Người đàn ông trở về sau cuộc chiến không biết đến giận hờn
Nhưng đến tận bốn mươi năm sau
Vẫn ngác ngơ câu hỏi
Tại sao?
– Tên chị là gì?
– Thưa em tên Mơ.
– Mơ gì? Mộng mơ hay quả mơ?
– Tùy, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu…
– Quê quán ở đâu vậy?
– Em ở Thạch Thất, Hà Tây.
– Chị công tác ở cơ quan nào?
– Thưa, ở ty Văn Hóa Thông Tin Hà Sơn Bình.
“Nơi em về trời xanh không em…?” Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi
thơ mộng, lãng mạn như vậy … Vì vậy những lời yêu đương được mở đầu bằng “Ðồng
chí công tác ở cơ quan nào?” (Thế Giang. Thằng Người Có Đuôi.
Westminster, CA: Nguời Việt, 1987).
Ngoài những câu hỏi “thơ mộng” và “lãng mạn” như trên, bên kia vỹ
tuyến còn có nhiều câu hỏi (nghe) rất … linh tinh:
Anh không biết bây giờ tháng mấy, em không biết anh đi về đâu, và
hết nửa phần đất nước đều chia chung một nỗi băn khoăn (lớn) dù đang
trong hoàn cảnh chiến tranh: Kẻ
thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai?
Ở nửa phần còn lại thì không ai mơ hồ về thời gian cả. Mọi người
đều biết chính xác ngày/tháng/năm sinh của vị lãnh tụ kính yêu,
cũng như thời điểm phân phối khẩu phần lương thực (ngoài tiêu chuẩn)
nhân ngày sinh nhật của NGƯỜI. Cũng chả bao giờ nghe ai hỏi ai “đi về
đâu” vì ai cũng biết là mọi con đường đều dẫn ra mặt trận, và đường
ra trận thì mùa nào cũng đẹp: những binh đoàn kéo nhau ra tiền
tuyến, như tình yêu nối lời vô tận … Chỉ có mỗi một câu hỏi
“cảm động” duy nhất được cho phép nghêu ngao trên môi mọi người thôi,
dù nghe cũng không tình tứ gì cho lắm: hết rau rồi em có lấy măng
không?
Không chỉ bị ám ảnh bởi cái đói mà cả nửa nước (bên kia) còn bị
nhồi nặn, và kích động bởi căm thù:
“Phải ngày đêm hành quân để kịp tới chiến trường trước khi hòa bình, trước
khi chiến thắng. Vào chậm, chỉ còn mỗi việc thu nhặt ống bơ gỉ, tháo gỡ dây
thép gai thôi. Chẳng còn địch đâu mà đánh. Xe trước hát vang: Giải phóng
miền Nam chúng ta thề quyết tiến bước. Xe thứ hai tiếp theo hào hùng: Diệt
đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước. Xe thứ ba tiếp lời: Ôi xương tan
máu rơi, lòng hận thù ngút trời.” (Bùi Ngọc Tấn. Biển và Chim
Bói Cá. Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn: 2010).
Ở bên này thì không thế. Ngoài những băn khoăn siêu hình về hố thẳm tư tưởng và nỗi dằn vặt triết lý
nhân sinh giết người đi thì ta ở với ai (?) có kẻ còn chắp
tay nguyện cầu cho chim bồ câu trắng hiện với không ít thơ
ngây:
Mẹ già cười xanh như lá mới trong khu vườn
Ruộng đồng Việt Nam lên những búp non đầu tiên
Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai bên rừng …
Thực tại, tiếc thay, hoàn toàn không như dự tưởng:
– “Tôi từng đi trên những chuyến tàu hỏa hành trình bắc nam mất 72 tiếng
đồng hồ, trên đó chất đầy xe đạp, khung xe đạp, vải vóc, đường sữa, gạo, giấy…
chuyển từ nam ra bắc. Những chuyến hàng thực chứ hoàn toàn không giả tạo chút
nào đổ về nơi từng được coi là hạnh phúc, no ấm. Nhiều người vỡ lẽ, lắc đầu
ngao ngán.” (Nguyễn Thông. “Thành Ngữ Mới: Phồn Vinh Giả Tạo”).
– “Ở mỗi ga, khoang tàu biến thành cái chợ hay hàng ăn, tùy vào thời điểm.
Ngoài sự nghèo đói, lộn xộn, mất vệ sinh và nói chung là kém văn hóa là đặc
trưng của những gì xảy ra trên chuyến tàu đó hay cho cả đất nước ta thời đó,
điều tôi nhớ nhất và thất vọng vô cùng là: từ Nam ra Bắc tôi hầu như không thấy
một nụ cười trên gương mặt một ai cả.” (Trần Thành Nam. “Hãy Trả Lại Rổ Tép Khô Cho Tôi”).
Dự đoán của Trịnh Công Sơn, rõ ràng, hơi trật: Khi đất nước tôi
không còn giết nhau/ Mọi người ra phố mời rao nụ cười. Ước mơ của người
nhạc sỹ tài hoa, xem ra, cũng khác với hiện thực hơi xa: Mẹ già
cười xanh như lá mới trong khu vườn. Cười gì nổi khi con vừa hoàn
thành xong nghĩa vụ quốc tế (Giải Phóng Miền Nam) thì đến ngay lượt
cháu Giải Phóng Cambodia. Thế là Em Ở Nông Trường Anh Ra Biên Giới:
Từng vai áo phai sẽ xanh thêm đời
Bàn tay làm nên những mùa vui
Từ trên đất này, những con người mới
mọc lên
Mạng người chớ có phải là giá, nấm, hay rau cỏ đâu mà cứ mọc
lên hoài vậy được, hả Trời? Hết cuộc chiến ở biên giới phía Tây
rồi đến chiến cuộc ở biên giới phía Bắc, cuộc nào cũng phải trả
giá bằng hàng mấy vạn sinh linh mà không nghe ai lên tiếng phản đối
(hay phản chiến) gì ráo trọi. Cũng chả thấy ai (dám) chắp
tay nguyện cầu cho chim bồ câu trắng hiện.
Rồi sau khi bốn phương im tiếng súng, Đảng “dũng cảm và quyết tâm
đổi mới” để chuyển đổi sang Kinh Tế Thị Trường (theo định hướng XHCN)
thì đất nước lại phát sinh ra thế lực thù địch mới – giặc nội sâm:
Khi đã phải thay phong bì bằng bao tải mới đủ chỗ chứa (hằng
triệu Mỹ Kim) tiền lại quả, và khi mà số lượng ma túy bị tịch thu
được tính theo đơn vị tấn (chứ không phải ký hay tạ nữa) thì mặt
trận nội xâm đã kể như … toang!
Ngoại xâm cũng vậy. Ngày 19 tháng 4 năm 2020, BBC
loan tin: Trung Cộng lập hai hai huyện đảo quản lý Trường Sa, Hoàng Sa. Qua
hôm sau, Thông Tấn Xã Việt Nam cho biết: “Việt Nam phản đối mạnh
mẽ việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa … Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn
trọng chủ quyền…” Trong Lịch sử nhân loại chưa có một cuộc xâm lăng nào
bị ngăn chận bởi những lời “phản đối” hay “yêu cầu” (yếu xìu) như
thế cả. Thù trong giặc ngoài, nợ công cao lút đầu, đạo đức xuống
thấp đến gót chân, không khí ô nhiễm, sông hồ cạn kiệt, rừng núi điêu
tàn, đất nước tan hoang… là “thành quả” của cuộc cách mạng vô sản
hiện nay ở Việt Nam.
Ông Nguyễn Hộ, một đảnh viên lão thành của ĐCSVN, coi đây là “điều
sỉ nhục.” Ông TBT kiêm CTN Nguyễn Phú Trọng thì không, ổng không thấy
nhục nhã gì ráo trọi và vẫn nhơn nhơn ban hành Nghị Quyết Về Cuộc Cách Mạng 4.0 với những mục
tiêu trời/biển như sau:
– Năm 2025, internet băng thông rộng phủ 100% các xã, duy trì xếp hạng về
chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN.
– Năm 2030, mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc; mọi người dân được truy cập internet
băng thông rộng với chi phí thấp. Kinh tế số chiếm trên 30% GDP; năng suất lao
động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm.
– Năm 2045, Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ
thông minh, trung tâm khởi
nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực châu Á.
Tuy nghe hơi hoang đường nhưng cũng không khác lắm với những lời hứa
hẹn của những nhân vật tiền nhiệm:
– Lê Duẩn: “Chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật trong 15, 20 năm và
nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng!”
Toàn là thần chú và phép lạ cả. Điều mầu nhiệm là tuy chỉ được
ăn bánh vẽ nhưng cả nước vẫn không ai kêu đói, và có người cò tấm
tắc khen ngon. Mầu nhiệm hơn nữa là một dân tộc dễ chịu (và dễ dậy)
tới cỡ đó mà vẫn sống sót được mãi cho đến đầu thế kỷ này.
Tưởng Năng Tiến