Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn vừa vĩnh viễn ra đi. Trước đây chúng tôi dự định
tổ chức một buổi ra mắt sách cho tập thơ mới của ông nhưng vì đại dịch đã phải
hoãn lại. Nay ông đã ra đi, tôi xin chia sẻ cùng các bạn bài viết khi ấy về tập
thơ như một nén hương lòng gởi đến nhà thơ tài hoa của đồi Phương Bối.
(TTT)
Tôi được quen biết nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tức Sơn Núi hay Sao Trên Rừng qua
bạn tôi, họa sĩ Đào Nguyên Dạ Thảo. Tuy nhiên tôi chưa từng gặp ông dù có thư
từ qua lại, dù rất mến thơ của ông vì mỗi người một phương. Mới đây Dạ Thảo cho
tôi biết hiện bệnh của ông đang trở nặng, tôi cảm thấy lo lắng nhiều đến sức
khoẻ của ông. Tôi chỉ sợ không may thì ….
Nếu đồi Phương Bối vắng bước chân ông, trăng Phương bối tìm đâu ra cái bóng đồng hành để cùng say khướt đổ nghiêng bên những gốc tùng xanh ngắt. Cây ổi đồi cao tìm đâu ra tên đạo chích ăn trộm nửa quả ổi rụng đã bị dòi ăn nửa kia?
Rừng Phương Bối cũng không thể thiếu đi một ánh Sao, một gã Du Tử có hỗn
danh là Sơn Núi, lúc cô đơn thì đi luồn vô núi, khi mệt nhoài, chân rục rã, thì
đi luồn ra núi. Thế gian còn ai ngông nghênh hơn một người thơ, khuya nằm nghe
đá hát, sáng dậy ngắm hoa nở để,
Ngôn ngữ ấy, phong thái ấy của Nguyễn Đức Sơn đã gây tác động mạnh cho người
đọc, cho riêng tôi vào những năm 2000. Nhận thấy thơ ca Việt Nam ngày đó có
nhiều thay đổi và gây sốc mạnh, năm 2003 tôi đã viết một bài tiểu luận nói về
thơ Việt Nam và các “Chấn động văn hoá trong thi ca đương đại”. Trong đó thơ
Nguyễn Đức Sơn là một điển hình. Ông đã viết rất táo bạo và sử dụng những từ
như “đái”,” đụ” một cách dữ dội để bày tỏ sự phẫn nộ, hay một giải toả tâm lý
trước những bất công xã hội.
Là một người viết nữ, tôi đặc biệt chú trọng rất kỹ cái cách mà ông dùng từ
ngữ trong thơ ca để miêu tả người nữ của ông.
Ngôn ngữ thân xác và hành động dục tính được ông tận dụng vì nó có khả năng
mở được cánh cửa nội tâm con người, nó bày được những trạng thái tâm và sinh
lý. Ông ngầm ca tụng cái đẹp của dục tính, cái mỹ của thân thể người phụ nữ,
cái thuật của tình dục.
hoặc
Ngôn ngữ thân xác còn có khả năng gây sốc. Nó gây sốc vì nó bị cấm kỵ. Càng
bị cấm kỵ càng gợi tính tò mò của người đọc. Khả năng gây sốc chính là đề tài
những cuộc tranh luận về những từ ngữ được gọi là “tục tằn” được gã làm thơ
ngông liên tiếp tuôn ra làm người đọc khó chịu. Ngôn ngữ ông dùng vừa tân, vừa
cổ, vừa lãng mạn, vừa dung tục. Khi trắng, khi đen, phơi bày lồ lộ, lúc mờ, lúc
nhạt, thơ thẩn, lượn lờ, kỳ ảo. Có thể nói, có hai cực trong con người ông, khi
chánh, khi tà, khi thô ráp, lúc dịu dàng, âu yếm. Trong hình ảnh một con thú
cần cù ẩn mình trong những đêm cát bụi, con thú đực nằm chơi bên bờ cỏ đêm để
thấy hồn mình ướt và xôn xao như trăng, như gió.
Có lần tôi viết thơ cho ông, nói về những cảm nhận của mình về lối ông làm
thơ cho người nữ. Tôi nhận xét rằng ông phải yêu người nữ ấy lắm mới làm nên
được những vần thơ như vậy. Ông xác nhận điều này và hay gọi tụi con gái chúng
tôi và Dạ Thảo là gà, vịt, giun, dế, tôi thấy vui vui một cách thú vị trong
cách gọi ấy. Ông cũng gọi con ông, vợ ông là con gái, gái con, con nhóc, con
cóc, con nhái. Có lẽ ông cũng hiểu hơn ai hết cái tính ngang bướng, ngông
nghênh, hành động theo ý riêng của mình không kể hậu quả, thiệt hơn, nên ông
lấy bút hiệu là ngôi sao cô đơn mắc đoạ trên rừng. Bửu Ý đã gọi NĐS là hình ảnh
của một con tê giác, đơn độc, quắc queo, từ cách ăn nói cho đến dáng đi, húc đầu
về phía trước.
Hay
Người con gái đương xuân như đóa lan rừng thơm ngát vừa hé nở đêm trăng mười
sáu. Gã thi nhân ngủ quên trên bờ cỏ ướt, nằm mơ thấy mình là chú bướm đêm vơ
vẩn bay đi tìm mật. Gã chợt thấy mảnh hồn mong manh của mình run bắn, đôi cánh
bướm bỗng chập chờn hư ảo như ngã vào mông lung khi đối diện cái màng thiên địa
tinh tuyền của nhụy hoa. Ôi đẹp làm sao ngôn ngữ xác thân mà NDS đã dùng để tả
người con gái băng trinh còn dấu cái màng thiên địa trong hang!!!
Thuật dụng ngữ trong thơ ca càng giản đơn, càng cô đọng, chữ dùng càng phải
chắt lọc. Trong bài thơ 12 câu ở trên, hai câu cuối thật sự gây sốc cho tôi khi
đọc câu “Gậy thiền, chưa thọc”. Tôi nghe người ta nói “cái gậy của thằng ăn
mày”, hay chọc lung tung, nhưng cái câu “Gậy thiền, chưa thọc” được dùng trong
ý nghĩa nội dung bài này, quả làm tôi sửng sốt. Ý nghĩa “Cây gậy thiền” được
giảng nghĩa trong nhà Phật là cây gậy của trí tuệ, của chánh niệm. Cây gậy của
chặt đứt lục căn, lục trần, lục thức. Cây gậy đánh tan vọng tưởng, giúp tâm ta
sáng suốt, và biết dùng trí tuệ để khắc phục vô minh để đem lại sự thanh tịnh,
tinh khiết trong tâm của chúng ta. “Gậy thiền” được dùng như cái chân thứ ba
của con người hay cái gậy của thằng ăn mày của NĐS trong bài thơ ở đây ắt hẳn
không có cái nghĩa của thiền tông mà chỉ có thể được xem là ngôn từ “Phạm
thánh”. Nhưng với ông phạm thánh là chuyện thường ngày và không biết trong lòng
ông có vị nào là thánh không nữa.
Giấc mơ và đời sống là hai thực thể khác biệt. Bên những vì sao sáng vẫn có
những làn sương che mờ ánh sao. Tuy nhiên em ơi dù sống khó, con chim trong thơ
ca gã du sỹ vẫn hát véo von buổi trưa nào bên bờ suối trao em món quà đơn sơ
một trái chuối và hai củ khoai lang mà vẫn thấy hạnh phúc của tử sinh sao mà
ngọt.
Cũng có lúc núi cũng phải lạnh, phải khóc hu hu khi không thấy bóng người.
Gió đã quên lời hẹn hò, cây đã ngưng tiếng rì rào, trái tim và đôi mắt cùng
nhau buông thả …
Ôi sống với thơ là một khốn khó vô biên. Làm thơ và để sống còn cùng thơ mà
không chết vì đói có lẽ là một nan giải đời người. Nhà thơ yêu núi, yêu đá NĐS
đã tự hỏi bao nhiêu lần trong tuyệt vọng, làm sao có thể sống với thơ và làm
thơ mà không phải ăn, phải uống, phải lăn lộn mưu sinh cho vợ con và gia đình.
Và ông đã tìm ra giải pháp “Đứng một chân trên núi!!!”.
Trịnh Thanh Thủy