên, cậu
con trai châm nhớt không kịp. Một người em họ của Ngô Hồng Ngọc, Ngô Quang Hưng
, năm ấy mới hơn mười tuổi, nhớ lại: “Trong mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, mọi
người cố lấy chăn mền căng ra làm buồm, cố ra được ngoài hải phận quốc tế. Có
những đêm, nhìn thấy đèn tàu lớn ở phía xa, mọi người kêu gào, dùng đèn pin
đánh tín hiệu SOS kêu cứu nhưng tàu lớn vẫn không vào. Có hôm, thấy máy bay bay
ngang đầu, lại hò hét, lại hy vọng. Một chị đi tiểu trong cái ‘toilet’ được
khoanh bằng một tấm bạt sát bên mạn thuyền, bị sóng đập rơi xuống biển… Cứ đêm
đến là lại nghe tiếng sóng dập hòa lẫn với những lời cầu nguyện”. Theo Hồng Ngọc:
“Thuyền càng lắc mạnh tôi càng nắm chặt tay em gái, chúng tôi chỉ muốn sống chết
có nhau. Xung quanh, con gọi cha mẹ, vợ kêu chồng… Không ai còn hy vọng tới bến
bờ tự do mà chỉ còn hy vọng sống”.
Cuối cùng, mọi người thở phào khi nhìn thấy đảo. Nhưng khi
con thuyền dạt vào cách đảo chừng 300m thì bị đâm vào đá ngầm, thủng đáy. Mọi
người bò hết lên boong. Dân đánh cá và một số người bơi giỏi thì nhảy xuống để
bơi vào bờ thoát thân. Ngô Quang Hưng kể: “Khi nhảy xuống, bác sỹ Vận bị bánh
lái tàu đập vào đầu, chết. Cái chị đi toilet rơi xuống biển đêm trước, khi ở
ngoài khơi thì cứu được, lần này lại bị chết khi cố bơi vào bờ”. Theo Ngô Hồng
Ngọc: “Hai mươi lăm người, cả nam lẫn nữ bị đập mạnh vào đá và bị sóng dập, chết
ngay trước mắt chúng tôi: đàn ông nằm sấp, đàn bà nằm ngửa, xác họ nổi lên chỉ
sau hai ba phút”.
Con thuyền từ từ chìm. Một số người nhanh trí, lấy dây buộc
vào các mỏm đá để phụ nữ, trẻ em bám vào, từng bước leo qua từng phiến đá lớn,
quanh những xác chết. Thêm một số người chết do sóng đánh mắc kẹt vào kẽ đá.
Ngô Hồng Ngọc kể: “Chừng một giờ sau, một đợt sóng lớn ập tới, từ đảo nhìn ra,
thuyền của chúng tôi vỡ vụn thành những tấm gỗ mỏng trôi lênh đênh, cùng với
xác người và một vùng loang của máu”. Theo Ngô Quang Hưng: “Một ấn tượng cực kỳ
khó quên là trên bờ có cơ man nào là dép Lào. Và nhiều mảnh gỗ không biết từ
đâu dạt đến”. Ngọc nói: “Có lẽ, không chỉ thuyền của chúng tôi lâm vào cảnh ngộ
này”.
Điều ám ảnh những người sống sót nhất, theo Ngô Quang Hưng:
““Khi các thuyền nhân đang đấu tranh với sóng, đá ngầm, bánh lái, để tìm cách
lên bờ thì cũng là lúc thủy triều đang dâng. Cái mỏm đá mà chiếc ghe kẹt lại
càng lúc càng xa bờ, chìm dần xuống. Không hiểu thế nào mà còn một cậu bé đứng
trên mỏm đá đó khi những người còn sống sót đã lên hết trên bờ. Sóng thì quá mạnh.
Vách đá dựng đứng. Ba bốn ngày đói khát. Khát khủng khiếp! Không ai có khả năng
bơi ngược lại mỏm đá càng lúc càng xa bờ. Tất cả thẫn thờ đứng nhìn. Những cái
xác bồng bềnh. Đàn ông sấp. Đàn bà ngửa. Biển ngập dần lên mỏm đá mà cậu bé đứng,
lúc này chỉ còn là một cái chấm ngọ nguậy. Mọi thứ biến mất như chưa từng tồn tại
trên đời: cái ghe, mỏm đá, cậu bé. Đoàn thuyền nhân quay lưng trèo lên đỉnh núi
trước khi mặt trời lặn”.
Gia đình Ngô Hồng Ngọc và gia đình người tài công may mắn
còn nguyên vẹn. Vách núi, về sau mọi người mới biết là hòn Bảy Cạnh, dốc đứng,
nhưng mọi người vẫn cố gắng trèo lên vì nước thủy triều. Ngô Hồng Ngọc nói:
“Chúng tôi nắm tay nhau cho qua cơn đói khát… Đau buồn nhất là gia đình bác sĩ
Vận, ông chết trước mắt vợ con. Người vợ của ông giờ đó đã trở thành góa phụ lại
bị gãy chân. Chị Thảo, em gái bác sĩ Vận, vừa dìu chị dâu vừa lo kéo hai thằng
cháu nhỏ. Chúng vừa nhớ bố vừa đói khát, chốc chốc lại kêu: ‘Bố ơi! Con đói
quá. Bố ơi! Con lạnh quá’. Tối như đêm ba mươi. Không mấy ai để ý đến thời khắc
giao thừa. Chúng tôi chỉ đợi trời sáng để leo qua đỉnh núi, hy vọng ở phía bên
kia có người”.
Nhưng ở phía bên kia vẫn chỉ là đảo hoang. Ngô Hồng Ngọc kể:
“Chúng tôi bẻ củi, chất thành đống lớn, đợi trời tối để sưởi cho bớt lạnh và hi
vọng tàu đi ngoài xa có thể nhìn thấy và tới cứu. Thêm một đêm ngóng trông. Khi
đống lửa đã sắp tàn thì nghe có tiếng ca nô chạy vào bờ, tiếng súng bắn và sau
đó tiếng loa phóng thanh: ‘Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam… Công an nhân dân
Côn Đảo… Yêu cầu bỏ vũ khí…đầu hàng!’. Vẫn là ‘Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam’. Không gì có thể làm chúng tôi đau đớn hơn. Sáng mùng Ba Tết, chúng tôi được
một xà lan lớn đưa ra biển và đưa vào núi lớn Côn Đảo”.
Theo Hồng Ngọc: “Từ hôm đó chúng tôi được phát mỗi người hai
bộ quần áo tù màu ghi đậm, vải thô xù xì rồi được đưa vào trong một phòng giam
lớn, hai bên có hai bệ bê tông dài, ở giữa là lối đi. Chúng tôi nằm xếp lớp
trên đó, không chăn, không gối. Hàng ngày, được phát hai lần cơm, lâu lâu mới
có muối mè hay rau luộc. Sau giờ điểm danh sáng, cửa phòng mở, chúng tôi được
đi lại, tắm rửa, hay lòng vòng quanh mấy hàng hiên. Một số người sẽ được gọi đi
‘làm việc’. Đối diện với trại nữ là khu trại nam. Các tù nhân nam bị nhốt trong
nhà, trừ những giờ ra ngoài đi lao động, trồng rau hay dọn vệ sinh. Khi chúng
tôi tới, Côn Đảo không còn tù chính trị. Những người đang ở đây, phần lớn là
dân vượt biên, những người bị giữ lâu nhất thường là dân ‘có tóc’ như chủ ghe,
tài công”.
Các thuyền nhân bị giữ ở Côn Đảo bốn tuần thì được đưa lên một
xà lan lớn, chở vào trại giam Cỏ May, Vũng Tàu. Khác với Côn Đảo, trại giam Cỏ
May giam đủ loại tù, tù chính trị hạng nặng bị nhốt riêng. Hồng Ngọc bị nhốt
chung với các nữ tù chính trị và hình sự. Ngọc kể: “Trong phòng, có người tên
là Dì Ba, nghe đâu từng làm sĩ quan tâm lý chiến thời Việt Nam Cộng Hòa, đã vượt
biên sáu lần, cả sáu lần đều vô khám”. Ngọc bị giam bảy tháng ở trại Cỏ May. Một
người lính hải quân Việt Nam Cộng Hòa vì tội tổ chức vượt biên đã bị nhốt năm
năm trong trại.
Năm 1985, Bộ Luật Hình sự của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam lần đầu tiên ra đời, coi vượt biên là một tội hình sự, xếp chung vào
nhóm tội “xâm phạm an ninh quốc gia”. Trước đó, những người vượt biên bị bắt có
thể bị giam mà không cần xét xử hoặc bị xử theo Pháp lệnh Trừng trị các tội Phản
Cách mạng do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1967. Theo Luật sư Trương
Thị Hòa, người đã từng bào chữa cho một số bị cáo “vượt biên”, tòa áp dụng khá
linh hoạt các quy định trong Pháp lệnh 1967, tuy nhiên, phần lớn bị xử tù theo
Điều 9: “Tội trốn theo địch hoặc vì mục đích phản cách mạng mà trốn ra nước
ngoài”.
Trại Gia Trung đã dạy cho Chóe những bài học dài ngày trong
buồng biệt giam, để khi vượt biên bị bắt, anh thôi không “cãi” là mình vô tội nữa.
Tại trại giam Công an Long An, anh đã rất “ngoan” nên “án” ba năm chỉ ở hai năm
là được tha. Nhưng bị bắt ngày ấy vẫn được gọi là may.
Anh Phùng Văn Vinh nhớ lại: “Mùa hè năm 1981, ở bãi biển Thanh Bình Đà Nẵng, có
bốn người vượt biên bị bắn chết, xác trôi vào được xếp ngay hàng trên bờ chờ
người tới nhận… Trên xác họ, đầy kín những lỗ đạn đen xỉn, ruồi vo ve bay… Một
xác là của một người thanh niên lai Mỹ với mái tóc vàng óng, nằm dài ngoằng so
với những người còn lại. Nghe đâu sau đó có ba người được thân nhân tới nhận
xác đưa về chôn, còn anh thanh niên lai Mỹ vì không có ai đến nhận, nên đã bị
đưa đi mất vì dân chúng quanh đó không chịu nổi mùi thối… Tôi nghe những người
lớn lúc đó thầm thì bàn tán, chính quyền cố tình để vậy để răn đe dân chúng
trong vùng. Chẳng là dân Đà Nẵng có tiếng về chuyện liều mạng vượt biển”. Nhưng
đó chỉ là những cái chết được nhìn thấy.
Đường tới các trại tị nạn
Trong suốt một thập niên rưỡi sau 1975, vượt biên với nhiều
người miền Nam là lối thoát duy nhất, nhưng cũng là lối thoát đắt giá nhất.
Hàng nghìn người đã phải trả bằng chính sinh mạng của mình. Hàng ngàn người
khác tuy “tới được bến bờ tự do” nhưng sự bình yên không bao giờ trở lại sau những
nỗi kinh hoàng trên biển.
Ngày 24-10-1977, toán vượt biên của Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ bước
sang ngày thứ năm của hải trình thì xà lan bị hỏng máy. Họ phải gom hết
“pông-sô” làm buồm lái về phía Thái Lan. Hai ngày sau, thực phẩm dự trữ mang
theo bắt đầu cạn. Bác sỹ Tuệ kể: “Ban tổ chức cuộc vượt biên họp ‘mở rộng’ đưa
ra ‘chính sách công xã’, gom thực phẩm của tất cả các nhóm trên xà lan, tập
trung và chia đều khẩu phần hàng ngày. Thùng nước trên xà lan được khử trùng bằng
chlorine, đun nấu ăn và nước uống. Mỗi gói cơm sấy được nấu thành cháo chia cho
gia đình mười người… Ngày thứ mười, có bốn chiếc thuyền buôn lớn đi qua, chúng
tôi đốt lửa báo hiệu, chúng tôi vẫy tay, chúng tôi đánh cờ semaphore bằng quần
áo… Nhưng những chiếc thuyền ấy đã bỏ đi mặc dù thấy nhóm người chúng tôi bơ vơ
giữa biển trên chiếc xà lan nhỏ bé”.
Chiều ngày thứ mười một của chuyến hành trình, theo Bác sỹ
Tuệ: “Biển êm sóng lặng, chúng tôi chợt thấy một chiếc thuyền đánh cá neo lại từ
phía xa chân trời. Hy vọng lại vươn lên trong buổi chiều trên biển. Chúng tôi vẫy
tay, chúng tôi la hét, chúng tôi phất quần áo làm cờ ra hiệu nhưng không thấy
những người trên thuyền đáp ứng. Cuối cùng, sự may mắn đã đến khi lưới đánh cá
của chiếc thuyền đó trôi ngay gần chiếc xà lan! Hai người bạn trẻ tuổi, Đức và
Thành, can đảm nhảy xuống biển, bơi đến, bám chặt lưới cho đến khi các ngư phủ
Thái Lan kéo cả hai lên thuyền. Mọi người trên xà lan nhìn theo hồi hộp chờ đợi…
Chiếc xà lan được những ngư dân Thái kéo vào thành phố Pattani ở bờ Đông Thái
Lan vào ban đêm. Những ánh đèn thành phố nhìn từ ngoài biển là những ánh sáng
hy vọng. Xà lan bị cô lập ở bến Pattani. Cảnh sát lên kiểm tra, chúng tôi không
chánh thức được lên đất liền, nhưng được phép tiếp xúc với dân địa phương, được
mua hàng và lần đầu tiên được uống Coca Cola sau hai năm kể từ ngày được giải
phóng”.
Toán vượt biên của bác sỹ Tuệ chỉ được ở lại Pattani hai
ngày để mua thêm thực phẩm. Sửa chữa máy xong, xà lan của họ bị tàu Thái hộ tống
đưa ra biển hướng về phía Songkhla nơi có trại tị nạn cho người Việt. Xà lan đi
hai ngày, đến Songkhla, thấy bến nhưng bị tàu tuần Thái chĩa súng đuổi ra. Bác
sỹ Nguyễn Đức Tuệ kể tiếp: “Một ngày sau, xà lan lại chết máy. ‘Pông sô’, áo
mưa lại kết lại làm buồm, xà lan trôi nổi bảy ngày, cuối cùng nhờ có luồng nước
kéo trở lại Songkhla. Xà lan tấp bến. Chúng tôi bồng bế nhau, già trẻ lớn bé lội
xuống biển. Cùng lúc, dân Thái Lan tràn lên quăng hành lý xuống và cướp đi
luôn, máy tàu bị họ phá và giật xuống biển. Cả đoàn phải ở ngoài bờ biển, màn
trời chiếu đất, ban đêm chúng tôi đào những hố cát để làm giường tránh gió và
canh chừng cho các bà các cô, sợ dân Thái Lan hãm hiếp. Ban ngày dân địa phương
bu quanh nhìn chúng tôi bị rào bởi vòng rào dây thừng như đi xem sở thú. Họ
quăng đồ ăn, quăng trái cây vào như cho khỉ ăn. Tự do chưa thấy chỉ thấy cướp”.
Ba ngày sau, ông tỉnh trưởng Songkhla xuất hiện với lính cận
vệ. Họ dẫn theo sáu mươi bảy thuyền nhân khác đi bằng thuyền từ Phú Quốc đến
Songkhla. Chính sách Thái lúc bấy giờ không nhận người tị nạn. Những người này
bị đuổi ra bãi để nhập chung với nhóm của Bác sỹ Tuệ. Ông Tuệ kể: “Tôi biết
chút tiếng Mỹ, đứng nói chuyện với tỉnh trưởng Songkhla xin ở lại. Tỉnh trưởng
Songkhla cầm gậy chỉ huy đánh vợ tôi đang bồng con trên tay, miệng thì la
‘let’s go’. Các con của những phụ nữ khác cũng bị giằng ra khỏi tay mẹ, ném từng
đứa một lên xà lan, các bà mẹ đành phải theo con. Lính Thái đánh anh Hải chảy
máu mũi. Tôi đứng bên cạnh ông tỉnh trưởng, nổi nóng tiến gần ngay cạnh ông ta,
cận vệ sợ tôi đánh ông tỉnh trưởng, một người vội vàng rút khẩu súng Colt lên đạn
chĩa vào đầu tôi. Một trung sĩ cận vệ tử tế, nói nhỏ: bác sĩ đừng chống cự, họ
sẽ bắn ông thật đấy”.
Bác sỹ Tuệ kể tiếp: “Ở trên xà lan hơn mấy tuần, khói dầu
diesel đóng lên mặt mũi, thân thể chúng tôi đen như mọi, đầu tóc ngứa ngáy, chải
thì thấy chí rận rơi xuống. Nhiều trẻ em da bị lở loét vì nắng và dầu. Con bé
Ngọc của chúng tôi, ngày xuống xà lan ăn mặc tươm tất, quần áo đẹp đẽ tự tay bà
ngoại may, khi bước ra khỏi khoang xà lan đã thành ‘cô bé lọ lem’, quần áo dính
nước sét hầm xà lan đổi thành màu cháo lòng… Một tuần ở Narathiwat, vợ chồng
tôi thân với vợ chồng một y tá trẻ ngành quân y Thái. Biết chúng tôi sẽ phải ra
đi chứ không được đưa về trại tị nạn ở Thái Lan như chúng tôi tưởng, họ nói với
tôi là họ không nghĩ chúng tôi sẽ có thể sống sót trong cuộc hành trình sắp đến
nên xin cho bé Ngọc ở lại làm con nuôi, nếu chúng tôi may mắn đến được đất liền,
qua Mỹ lúc ấy chúng tôi có thể làm giấy tờ hội ngộ. Đề nghị tử tế và thành thật
này làm chúng tôi bâng khuâng và suy nghĩ. Em tôi, Hồng và Hiến họp lại đêm hôm
ấy nói rằng: Sống chết có nhau, nay đã đi đến đây chỉ còn một quãng đường ngắn,
anh em có xui xẻo thì xui xẻo cùng. Vợ chồng tôi đã quyết định để bàn tay Trời
định đoạt”.
Ngày 30-11-1977, nhóm vượt biên của bác sỹ Tuệ đến
Trengganu, Malaysia, sau bốn mươi hai ngày lênh đênh. Cho dù có lúc sống chết
chỉ còn trong gang tấc, chuyến đi của họ được coi là may mắn. Đoàn có 168 người,
gồm sáu mươi phụ nữ và sáu mươi trẻ em, không bị nạn hải tặc, không có người bị
bệnh nặng, không có người phải bỏ xác trên biển.
Chuyến vượt biên thứ sáu cũng đã đưa Thiếu úy Phan Ngọc Vượng
tới được một trại tị nạn ở Malaysia. Nhưng trước đó, chuyến vượt biên thứ năm của
ông vào cuối năm 1978 đã bất thành dù có nhiều tình cờ may mắn.
Chiếc ghe đưa họ ra khơi là loại ghe bầu chạy trên sông Tiền,
thường được gọi là ghe cà dom. Đi được ba ngày, ba đêm thì chết máy, chiếc ghe
trôi vô định ngoài hải phận quốc tế, gặp gần năm chục chiếc tàu chạy qua mà
không có một chiếc nào cứu giúp. Ngày thứ tư, vào khoảng 5 giờ chiều, xuất hiện
một chiếc tàu tên là Hegenburger, chạy gần. Ông Vượng quyết định nhảy xuống biển
bơi ra chặn đầu.
Con tàu đồ sộ kéo còi giận giữ trong mấy phút rồi thả một
chiếc ca-nô cùng một sỹ quan và ba người lính xuống. Ca-nô vừa chạm nước, viên
sỹ quan rút súng, đạn găm ngay sau lưng ông Vượng. Rồi chiếc ca-nô chạy nhanh tới,
trong tích tắc, ông Vượng được kéo lên. Viên sỹ quan hỏi: “Ông là ai?”. Ông Vượng:
“Tôi là người tị nạn Việt Nam! Còn các ông?”. Viên sỹ quan: “Chúng tôi từ Đông
Đức”. Ông Vượng: “Sao ông bắn tôi?”. Viên sỹ quan: “Ông không thấy hai con cá mập
nó đang dí sau lưng à?”.
Trước khi gặp thuyền trưởng, ông Vượng được đưa vô nhà hàng
trên tàu, ông được đặt ngồi trước một đĩa thịt bò và một lon Coca. Đó là bữa ăn
ngon nhất trong cuộc đời của ông Vượng. Những người trên tàu đã rất lịch sự
nhưng không chịu đưa những thuyền nhân đến Hong Kong. Thoạt đầu, họ đã bỏ đi,
nhưng sau khi biết cơn bão tới gần có thể nhận chìm con tàu hỏng máy chở các
thuyền nhân Việt Nam, tàu Hegenburger đã quay trở lại và sau khi thương lượng,
những người vượt biên chấp nhận quay trở vào bờ tránh bão.
Gần sáng thì họ nhìn thấy bờ biển Vũng Tàu. Thủy thủ tàu
Hegenburger báo cho chính quyền rồi quay đầu. Khoảng 5 giờ sáng, tàu công an xuất
hiện. Thuyền trưởng chiếc ghe vượt biên, nguyên là một trung úy hải quân vừa đi
học tập về, nhảy xuống biển. Ông Vượng biết, nếu bị bắt lại, những người như
ông và viên trung úy sẽ phải mục xương trong tù. Ông Vượng cũng nhảy xuống biển.
Mới bơi được mấy sải thì một thằng nhỏ trên ghe ném cho ông miếng xốp khá lớn.
Chính miếng xốp đó đã cứu mạng ông. Viên trung úy hải quân lần ấy đã không thể
bơi vào bờ.
Vài giờ sau, ông Vượng được mấy người Nga kéo lên một chiếc
cano nhưng thái độ của họ khiến ông Vượng e rằng sẽ bị giao cho công an nên khi
thấy một chiếc ghe câu nhỏ đi qua, ông Vượng gọi: “Ơi! Cứu anh!”. Hai thiếu
niên trên ghe câu hỏi: “Vượt biên à? Nhảy đi!”. Ông Vượng nhảy xuống. Ông Vượng
được hai cậu bé đưa về nhà trong một làng chài. Nghỉ ngơi, ăn uống xong, hai cậu
bé đưa ông về Sài Gòn với giá một lượng vàng. Lúc đó, đi honda không hẳn là an
toàn, nhưng đi xe đò thì chắc chắn không thoát vì công an sẽ xét, nếu không có
giấy đi đường là bắt liền. Chập tối, họ lên đường, và tới 11 giờ đêm thì về tới
nhà mẹ ông Vượng ở Gò Vấp. Bà mẹ già bật khóc: “Sao lần nào đi cũng không tới
nơi vậy con?”.
Toàn bộ số người còn lại trên chiếc ghe cà dom bị đưa về
Vũng Tàu, mọi người khai hết “tội” cho Phan Ngọc Vượng. Họ bị giam giữ tại trại
Cỏ May hai tháng rồi được phóng thích. Câu chuyện Phan Ngọc Vượng một mình tổ
chức vượt biên, tuy không trót lọt, nhưng với trình độ ngoại ngữ và khả năng ứng
phó trong những tình huống hiểm nghèo khá tốt đã được dân vượt biên đồn thổi.
Ông Vượng sau đó đã được những người giàu có chi tiền đề nghị ông chủ trì một
cuộc vượt biên cho gia đình họ. Chuyến đi ấy tổng cộng bốn mươi chín người
trong đó có năm người em của ông Vượng. Khác với năm lần trước, chuyến vượt
biên thứ sáu của ông may mắn bất ngờ.
Chập tối ngày thứ tư, một tàu đánh cá Thái Lan cặp vào mạn của
chiếc ghe vượt biên. Ông Vượng kể: “Tôi kêu tất cả phụ nữ chui xuống hầm, đề
phòng. Phía tàu đánh cá cho một đại diện lên gặp thuyền trưởng nói chuyện. Vào,
thấy trong phòng ông thuyền trưởng trang trí đầy tượng Phật, tôi đã thấy mình
may mắn. Ông thuyền trưởng hỏi: ‘Các anh cần gì?’. Tôi nói: ‘Cần một ít nước uống
và xin chỉ đường giùm’. Ông cho nước uống và chè đỗ xanh, rồi hỏi: ‘Còn dầu
không?’. Tôi nói: ‘Thưa còn’. Ông chỉ tay và nói: ‘Cứ đi theo hướng này thì chiều
mai mày sẽ tới Malaysia’. Khoảng bốn giờ chiều hôm sau, chúng tôi nhìn thấy một
rặng dừa”.
Thay vì được chào đón, khi chiếc ghe vượt biên tới gần bờ,
điều mà họ nhìn thấy là những họng súng đen ngòm trên tay mười hai cảnh sát mặc
đồ rằn ri đang chĩa thẳng vào những người tị nạn. Ông Vượng, khi ấy chỉ mặc một
chiếc quần jeans, quyết định nhảy xuống biển, vừa giơ hai tay, vừa đi vào. Cảnh
sát quát: “Stop!”. Ông Vượng nói: “Refugees”. Cảnh sát: “Bao nhiêu người?”.
“49”. “Có vàng, đô-la không?”. “Có”. “Ok, ra mang vàng vào đây tao cho vô”. Ông
Vượng đi ra, chủ tàu lấy năm lượng cùng một ít nữ trang đưa ông Vượng mang vào
bờ. Sau khi nhận vàng, cảnh sát nói: “Đục tàu đi rồi cho vô”.
Vào bãi, bốn mươi chín người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất.
Các viên cảnh sát thỉnh thoảng qua gặp nói đưa tiền, muốn mua gì họ mua cho. Bốn
ngày sau, có thêm một tàu của người Hoa “vượt biên bán chính thức” đến. Họ có
140 người đa số là người Việt. Thêm một tuần lễ sau đó, 189 người phải tự xoay
xở trên bãi, đào giếng kiếm nước, lượm củi nấu ăn. Ngày thứ mười một, một người
bận quân phục sỹ quan, đầu đội nón bê rê xanh đến, gặp ông Vượng, người duy nhất
biết tiếng Anh, nói: “Tôi là người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc”. Không phải
ai vượt biên cũng có cơ hội gặp được người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc.
Ngày 27-5-1989, chỉ cần biên phòng khám xét lâu thêm vài tiếng
nữa là Phạm Thanh Tùng cùng chín mươi sáu người khác có thể bị đông cứng trong
khoang chứa cá. Sau một hành trình dài từ Sài Gòn về Châu Đốc giống như những
người đi vía Bà, nhóm vượt biên của Tùng lần lượt được xếp nằm trên những chiếc
xuồng chở dừa. Chủ thuyền lấy lá dừa tươi tấp lên những người vượt biên rồi chở
về hướng Bắc Mỹ Thuận. Bốn giờ sáng thì tàu cặp ghe lớn lúc đó đang neo đậu giữa
dòng. Tổng cộng chín mươi bảy người, gồm cả vợ con người chủ tàu, được xếp vô
khoang cá. Hàng chục cây đá được xếp chồng lên nhiều lớp để che. Ra tới cửa biển
thì đụng tàu biên phòng, cuộc khám xét kéo dài cho đến khi da một đứa trẻ trên
tàu đã bắt đầu tím tái. Chủ tàu cho chạy thêm khoảng một giờ, cầm chắc đã ra khỏi
tầm truy đuổi, mới huy động những thanh niên còn khỏe liệng hết đá cây xuống biển.
Khi đó nhiều người đã lịm đi vì rét cóng. Đó là chuyến vượt biên lần thứ mười một
của Phạm Thanh Tùng. Ngày 1-6-1989, con tàu của Tùng vào tới đảo Talampulan
(Philippines).
Chỉ đi sau chuyến tàu của Tùng một ngày, ngày 2-6-1989, có một
chiếc tàu vượt biên khác cũng vào gần tới đảo Talampulan. Thay vì đậu ngoài xa
chờ dẫn đường, khi thấy một cơn bão đến gần, con tàu tiến nhanh vào đảo. Tàu của
họ bị kẹt vào bãi san hô và ngay sau đó, con tàu bị sóng lớn đánh vỡ ra từng mảnh.
Khi bão tan, chỉ có năm người sống sót bơi được vào bờ. Họ nói, con tàu khởi
hành với 117 người.
Ngày 7-8-1987, để tránh bị biên phòng phát hiện, ông Trần
Quang Phước, một cựu trung úy hải quân Việt Nam Cộng hòa, quyết định ra đi khi
Nha Khí tượng dự báo có bão cấp 7. Con tàu chở hai mươi bảy người trong đó có bốn
người trong gia đình ông Phước. Con trai ông, anh Trần Minh Triết kể: “Con tàu
đi tới khuya thì bắt đầu bão. Cả tàu say sóng nằm la liệt chỉ còn lại hai cha
con. Ba tôi cầm lái. Đi tới trưa hôm sau thì ra tới ngoài khơi xa. Ba tôi giao
tay lái cho tôi. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy những con sóng tiếp nối những con
sóng, cứ ập tới con thuyền nhỏ bé như những ngọn núi. Tôi chỉ còn biết nghe lời
cha tôi mà tiếp tục đi, chỉ biết trao thân cho đại dương, lúc nào cũng có cảm
giác mình sắp bị những con sóng nhấn sâu xuống lòng biển”. Như có phép màu, chỉ
bốn ngày sau, con tàu nhỏ đi tới Malaysia. Trần Minh Triết nói: “Sau mười lăm lần
vượt biên không thành kể từ năm 1982, cha con chúng tôi được đưa vào trại
Sungeipesi”.
Tại trại Sungeipesi, cuối năm 1987, Trần Minh Triết ở chung
nhà với một phụ nữ trẻ. Triết kể: “Chiều chiều, xuống cầu thang, tôi thấy chị ấy
cứ nép người vào một góc tối, khóc lên rưng rức. Chúng tôi phải để cho chị ấy
khóc bởi chỉ cần đụng vào là chị ấy hoảng lên, co rúm lại. Không ai dám hỏi
han. Trên biển, chị ấy đã bị hải tặc hiếp dâm nhiều lần”. Khi chuyển vào trại
Paulo Bidong, Triết gặp một cô gái khác trạc tuổi mình. Cô cùng một người khác
được vớt lên và được coi là hai người sống sót trên một con tàu vượt biên bị hải
tặc trên vùng biển Thái Lan. Cô gái bị hãm hiếp nhiều lần trong khi chứng kiến
anh trai mình bị chặt làm ba khúc. Trần Minh Triết kể: “Chiều nào cô cũng rủ
tôi ra biển. Nhưng chỉ khi ánh mắt chúng tôi chạm tới biển là cô lại lăn đùng
ra đất, mắt trợn ngược lên, miệng cứng lại”. Dung, tên cô gái, chỉ ở Paulo
Bidong bốn mươi lăm ngày, thay vì ở gần hàng năm như những thuyền nhân khác. Cô
được một tổ chức thiện nguyện bảo lãnh đưa đi chữa bệnh.
Ông Nguyễn Văn Mai kể: “Trong thập niên 1980, tôi bay đến
các trại tị nạn nhiều lần và chứng kiến hàng ngàn câu chuyện đau lòng. Ở một trại
tị nạn ở Thái Lan, tôi gặp một phụ nữ bị hải tặc cưỡng hiếp nhiều lần, khi được
Hội Chữ thập đỏ giúp chữa trị, những vết thương của chị đã mưng mủ. Mùi hôi thối
lựng một góc lán. Các bác sỹ còn phát hiện ra là chị bị dính thai. Thai đôi và
không bình thường. Theo các bác sỹ thì giữa các ngón tay của hai đứa trẻ có các
màng dính, họ khuyên nên bỏ. Người chồng là một nông dân chất phác, đã có bốn đứa
con, nói: đứa nhỏ này không có tội, ông trời định cho nó cái nghiệp ở trong vợ
tôi thì không có lí do gì để tôi phá”. Ông Mai kể tiếp: “Không ai có thể ngờ
người chồng đã quyết định như thế. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc đã cầm mã
tấu bắt anh và các con đứng xem”. Không ai biết chắc có bao nhiêu nạn nhân của
hải tặc Thái Lan trong những ngày tháng đó. Cho đến ngày 16-4-1989, tại vùng biển
Malaysia, một thuyền chở 130 người tị nạn vẫn bị hải tặc tấn công. Theo Cao ủy
Tị nạn Liên Hiệp Quốc, sau khi hãm hiếp phụ nữ, hải tặc đã phóng lửa đốt tàu,
chỉ có một người sống sót trên chuyến vượt biên xấu số đó .
Tại Hội nghị Quốc tế lần II về người Tị nạn Đông Dương, tổ
chức trong hai ngày 13 và 14-6-1989, UNHCR cho biết: Chỉ trong vòng từ cuối năm
1988 cho đến tháng 6-1989 đã có hai mươi tám tàu cùng 590 thuyền nhân được ghi
nhận là mất tích . Theo số liệu của UNHCR, con số thuyền nhân Việt Nam đã từng
cập bến các quốc gia lên đến gần một triệu người: Australia 1.750 người; Macau
7.128 người; Singapore 32.000 người; Philipines 51.722 người; Thái Lan 117.321
người; Indonesia 121.708 người; Hong Kong 195.833 người; Malaysia 254.495 người;
một số không nhiều lắm cũng dừng chân ở Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn … Nhưng, biển
mênh mông, những gì thống kê được chưa phải là toàn bộ sự thật.
Nhiều thuyền nhân còn nhớ, tại trại Palawan, Philippines, có
chiếc thuyền gỗ được đặt trước cửa văn phòng Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc. Khi
chiếc ghe này bị tấp vào bờ, bên cạnh những xác chết trương phình, người ta thấy
chỉ còn một phụ nữ mang thai sắp đến ngày sinh. Không ai hiểu bởi phép mầu nào,
bà mẹ này cho đến lúc ấy vẫn còn thoi thóp. Bà đã sống sót cho đến khi sanh hạ
đứa bé và kịp cho biết, con thuyền khi khởi hành có tất cả năm mươi người.
Không phải chuyến vượt biên nào cũng có người sống sót để nói đến số phận của
những nạn nhân còn lại. Vĩnh viễn không ai biết có bao nhiêu người Việt Nam vượt
biên trong giai đoạn từ 1975 đến đầu thập niên 1990 đã bỏ mình trên biển, bao
nhiêu con tàu đã bị biển nhận chìm, bao nhiêu con tàu đã bị hải tặc cướp và giết
hết, bao nhiêu phụ nữ và trẻ em đã bị chúng hãm hiếp.
Lịch sử thuyền nhân Việt Nam bắt đầu khép lại từ năm 1996, khi Liên Hiệp Quốc
quyết định đóng cửa các trại tị nạn trong khu vực và khi cuộc sống trong nước bắt
đầu dễ thở hơn, chấm dứt một bi kịch kéo dài suốt hai thập niên trên biển.
Huy Đức
trích trọn chương VI
BÊN THẮNG CUỘC,
Osinbooks, 2012