25 June 2020

NGUYỄN ĐỨC SƠN, NHÀ THƠ NGÔNG ĐỒI PHƯƠNG BỐI - Trịnh Thanh Thủy

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn vừa vĩnh viễn ra đi. Trước đây chúng tôi dự định tổ chức một buổi ra mắt sách cho tập thơ mới của ông nhưng vì đại dịch đã phải hoãn lại. Nay ông đã ra đi, tôi xin chia sẻ cùng các bạn bài viết khi ấy về tập thơ như một nén hương lòng gởi đến nhà thơ tài hoa của đồi Phương Bối. (TTT)

Tôi được quen biết nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tức Sơn Núi hay Sao Trên Rừng qua bạn tôi, họa sĩ Đào Nguyên Dạ Thảo. Tuy nhiên tôi chưa từng gặp ông dù có thư từ qua lại, dù rất mến thơ của ông vì mỗi người một phương. Mới đây Dạ Thảo cho tôi biết hiện bệnh của ông đang trở nặng, tôi cảm thấy lo lắng nhiều đến sức khoẻ của ông. Tôi chỉ sợ không may thì ….

Nếu đồi Phương Bối vắng bước chân ông, trăng Phương bối tìm đâu ra cái bóng đồng hành để cùng say khướt đổ nghiêng bên những gốc tùng xanh ngắt. Cây ổi đồi cao tìm đâu ra tên đạo chích ăn trộm nửa quả ổi rụng đã bị dòi ăn nửa kia?

Trưa đứng một mình đợi ai lên
Đất trời đâu có dưới và trên
Đồi cao ổi sót rụng một trái
Dòi ăn một bên ta một bên.
(Rụng một trái)

HS Hồ Hữu Thủ, HS Dạ Thảo, NT Nguyễn Đức Sơn

Thủ bút của Nguyễn Đức Sơn

Rừng Phương Bối cũng không thể thiếu đi một ánh Sao, một gã Du Tử có hỗn danh là Sơn Núi, lúc cô đơn thì đi luồn vô núi, khi mệt nhoài, chân rục rã, thì đi luồn ra núi. Thế gian còn ai ngông nghênh hơn một người thơ, khuya nằm nghe đá hát, sáng dậy ngắm hoa nở để,

Đụ mẹ
Cây bông
Hắn không
Lao động
Ai trồng
Chật chỗ
Mày nhổ
Xem sao
Máu trào
Thiên cổ

Ngôn ngữ ấy, phong thái ấy của Nguyễn Đức Sơn đã gây tác động mạnh cho người đọc, cho riêng tôi vào những năm 2000. Nhận thấy thơ ca Việt Nam ngày đó có nhiều thay đổi và gây sốc mạnh, năm 2003 tôi đã viết một bài tiểu luận nói về thơ Việt Nam và các “Chấn động văn hoá trong thi ca đương đại”. Trong đó thơ Nguyễn Đức Sơn là một điển hình. Ông đã viết rất táo bạo và sử dụng những từ như “đái”,” đụ” một cách dữ dội để bày tỏ sự phẫn nộ, hay một giải toả tâm lý trước những bất công xã hội.

Mắc đái là mắc đái
Làm thơ cũng cùng hình thái
Không còn chi để phải nói lại
Trừ cái sự vụ hai trứng dái
Săn cón lên báo giờ quan ngại
Trong khi thơ rụng như cây chín trái
Khôn ngoan ta đưa tay hái
(Làm thơ – Hợp Lưu số 37,47)

Là một người viết nữ, tôi đặc biệt chú trọng rất kỹ cái cách mà ông dùng từ ngữ trong thơ ca để miêu tả người nữ của ông.

Nửa đêm soi bóng trăng tròn
Thấy đau trời đất rõ còn trong thai
Các em đều chẻ làm hai
Từ đâu một chỗ rách dài thiên thu
Hồn tôi, con thú cần cù
Nằm chơi trong cát bụi mù vuốt ve
Hỏi thăm, nước chảy xè xè
Chỉ nghe tịch mịch phủ đè rêu xanh

Ngôn ngữ thân xác và hành động dục tính được ông tận dụng vì nó có khả năng mở được cánh cửa nội tâm con người, nó bày được những trạng thái tâm và sinh lý. Ông ngầm ca tụng cái đẹp của dục tính, cái mỹ của thân thể người phụ nữ, cái thuật của tình dục.

Em là chiếc bánh nếp
Với cái nhân quá to
Anh vừa lết vừa bò
Liếm một đời không hết

Mắc võng…
Trên đồi cao
Anh xôn xao
Như gió
Anh lấp ló
Như trăng
Anh lằng nhằng
Như dái

hoặc

Anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước
Miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi
Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người
Em chưa đái mà hồn anh đã ướt
Hai đứa nhìn nhau bảo phải êm ru
Em sắp đái và hồn anh chết cứng
(Hợp Lưu số 47)

Ngôn ngữ thân xác còn có khả năng gây sốc. Nó gây sốc vì nó bị cấm kỵ. Càng bị cấm kỵ càng gợi tính tò mò của người đọc. Khả năng gây sốc chính là đề tài những cuộc tranh luận về những từ ngữ được gọi là “tục tằn” được gã làm thơ ngông liên tiếp tuôn ra làm người đọc khó chịu. Ngôn ngữ ông dùng vừa tân, vừa cổ, vừa lãng mạn, vừa dung tục. Khi trắng, khi đen, phơi bày lồ lộ, lúc mờ, lúc nhạt, thơ thẩn, lượn lờ, kỳ ảo. Có thể nói, có hai cực trong con người ông, khi chánh, khi tà, khi thô ráp, lúc dịu dàng, âu yếm. Trong hình ảnh một con thú cần cù ẩn mình trong những đêm cát bụi, con thú đực nằm chơi bên bờ cỏ đêm để thấy hồn mình ướt và xôn xao như trăng, như gió.

Có lần tôi viết thơ cho ông, nói về những cảm nhận của mình về lối ông làm thơ cho người nữ. Tôi nhận xét rằng ông phải yêu người nữ ấy lắm mới làm nên được những vần thơ như vậy. Ông xác nhận điều này và hay gọi tụi con gái chúng tôi và Dạ Thảo là gà, vịt, giun, dế, tôi thấy vui vui một cách thú vị trong cách gọi ấy. Ông cũng gọi con ông, vợ ông là con gái, gái con, con nhóc, con cóc, con nhái. Có lẽ ông cũng hiểu hơn ai hết cái tính ngang bướng, ngông nghênh, hành động theo ý riêng của mình không kể hậu quả, thiệt hơn, nên ông lấy bút hiệu là ngôi sao cô đơn mắc đoạ trên rừng. Bửu Ý đã gọi NĐS là hình ảnh của một con tê giác, đơn độc, quắc queo, từ cách ăn nói cho đến dáng đi, húc đầu về phía trước.

Gái con
Con gái
Con Cóc
Con nhái
Con cái
Con nhóc
Chưa bóc
Em ra
Hồn ta
Gần khóc

Hay

Gái con
Con gái
Dấu mãi
Trong hang
Cái màng
Thiên địa
Run lịa
Hồn anh
Mong Manh
Ngàn kiếp

Tiểu Khê và Phương Bối (con gái NDS)

Người con gái đương xuân như đóa lan rừng thơm ngát vừa hé nở đêm trăng mười sáu. Gã thi nhân ngủ quên trên bờ cỏ ướt, nằm mơ thấy mình là chú bướm đêm vơ vẩn bay đi tìm mật. Gã chợt thấy mảnh hồn mong manh của mình run bắn, đôi cánh bướm bỗng chập chờn hư ảo như ngã vào mông lung khi đối diện cái màng thiên địa tinh tuyền của nhụy hoa. Ôi đẹp làm sao ngôn ngữ xác thân mà NDS đã dùng để tả người con gái băng trinh còn dấu cái màng thiên địa trong hang!!!

Gái con
Con gái
Cái gái
Con con
Trắng nõn
Trắng nà
Ngọc ngà
Trời đất
Bất nhất
Vạn niên
Gậy thiền
Chưa thọc

Thuật dụng ngữ trong thơ ca càng giản đơn, càng cô đọng, chữ dùng càng phải chắt lọc. Trong bài thơ 12 câu ở trên, hai câu cuối thật sự gây sốc cho tôi khi đọc câu “Gậy thiền, chưa thọc”. Tôi nghe người ta nói “cái gậy của thằng ăn mày”, hay chọc lung tung, nhưng cái câu “Gậy thiền, chưa thọc” được dùng trong ý nghĩa nội dung bài này, quả làm tôi sửng sốt. Ý nghĩa “Cây gậy thiền” được giảng nghĩa trong nhà Phật là cây gậy của trí tuệ, của chánh niệm. Cây gậy của chặt đứt lục căn, lục trần, lục thức. Cây gậy đánh tan vọng tưởng, giúp tâm ta sáng suốt, và biết dùng trí tuệ để khắc phục vô minh để đem lại sự thanh tịnh, tinh khiết trong tâm của chúng ta. “Gậy thiền” được dùng như cái chân thứ ba của con người hay cái gậy của thằng ăn mày của NĐS trong bài thơ ở đây ắt hẳn không có cái nghĩa của thiền tông mà chỉ có thể được xem là ngôn từ “Phạm thánh”. Nhưng với ông phạm thánh là chuyện thường ngày và không biết trong lòng ông có vị nào là thánh không nữa.

Bên bờ suối
Anh tặng em
Hai củ khoai lang
Một trái chuối
Ăn rồi
Còn thấy tử sinh
Đắm đuối
(Trưa)

Giấc mơ và đời sống là hai thực thể khác biệt. Bên những vì sao sáng vẫn có những làn sương che mờ ánh sao. Tuy nhiên em ơi dù sống khó, con chim trong thơ ca gã du sỹ vẫn hát véo von buổi trưa nào bên bờ suối trao em món quà đơn sơ một trái chuối và hai củ khoai lang mà vẫn thấy hạnh phúc của tử sinh sao mà ngọt.

Sao lạnh quá
Không thấy bóng Hạnh
Đi qua
Đứng từ xa
Tôi đã thấy
Núi khóc
(Chiều ơi)

Cũng có lúc núi cũng phải lạnh, phải khóc hu hu khi không thấy bóng người. Gió đã quên lời hẹn hò, cây đã ngưng tiếng rì rào, trái tim và đôi mắt cùng nhau buông thả …

Cùng với thơ
Chẳng lẽ
Chỉ còn có
Một cách
Là đứng một chân
Trên núi
(Sống)

Ôi sống với thơ là một khốn khó vô biên. Làm thơ và để sống còn cùng thơ mà không chết vì đói có lẽ là một nan giải đời người. Nhà thơ yêu núi, yêu đá NĐS đã tự hỏi bao nhiêu lần trong tuyệt vọng, làm sao có thể sống với thơ và làm thơ mà không phải ăn, phải uống, phải lăn lộn mưu sinh cho vợ con và gia đình. Và ông đã tìm ra giải pháp “Đứng một chân trên núi!!!”.

Trịnh Thanh Thủy