“Nè, con có thấy ông đứng ở gốc cây kia hôn? Mẹ con mình cũng khó nhưng
ông còn đang khó hơn mình nữa con à. Ông không có con cháu
nuôi dưỡng ở nhà nên già yếu như ngoại con rồi mà còn phải ra đường… Con thấy
ông tội nghiệp hôn? Vậy thì con tới giúp ông đi há?”.
Chị đưa con một tờ 5000 đồng, chỉ về phía một cụ già ăn xin đang đứng, gần
như ẩn núp ở một gốc cây to trên vỉa hè. Đứa bé ngoan ngoan “dạ”, đĩnh đạc bước
đến trước mặt cụ già, nói lí nhí gì đó rồi hai tay kính cẩn đưa ra tờ bạc…
Tôi chợt cảm thấy xốn xang. Chị phụ nữ, với chiếc “cánh én” rách yên, bộ
đồng phục công nhân chị đang mặc cũng không lành lặn gì, vậy mà không hiểu sao
chị đã tránh dùng từ “nghèo”, chỉ dùng từ “khó” khi dạy con mình? Hay “nghèo”
nghe có vẻ quá ức chế, như rất nhiều người nhất định cho là mình nghèo là do số
mạng trói buộc, còn “khó’ thì có thể chỉ là tạm thời, còn có hy vọng vượt qua,
như người ta vẫn thường vẫn an ủi nhau với cách nói “khó khăn trước mắt…”?
Nhưng dù đang thuộc phía người nghèo, chị phụ nữ khả kính vẫn dạy cho con
mình – dạy cả cho tôi nữa, đã thầm lén chứng kiến nãy giờ – một bài học về lòng
nhân ái, thói quen làm việc thiện, một cách tuyệt vời!
Rõ ràng điều đáng quí không phải ở số tiền cho mà ở cách cho, như em bé đã
học được từ mẹ mình. Thật tình tôi không chắc là tôi, xuất thân nhà giáo – có
thể cả cái bà phấn son lòe loẹt vừa dừng chiếc xe hơi bảng số xanh mới tinh hảo
để rước cậu con béo phị – biết cách dạy con mình về lòng thương người bằng một
phương pháp giản dị nhưng đầy tính thuyết phục như vậy.
Nhìn theo hai mẹ con người-tốt đi xa, tôi lại có một thắc mắc khác từ hình
ảnh cụ già ăn xin.Trên vỉa hè vắng người đang có một thanh niên bày bán các loại
báo chí trên mặt đất. Tôi mua đại một tờ rồi hỏi: “Chắc cháu đã bán ở đây lâu
rồi hả? Có thấy dân ăn xin được vô trong nhà thiếu nhi không?”. Cậu ta vừa dáo
dác nhìn về phía cuối đường – chắc sợ công an đến hốt – vừa
đáp: “Dạ đâu có được, bảo vệ đuổi hết. Chỉ có người tàn tật bán vé số thì may
ra, nhưng bữa nào đông các em quá thì cũng khó được cho vô…”. Tôi mới nhớ ra
rằng trong cả tiếng đồng hồ ngồi cà phê, chuyện vãn với anh bạn vừa rồi trong
căn-tin, đã không thấy bóng dáng người ăn xin nào. Hèn chi, lúc nãy cụ già cứ
đứng hoài ở gốc cây bên ngoài nhà thiếu nhi, tưởng là cụ trốn nắng.
Dân thiểu số kéo về thành phố Sài Gòn xin ăn là một hình ảnh đã quá quen
thuộc trước mắt mọi người, nhưng lòng tôi cứ bâng khuâng. Vừa rồi, tại nhà
thiếu nhi, các em bé đứa nào đứa nấy trông cũng sạch sẽ, khoẻ mạnh, thậm chí
béo phì – đúng là mẫu khách quí được chào đón, chăm sóc, dạy dỗ ở một tòa biệt
thự đồ sộ, khang trang, thoáng mát. Hơn thế, hẳn để bảo vệ khung cảnh sang
trọng của mình, nơi đây cấm cửa dân ăn xin.
Tôi tự hỏi: “Có thể suy đoán là do sợ mất trật tự, mất vệ sinh, mất cắp đồ
đạc… nên Nhà thiếu nhi cấm dân ăn xin. Nhưng nếu người ăn xin là thiếu nhi thì
sao? Nhà thiếu nhi là dành cho thiếu nhi cơ mà, và trong nội qui Nhà thiếu nhi
đâu có điều khoản đặc biệt nào qui định việc cấm cửa thiếu-nhi-ăn-xin?”.
Rồi tôi mơ hồ cầu xin ai đó, rằng: “Thưa ban giám đốc Nhà thiếu
nhi, nếu quý vị trả lời là chưa nghiên cứu về thiếu-nhi-ăn-xin thì
xin quý vị cũng nên linh động, uyển chuyển mà cho phép…”. Một giọng
lạnh giá bác ngay thỉnh cầu của tôi: “Không thể! Chức năng chúng tôi
là đón nhận, phục vụ thiếu niên – nhi đồng vào sinh hoạt, nghĩa là vui chơi,
tập luyện, nâng cao năng khiếu. Còn về phần các em ăn xin, nếu có vào đây cũng
đâu có sinh hoạt gì mà chỉ có… xin ăn, nên không thuộc chức năng của Nhà thiếu
nhi mà thuộc ngành thương binh – xã hội. Chỉ có một trường hợp duy nhất có thể
được xem xét là, nếu các em ăn xin vào đây không phải để xin ăn mà là để sinh
hoạt, tức phải giống các thiếu nhi khác khi đến đây…”.
Cắt! Tôi lập tức tự bật qua OFF.
Nãy giờ, mọi hỏi-đáp, thỉnh cầu gì đó chỉ là do tôi hoang tưởng nhưng tôi đã
muốn điên lên thật sự vì cách lý giải dài dòng rất “công chức” của ai đó, cứ
“sinh hoạt” rồi lại “xin ăn” rối tung cả lên. Nhưng tôi “cắt” không phải vì đã
tỉnh cơn điên, mà vì… Trời hỡi! Có người bình thường nào mà tưởng tượng ra nổi
chuyện một ngày nào đó, các em bé ăn xin dơ dáy, hôi hám kia quăng mấy cái gáo
nhựa xin ăn để hiên ngang bước vào Nhà thiếu nhi, rồi đường bệ lựa chọn môn
sinh hoạt – học tập, điền vào phiếu đăng ký, đóng tiền học, như học đàn piano,
học hội họa, học múa ba-lê…? Con cái nhà lao động nghèo và cả một số gia đình
trung lưu còn không dám mơ đến những môn “quý tộc” cao sang này nữa là!
Nhận trọng trách quản lý Nhà thiếu nhi, ban giám đốc khả kính của chúng ta –
nhất định cũng là người bình thường, thì nhất định họ có yêu mến trẻ em, ít ra
là theo chừng mực của bất cứ con-người-có-trái-tim nào khác trên đời này. Vậy
làm sao quí ban giám đốc lại có thể giả định một trường hợp là “các em ăn xin
vào đây không phải để xin ăn mà là để sinh hoạt”, hoàn toàn có thể khiến các em
ăn xin nghe mà vô cùng tủi nhục?
Ngay điều giả định đầu tiên trong thỉnh cầu mê muội của tôi, là “Ban
giám đốc linh động cho phép trẻ em ăn xin vào… xin ăn trong Nhà thiếu nhi!” thì
đã là hoang tưởng rồi vì chuyện này may ra chỉ có thể có trong loại truyện cổ
tích thời hiện đại dành viết về những ông tiên, bà tiên tự nhiên mà xuất hiện
trong giới quan chức quản lý.
Hoang tưởng vừa xúi tôi trình ra một thỉnh cầu vớt vát: “Vậy thì
vào ngày Quốc tế Thiếu Nhi hằng năm, như sắp tới ngày 1 tháng 6 rồi kìa, thì
sao? Vâng, thưa ban giám đốc, đúng rồi, đó là ngày lễ lớn, tầm cỡ quốc tế,
thuộc nguyên con vào chức năng của quí vị chứ không phải của ai khác.
Ngày mà toàn thể nhân loại, đứng đầu là Liên Hợp Quốc, đồng loạt dành tất cả
những gì tốt đẹp nhất trên đời này cho thiếu nhi, nhất là trẻ em thuộc các nước
nghèo, đang phát triển như Việt Nam ta. Vậy ban giám đốc có hạ cố, uyển chuyển
cho phép các em xin ăn vào Nhà thiếu nhi sinh hoạt, chung vui cùng với mọi
thiếu niên – nhi đồng khác hay không? Xin một lần duy nhất này thôi cũng được.
Hay quí vị cứ cho phép các em vô để “sinh hoạt” thôi, “xin ăn” thì vẫn cấm tiệt
cũng được…”.
Cắt! Lại phải cắt.
Hoang tưởng ơi, nếu không thể làm khó dễ người khác chút nào đó thì cũng
không nên làm khổ chính mình. Có điều này là dễ dàng nhất đây. Hãy tưởng tượng
về đoạn đường từ cái ngã tư có các em bé ăn xin đến cổng Nhà thiếu nhi thì
riêng đối với các em bé đang sống bên lề xã hội ấy, đoạn đường này không phải
chỉ dài có vài trăm mét, mà phải dài tới bằng đường… lên trời!
Đúng ra, không cần ai phải dạy đời cho ai, cũng như không cần phải chờ đến
ngày 1 tháng 6 hằng năm, chúng ta mới suy gẫm về cách dạy con trẻ về lòng nhân
ái. Bao lâu trong cuộc sống vẫn còn những người lớn, những đứa trẻ vô cảm trước
tình cảnh nghèo khó, khổ sở của người khác thì đó vẫn là một món nợ lớn lao,
thuộc trách nhiệm của toàn xã hội và mỗi gia đình. Riêng về chuyện những em bé
ăn xin thì vấn đề người lang thang, bụi đời, xin ăn.v.v…, ở mọi lứa tuổi và sắc
tộc, trước hết là trách nhiệm, phần hành của ngành thương binh – xã hội. Tiếc
là hiệu quả công tác của ngành này còn quá hạn chế nên trên đường phố còn quá
nhiều dân ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ.
Nhưng “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng…” (Tôi tự
biết mình còn có một cái tật khó ưa, hay bị bạn bè cười mà tha thứ cho, đó là
thỉnh thoảng tôi cứ lấy nhạc Trịnh Công Sơn mà minh họa cho nỗi niềm của mình).
Xung quanh ta vẫn còn nhiều điều tuyệt diệu để có thể sống và hy vọng vào cuộc
đời.
Vào những dịp lễ Quốc tế Thiếu nhi, Tết Trung thu, Giáng sinh, Tết nguyên
đán.v.v…, từ lâu đã có những nhà hảo tâm, những nhà hoạt động xã hội, những nhà
tu hành, những chị tiểu thương ở các chợ, những thanh niên nam nữ tình nguyện
trong nước hoặc đến từ những đất nước xa xôi, có cả những nhân viên – người
Việt cùng người nước ngoài – của những công ty nước ngoài, liên doanh, tư
nhân…, cả khách du lịch ba-lô nữa, họ chia nhau tìm đến những vĩa hè, những gầm
cầu, những công viên trong thành phố. Tại những nơi tạm-trú-khỏi-đăng-ký này
của dân lang thang, bụi đời, cơ nhỡ, những con người tốt bụng ấy đã tặng quà –
chủ yếu là thức ăn và quần áo, giày dép – cho các trẻ em kém may mắn, không
phân biệt dân thành phố, dân các tỉnh, người kinh, người Thượng gì cả. Giữa đêm
tối – phải là đêm hôm khuya khoắc mới gặp đông đủ các em đi kiếm ăn trở về
“nhà” – họ còn chơi trò chơi, kể chuyện, hò hát, hớt tóc, cắt móng tay, sứt
ghẻ… cho các em. Và không chờ đến các dịp hè hay lễ tết, đã có những lớp học
tình thương do những người tình nguyện mở ra, đôi khi ngay trên các vỉa hè
thiếu ánh sáng, để dạy chữ, dạy nghề cho trẻ em bụi đời, cùng những hoạt động
ngày càng mở rộng của những Nhà Mở , Làng Thiếu nhi SOS… do các tổ chức thiện
nguyện nước ngoài thành lập và các cơ sở bảo trợ, nuôi dạy trẻ em nghèo, mồ
côi, khuyết tật, cơ nhỡ của các vị sư, các nữ tu, nhà giáo về hưu… Đơn giản là
họ chỉ biết ngày đêm hoạt động với mục tiêu “Tất cả vì thiếu nhi” mà không cần
ai đó ghi cho thành tích nhì nhằng này nọ, rằng là tổ chức công hay tư, cá nhân
hay tập thể, hoạt động thường xuyên hay nhất thời, do tiền túi riêng, tiền
quyên góp hay tiền tài trợ.v.v…
Tất cả những việc làm của những người-tốt nói trên đều có ý nghĩa cao đẹp,
ít nhiều đều góp phần cải thiện tình hình nghèo đói trong cộng đồng xã hội. Đó
là cách mà những con người tốt kia đã làm, đã đến với các trẻ em nghèo khổ,
lang thang.
Ngược lại, cái cách mà các em bé ăn xin có thể đến, có thể được bước vào một
nơi chốn có treo bảng là dành riêng phục vụ trẻ em, thiếu niên – nhi đồng, thì
vẫn chỉ là trò vẽ vời trong hoang tưởng vớ vẩn của riêng tôi…
Phạm Nga