Tháng 7/75, khi mọi người vẫn còn đang ngơ ngác, chưa kịp hoàn hồn trước bao thù hận, mất mát chia lìa, thì ở khu làng biển nghèo Bá Hà, một cậu bé 15 tuổi lại ngỡ ngàng trước một tin vui – có mẹ. Khi bà ngoại dắt Hưng vào nhà và chỉ một người đàn bà xa lạ, bảo đó là mẹ mình. Hưng bất ngờ đến sững sờ, cứ ngỡ như bà mẹ này vừa mới từ trên trời rơi xuống.
Từ khi sinh ra, rồi cả một thời tuổi thơ Hưng chỉ sống với
bà ngoại. Ngoại nghèo khổ, một thân một mình vất vả làm thuê, gánh mướn, chắt
chiu nuôi đứa cháu duy nhất của mình. Hưng lớn lên bằng tấm lòng bao la của ngoại
và sóng gió của biển khơi mênh mông. Trò chơi chỉ là rượt theo các chú dã tràng
trên bờ biển vắng hoặc nhặt những chiếc vỏ ốc, vỏ sò sau mỗi lần thủy triều lên
xuống. Càng lớn Hưng càng khôi ngô, khỏe mạnh. Có lẽ nhờ tiếng hát ru hời của
ngoại cùng âm thanh rạt rào của biển luôn an ủi vỗ về mà Hưng gần như quên hẳn
nỗi bất hạnh mồ côi và hun đúc Hưng thành một đứa bé khôn ngoan, thánh thiện, sớm
biết nhìn bầu trời xanh bao la mà khát khao bao điều ước vọng.
Năm mới lên tám tuổi, vừa hết lớp ba, dù rất say mê học hành
nhưng không đành nhìn ngoại ngày một còng lưng, Hưng phải xin nghỉ học để đi
làm phụ ngoại. Theo ghe lưới cá của mấy người hàng xóm. Thời gian nghỉ ngơi, ở
nhà tự học, đọc sách vở mà Hưng mượn được hoặc mua lại từ những bạn bè hay các
anh chị học sinh lớn tuổi trong làng. Hưng ít khi hỏi ngoại về cha mẹ mình, vì
Hưng không hề biết mặt họ, và trong ký ức non nớt cũng như trong cả những giấc
mơ của Hưng cũng không bao giờ có hình ảnh cha mẹ. Chỉ nghe bà ngoại kể là cả
hai người đều bị bạo bệnh qua đời lúc Hưng mới sinh ra. Có lẽ thấy tội nghiệp đứa
cháu côi cút của mình, bà không muốn Hưng phải suy nghĩ hay nhớ đến chuyện buồn
này, nên chỉ kể vội một đôi lần, lúc Hưng mới lớn lên và bắt đầu nhận hiểu đôi
điều ở quanh mình.. Rồi không bao giờ bà nhắc lại nữa.
Hưng có hai ông cậu, em của mẹ, nhưng ít khi gặp mặt. Ông cậu
nhỏ đi làm xa ở đâu đó, còn ông cậu lớn thì đi lính quân dịch, một năm chỉ về
phép đôi ba lần. Ông có vợ, nhưng gởi vợ lại cho ngoại. Bà mợ thì hiền lành,
nhưng ông cậu lần nào về cũng ghen tương, gây gổ với mợ, với ngoại, mặc dù ông
rất thương và lo lắng cho ngoại. Có lần ngoại buồn, hờn cậu, dắt Hưng theo ra tận
vùng quê Xuân Tự, ngoài Vạn Giã ở với gia đình người em của ngoại. Sau hơn nửa
tháng, nguôi ngoai và nhớ nhà, nhớ biển, nhớ cả đôi gánh tần tảo của mình, bà
cháu lại dắt díu trở về làng cũ. Đó là kỷ niệm một lần đi xa độc nhất trong tuổi
thơ của Hưng.
Mười lăm năm sống bên cạnh ngoại, trừ chuyến đi xa duy nhất ấy,
Hưng chỉ quanh quẩn ở làng quê Bá Hà hay trong khu vực Hòn Khói. Một khu làng
nghèo thuộc huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, nằm bên bờ một cái vịnh nhỏ xa xôi,
cách biệt thị tứ. Thời Pháp thuộc, chưa có nhiều phương tiện giao thông, nơi
này chẳng khác nào một ốc đảo. Muốn đến nơi khác phải di chuyển bằng ghe thuyền.
Dân chúng đa số sống bằng nghề đánh cá, làm muối, một ít làm ruộng. Nghèo,
nhưng để bù lại, ông trời đã ban cho họ sự kiên nhẫn, trí thông minh, lòng hiếu
học, cùng những cô con gái mặn mà nhan sắc.
Đầu thập niên 60, Bá Hà, Hòn Khói có khá nhiều người trẻ
vươn lên, thành đạt bằng con đường chữ nghĩa, tốt nghiệp bác sĩ, kỹ sư, giáo
sư, đã tạo một làn sóng đưa con cái vào các thành phố lớn Nha Trang, Sài Gòn
theo học. Nhà nào cũng hy vọng con cháu mình sẽ bước ra khỏi cái nghiệp nghèo
khổ, ít học, quanh năm chỉ soi mặt dưới biển, trên đồng từ mấy đời của dòng họ,
cha ông. Điều đáng buồn là cùng với cái đà vươn lên ấy cũng là lúc xảy ra nhiều
biến động đau thương của đất nước. Bá Hà, Hòn Khói lại là nơi có nhiều anh em
ruột thịt và bạn bè thân thiết, kẻ đứng bên này, người đứng bên kia, trong cuộc
chiến huynh đệ tương tàn. Chủ nghĩa Mác-Lê một thời đã hấp dẫn một số người trí
thức trẻ, vươn lên từ những tầng lớp nghèo khổ, khi “đấu tranh giai cấp” trở
thành mục tiêu và lý tưởng của họ. Họ không hiểu là người ta đã lợi dụng điều
này, dẫn dắt họ vào con đường lầm lạc để cuối cùng chỉ phục vụ cho một nhóm người
ác độc, chẳng hề có lý tưởng mà chỉ khát khao quyền lực, bạc tiền.
Hương là một trong số những người đi theo con đường cam go đầy
bất trắc ấy. Có điều không nổi đình, nổi đám như nhà họ Đỗ cùng xóm. Một anh
giáo sư có vợ bác sĩ và mấy người cháu ruột đều có bằng cấp cao, kẻ vào bưng,
người hoạt động nội thành, sau 75 làm nhiều chức rất lớn trong đảng. (Nhưng
cũng chỉ vài năm sau thì giật mình thấy “lạc đường” nên quay lại chống đảng để
bị tù tội và mất hết bổng lộc) (*). Việc ra đi của cô gái tên Hương này kín
đáo, thầm lặng và từ một lý do đặc biệt hơn, không ai biết được.
Hưởng ứng phong trào cho con cái tiến thân theo con đường
sách vở, cha mẹ Hương chắt chiu tiền bạc cho cô con gái của mình vào Sài gòn học.
Thương cha mẹ nghèo mà phải vất vả lo lắng cho mình, sau khi vào Sài Gòn một thời
gian, Hương kiếm việc làm thêm; vừa làm vừa học. Công việc chỉ là phụ giúp
trong một nhà máy dệt, nhưng sau một tháng, ông chủ thấy Hương vừa hiền lành thật
thà, vừa có chí học hành nên cho Hương làm sổ sách, kế toán. Biết Hương thuê
phòng trọ trong khu lao động nghèo, sống một mình giữa Sài Gòn ồn ào đầy bất trắc,
ông chủ tốt bụng động lòng thương cho về ở chung với đám con cái trong ngôi nhà
rộng lớn của mình. Vừa làm cho xưởng dệt vừa phụ giúp những chuyện lặt vặt
trong nhà.
Ông Bùi Văn Trụ, chủ xưởng dệt Bắc Hà là một kiến trúc sư
tài ba, từng thiết kế nhiều khu đô thị và nhận lãnh công trình xây cất khu chợ
Hòa Bình Đà Lạt. Gia đình trước ở Hà Nội và đã mấy đời làm chủ nhiều xưởng dệt.
Năm 1954, cả nhà di cư vào Nam, sống ở khu Phùng Hưng, Chợ Lớn. Sau khi tạm ổn
định đời sống và việc học hành cho con cái, ông gầy dựng lại Xưởng dệt Bắc Hà
này. Được sự giúp đỡ của chính quyền trong bước đầu, nhưng chính yếu là nhờ vốn
liếng và nhiều kinh nghiệm của ông, xưởng dệt ngày càng phát triển, không bị thất
thế giữa những xưởng dệt lớn khác ở chung quanh mà hầu hết do Hoa kiều làm chủ.
Biết ông Trụ là người có khả năng và tâm huyết, chính phủ
Ngô Đình Diệm đã yêu cầu ông cộng tác trong chương trình tái định cư và kiếm
công ăn việc làm cho hơn một triệu người đồng cảnh với ông. Xưởng dệt Bắc Hà
cũng là nơi quy tụ nhiều người di cư có kinh nghiệm trong nghề dệt.
Vợ mất, để lại cho ông bốn người con, ba trai một gái. Ông tục
huyền với bà vợ mới, là bạn thân của vợ ông và cũng chính là người quản lý mấy
xưởng dệt của ông ngoài Hà Nội. Khi di cư vào Nam, gia đình ông, ngoài vợ chồng
và cậu con trai nhỏ của bà vợ sau, còn có cả bốn đứa con của bà vợ trước. Vào
Sài Gòn ông bà có thêm một cô con gái út. Các con đều theo học các trường Tây:
Jean Jacques Rousseau hay Marie Curie. Ông Trụ rất cưng con, nhưng thường bận
đi xa trong nghề kiến trúc, hay giúp việc định cư cho những bà con khác, nên
giao cho vợ chăm sóc, dạy dỗ đàn con, ngoài việc quản lý xưởng dệt Bắc Hà. Có lẽ
một phần do ảnh hưởng nghề nghiệp, nhiều năm với cương vị quản lý mấy xưởng dệt
lớn, nhân viên lên đến mấy trăm người, nên bà khá nghiêm khắc với con cái.
Trong mấy cậu con trai có Hoành, con út của đời vợ trước, rất
giống bố, khá đẹp trai, hiền lành, học hành chăm chỉ và luôn vâng lời cha mẹ.
Hoành không những giống bố về khuôn mặt, dáng đi mà còn ở đức tính rộng lượng,
thương người. Thấy Hương con nhà nghèo, nhưng xinh xắn, nhu mì và hiếu học,
Hoành rất quí mến, thương yêu lo lắng cho Hương như cô em gái. Hoành thường dạy
kèm thêm cho Hương. Những ngày nghỉ, khi đưa các em gái đi chơi, Hoành luôn rủ
Hương cùng đi. Thường chỉ đi dạo trong Sở Thú, ăn kem hoặc xem ciné. Sự gần
gũi, thân tình và hợp tính nhau dần dần đã làm tình yêu nẩy nở.
Cuộc tình đẹp nhưng thầm lặng kéo dài gần hai năm, càng lúc
càng say đắm, nồng nàn với kết quả là Hương mang thai. Hoành đem sự việc thưa
cùng cha mẹ và xin được cưới Hương làm vợ. Lúc ấy Hoành đang học năm cuối trường
Jean Jacques Rousseau và chuẩn bị thi BAC II. Cha của Hoành, sau khi la rầy rồi
cũng đồng ý. Ông bảo Hương là đứa con gái hiền hậu dễ thương, lỗi là ở con trai
mình. Cha mẹ phải có trách nhiệm, nhất là trong bụng Hương đang có giọt máu của
họ Bùi. Nhưng bà kế mẫu của Hoành thì vừa nghiêm khắc, vừa bảo vệ nếp nhà “môn
đăng hộ đối”, quyết liệt khước từ. Sau nhiều lần bàn cãi, cha của Hoành phải tạm
thời nhượng bộ để giữ hòa khí gia đình. Cuối cùng ông bà đi tới quyết định:
Thuê chỗ ở khác cho Hương sống để chờ sinh đẻ. Sau khi sinh xong, ông bà sẽ bắt
đứa con và chu cấp tiền bạc như một đền bù để Hương về quê sinh sống, cắt đứt mọi
liên lạc với gia đình cũng như với Hoành. Thực ra, trong thâm tâm ông Trụ, cha
Hoành, đây chỉ là kế hoãn binh với bà vợ kế, chờ sau này, mọi việc lắng xuống,
ông sẽ mua nhà riêng cho Hoành và tìm cách đưa Hương trở về sống với Hoành và
con. Tiếc là ông không nói sớm điều ấy với Hoành. Hoành quá thật thà đem hết mọi
việc kể cho Hương nghe, và khuyên Hương cứ ở lại sinh đẻ rồi sau này sẽ tính. Vừa
bất bình trước sự khinh miệt giai cấp của gia đình Hoành, vừa giận thái độ khiếp
nhược của Hoành, và nhất là sợ bị mất đứa con, hôm sau Hương viết để lại cho
Hoành một lá thư từ biệt, trút bao đớn đau trách móc, rồi lặng lẽ ra đi. Để
đánh lạc hướng gia đình Hoành, ngừa việc sau này họ đi tìm để bắt đứa con,
Hương bảo sẽ về quê ở Diên Khánh (Thành) thay vì về Hòn Khói. Vì xưa nay, mọi
người chỉ biết Hương là người từ Nha Trang vào học, thế thôi.
***
Mười lăm năm chưa biết mặt mẹ, chưa hề biết cảm giác của một
đứa con có mẹ. Bây giờ bỗng dưng gặp một người bảo là mẹ mình, Hưng không có cảm
xúc. Ngồi nghe mẹ kể lại cuộc đời bà và nguyên nhân sự có mặt của mình trên thế
gian này, Hưng ngậm ngùi nhưng vẫn không hiểu hết được những điều đã xảy ra.
Sao giống chuyện trong mấy cuốn tiểu thuyết mà mình đã đọc. Hưng thầm nghĩ như
thế rồi hỏi mẹ:
– Vậy tại sao mẹ lại bỏ con lại cho bà ngoại khi con chỉ mới
lên ba?
– Đó là điều đau xót và ân hận nhất của mẹ, đã dằn vặt
mẹ bao nhiêu năm nay. Nhưng xin con hãy hiểu và tha thứ cho mẹ. Lúc ấy mẹ không
có con đường nào khác. Phụ lòng bà ngoại, xấu hổ với bà con láng giềng vốn còn
rất đậm nề nếp cũ, con gái không chồng mà có con là cái tội xấu xa, cái án vô
hình nhưng nặng nề lắm, con ạ.
– Đã bao nhiêu năm, sao mẹ không tìm cách liên lạc với
bà ngoại và với con, để bà ngoại vừa một mình khốn khổ nuôi con vừa buồn vì tưởng
mẹ đã chết thật rồi.
– Thực ra thì lúc ấy mẹ cũng muốn chết lắm. Viết lá
thư để lại cho ngoại, bảo là mẹ xuống biển tự tử. Khuya hôm ấy mẹ có ra biển,
nhưng khi lội xuống biển, nhìn thấy biển mênh mông, đen sẫm, nghe tiếng sóng
thét gào, mẹ bỗng giật mình sợ hãi, không còn một chút can đảm. Mẹ bước lên bờ
với ý nghĩ bỏ đi, nhưng chưa biết đi đâu, mẹ ra trốn ngoài ghềnh đá bên động
cát, thì bất ngờ gặp mấy người du kích trong xã, trong đó có cô Tám, bạn học của
mẹ lúc nhỏ, rủ vào bưng theo kháng chiến. Mẹ đi theo cô ấy.
– Sao mẹ không ở trong đội du kích cho gần nhà mà lại đi ra
tận ngoài Bắc?
– Mẹ được cô Tám dắt lên núi để học tập. Nghe nói cách mạng
là thực hiện triệt để cuộc đấu tranh giai cấp, mẹ thấy rất hợp với ước nguyện của
mẹ nên đã xin tình nguyện để được kết nạp vào đảng. Hơn nữa, mẹ cũng muốn rời
xa quê hương, để không ai còn biết đến mình. Mẹ được đưa ra Liên Khu 5, ba năm
sau chuyển ra Bắc. Và cũng ở tại Liên Khu 5 này mẹ đã gặp cha của con bây giờ.
Đưa tay chỉ người đàn ông cao lớn, mặc bộ áo quần bằng vải
kaki Nam Định, vai mang xắc-cốt, nãy giờ ngồi yên lặng trên bộ phản, bên cạnh
bà ngoại, và hai đứa trẻ lạ, mẹ Hưng tiếp tục:
– Chú Ba đây là chồng của mẹ. Và con Hồng, thằng Hà
đây là em của con. Trước khi vào Nam, chú Ba nhất quyết bảo mẹ phải nói với
con, chính chú ấy là cha ruột để cho con vui, nhưng mẹ không chịu. Mẹ muốn con
biết rõ sự thật, vì chuyện cha con là chuyện máu mủ thiêng liêng. Con có nghĩ về
mẹ thế nào cũng được, nhưng mẹ muốn con biết rõ lai lịch của mình.
Ông Ba đứng dậy, bước lại ôm vai Hưng thân mật :
– Mặc dù trước đây chưa được gặp con, nhưng mẹ con đã kể cho
chú nghe về con từ khi mẹ và chú mới quen nhau. Chú rất thương con, và mong là
con luôn xem chú như là ba của con. Nếu được, xin con cho chú cái vinh dự làm
cha của con trong giấy khai sinh. Chú thực lòng không muốn trong khai sanh của
con đề cha là vô danh, như mẹ đã kể cho chú nghe.
Nói xong ông Ba gọi hai đứa con lại, bảo anh Hưng đây là anh
hai của hai đứa con. Từ nay phải gọi là anh hai và thương yêu, vâng lời
anh ấy. Hai đứa nhỏ bước đến vòng tay, bẽn lẽn chào Hưng.
Cái giọng Bình Định lai Bắc kỳ của ông Ba hơi khó nghe.
Nhưng Hưng hiểu được những điều ông muốn nói và tin những tình cảm ấy là chân
thật. Mặc dù sau tháng 4/75, Hưng nghe người trong làng kháo nhau: Đừng nghe những
gì Cộng Sản nói.
Sum họp được hai ngày, thời gian chưa đủ để Hưng cảm giác có
mẹ, có em, thì mẹ Hưng cùng chồng và hai con phải vào Cam Ranh để nhận nhiệm sở
mới. Nghe nói ông Ba làm ở Phòng Địa Chính còn mẹ Hưng thì làm hiệu trưởng một
trường phổ thông cấp 1. Trước khi đi ông bà để lại cho bà cháu Hưng mấy bao gạo,
một số tiền và ít áo quần.
Sự thay đổi qua bất ngờ và khá lớn lao đó vẫn chưa đủ làm
cho Hưng mất đi cái cảm giác mồ côi. Mười lăm năm, đã quen và yêu cuộc sống tuy
vất vả nhưng rất yên ả với ngoại, với biển cùng đám bạn bè ở cái làng nghèo Bá
Hà này nên Hưng không muốn có một sự đổi thay nào nữa. Từ ngày người mẹ xuất hiện,
với một lai lịch khá mơ hồ về cha, cùng với sự xáo trộn từ đầu tháng Tư, kéo
theo bao âu lo của bà con trong xóm, đầu óc Hưng lúc nào cũng căng thẳng, chẳng
khác nào những đêm biển lặng, theo thuyền đi lưới cá ngoải khơi, đột nhiên bị
dông tố bất ngờ. Bao nhiêu năm sống với ngoại, Hưng ví ngoại như cây cổ thụ đầu
làng, quanh năm phủ bóng che mưa, che nắng cho mình. Hưng không muốn có ngày bị
người ta kéo ra khỏi cái bóng thần tiên ấy, cho dù người ấy là ai. Bỗng dưng
Hưng thấy thương ngoại hơn. Tối tối, Hưng chui vào nằm bên ngoại, ôm ngoại thật
chặt như sợ bà sắp tuột mất khỏi vòng tay bé nhỏ của mình. Còn ngoại thì khác,
bà tỏ ra phấn chấn, vui mừng, thường nắm tay Hưng bảo nhỏ:
– Hãy vui lên nghe con, bây giờ thì con đã có mẹ. Trước đây
ngoại rất lo sợ, vì ngoại đã già rồi, nếu có bề gì biết có ai lo lắng cho con.
Bây giờ con có mẹ, ngoại yên lòng.
Ngoại nói là ngoại mừng, nhưng nhìn vào mắt ngoại, Hưng thấy
ngoại đang khóc.
Hơn một tháng sau, mẹ và chú Ba đưa xe con về đón ngoại và
Hưng vào Cam Ranh. Gia đình ông bà được cấp ngôi nhà khá rộng trong khu cư xá,
nghe nói của một công chức VNCH bị tịch thu. Mới làm việc chỉ hơn một tháng,
nhưng ông bà tỏ ra chán ngán. Ông bảo làm trong ngành địa chính nên biết rõ nhiều
điều bất công, khuất tất. Từ việc tịch thu tài sản của nhiều người dân vô tội đến
việc giành giật chia chác từ chức tước đến nhà cửa, đất đai giữa những cán bộ
trong các ban quân quản và guồng máy chính quyền mới vừa “biên chế”. Mẹ Hưng
thì dễ dàng nhận ra hệ thống giáo dục và trình độ của các giáo chức miền Nam,
hơn hẳn bây giờ và cả ngoài Bắc. Tuy phải chấp hành cấp trên, nhưng với chức vụ
hiệu trưởng, bà cảm thấy e thẹn, nhất là những khi phải họp hành “giao
ban” với các giáo chức cũ. Hưng nghe mẹ thường buồn bã tâm sự với ngoại :
– Điều buồn nhất sau bao nhiêu năm trở lại quê nhà là con cảm
thấy thật cô đơn. Láng giềng, bạn bè cùng lớp cùng trường ngày xưa dường như đều
muốn xa lánh con. Có ai bất ngờ gặp con giữa đường, họ giả vờ vồn vã nhưng con
nhìn thấy rõ sự dè dặt trong mắt họ.
Ông bà luôn chăm sóc ngoại, vỗ về an ủi Hưng. Nhiều đêm bà
ngủ cùng phòng với Hưng để mẹ con tâm sự. Nước mắt của mẹ dần dà đã thấm đẫm
trong lòng Hưng, làm Hưng xúc động. Nằm trong vòng tay, với những cái nhìn âu yếm,
cùng những giọt nước mắt ấy của mẹ đã làm Hưng thấy gần gũi, thấu hiểu được nỗi
lòng và ước mơ của mẹ. Nhiều lúc, thấy mẹ ngồi thẫn thờ nhìn xa xăm, Hưng biết
là cả một quá khứ đau buồn đang trở về với mẹ, nhưng không hiểu là hình bóng của
cha Hưng đã hiện lên như thế nào trước mắt mẹ. Mẹ có còn thương cha, có dành một
ngăn nhỏ nào trong trái tim của bà cho người tình xưa, hay chỉ có oán trách, hận
thù? Còn chú Ba, chồng của mẹ bây giờ, thực ra cũng là một người tốt, chân chất
hiền lành, thường tâm tình khuyên bảo, năn nỉ Hưng ở lại với ông bà và hai em.
Ông sẽ lo cho Hưng đi học trở lại, có mẹ kèm thêm để Hưng học nhanh hơn. Ông
cũng tỏ ý muốn thay mặt cho cha Hưng để bù đắp những gì mà hơn 15 năm qua Hưng
bị mất mát quá nhiều. Ông tha thiết mong được Hưng gọi mình là ba như hai đứa
em của Hưng.
Hai tuần ở đây, tình cảm trong Hưng có nhiều biến chuyển.
Hưng bắt đầu gọi ông Ba bằng cha, và cũng là lần đầu tiên Hưng cảm giác mình có
mẹ. Hưng thấy hạnh phúc và cũng có chút hãnh diện về mẹ, một người đàn bà lớn
tuổi nhưng còn nhan sắc và hiểu biết. Có một điều Hưng vẫn mơ hồ, không biết
con đường gai góc mà mẹ đã đi trong gần mười lăm năm, bỏ Hưng côi cút với ngoại,
có phải mẹ đã thực sự tìm đúng lý tưởng của mẹ ? Hưng thấy cái làng Bá Hà này vốn
cũng đã nghèo, giờ lại càng nghèo khổ xơ xác hơn. Các chủ ghe mà Hưng đã từng
đi theo phụ lưới, giờ phải đem ghe thuyền giao nộp hết cho hợp tác xã. Các anh
chị từng vươn lên trong học hành, có cả ông thầy trẻ từng dạy Hưng, một thời
làm hãnh diện cho Bá Hà, giờ một số bị tù đày, số còn lại thì quay về nghiệp
cũ; đánh cá, làm muối, làm ruộng. Chẳng lẽ học hành, giỏi giang chữ nghĩa lại
có tội ? Mọi người ai cũng ngờ vực, sợ sệt lo âu.
***
Tháng 5/78, một chiếc thuyền nhỏ vượt biển tắp vào một hoang
đảo ở Nam Dương. Trên thuyền gồm có 18 người, đa số là thanh, thiếu niên. Tất cả
được Cơ Quan Cao Ủy Tị Nạn LHQ đón nhận đưa về tạm trú tại trại tị nạn
Tandungpinang.. Trong số 18 người này có Hưng, cậu bé đánh cá vùng biển Hòn
Khói năm nào, bây giờ đã 18 tuổi. Được phái đoàn Mỹ nhận, Hưng đến định cư tại
Tiểu bang Florida vào đầu tháng 10/79 với sự bảo trợ của một gia đình người Mỹ
tốt bụng.
Nhờ có sẵn đức tính cần cù chăm chỉ, từng trải qua cả một thời
tuổi thơ cơ cực, và cũng nhờ vào trí thông minh của ông trời ban cho người dân
nghèo Hòn Khói, Hưng vừa đi làm giúp đỡ gia đình, nhất là bà ngoại ở Việt Nam,
vừa theo học tại một trường Cộng Đồng dành cho người lớn tuổi. Hưng học rất
nhanh và luôn đạt điểm cao, được khích lệ của các thầy cô giáo. Hưng theo gương
Nguyễn Xuân Nam, một người bạn nghèo cùng làng Bá Hà, sang Mỹ trước Hưng một
năm, nổi danh hiếu học (**). Trong chuyến đi của Hưng có cậu em ruột của Nguyễn
Xuân Nam.
Khi được Cao Ủy Tị Nạn và Phái Đoàn Mỹ phỏng vấn, hỏi do động
cơ nào mà Hưng vượt biển ra đi. Hưng trả lời là chính bà ngoại đã khuyên và
giúp Hưng tìm mọi cách, bà bảo :
– Chỉ mới sau mấy năm “giải phóng” mà coi bộ dân chúng khốn
khổ quá chừng. Ai cũng lo sợ, oán than cách mạng. Ngoại già rồi, nhưng con còn
trẻ phải tìm mọi cách ra đi. Ở lại coi bộ khó sống lắm con ạ.
Đó là lời khai hoàn toàn thành thật, vì xưa nay Hưng không hề
biết nói dối. Có điều Hưng hơi ngạc nhiên khi nghe ngoại bất ngờ nói ra điều
này, mà trước đó Hưng chưa bao giờ nghe bà nói tới. Sau này, Hưng mới biết đó
là quyết định của mẹ và ông cha kế. Cả số tiền để Hưng trả cho chủ ghe cũng do
ông bà đưa cho ngoại.
Lá thư đầu tiên nhận được của mẹ, có cả ông Ba, người cha kế
viết chung trong đó, Ông bà chúc mừng Hưng đã đến xứ tự do, nơi bảo đảm tìm thấy
tương lai, nếu ở lại, giờ này Hưng đã bị đi nghĩa vụ quân sự và có thể bỏ xác
oan uổng ở chiến trường Campuchia trong cuộc tranh giành quyền lực giữa những
người Cộng Sản. Hai năm sau, tháng 12/81, Hưng được tin ông xin phục viên, viện
cớ chứng đau nhức đến buốt óc do một mảnh đạn còn nằm trong đầu, bị thương
trong trận tấn công Quảng Trị 1972, không thể giải phẫu lấy ra được. Mẹ Hưng
còn dạy học thêm vài năm nữa, sau này xin nghỉ vào Bình Dương làm nghề trồng
cây ăn trái.
Năm 1992, sau khi tốt nghiệp đại học và đã có công việc làm ổn
định, được tin ngoại ốm nặng, Hưng vội vã về Việt nam thăm ngoại. Xin bảo lãnh
ngoại sang Mỹ để chữa bệnh và sống với Hưng, nhưng ngoại nhất quyết chối từ, bảo
là bà đã sống ở làng quê Bá Hà cả một đời người, như cây đa mọc rễ không dễ gì
mà bứt ra được. Không ngờ đó là lần cuối cùng Hưng gặp ngoại. Bà qua đời vào
năm 1998. Được tin ngoại mất, Hưng có cảm giác như cả bầu trời sập xuống. Hưng
tưởng tượng cái cây cổ thụ xum xuê to lớn ở đầu làng Bá Hà vừa bị bật gốc. Dù
bây giờ Hưng đã thực sự trưởng thành, có một gia đình hạnh phúc với vợ con,
công ăn việc làm ổn định, nhưng Hưng vẫn cảm thấy như vừa mất đi cái bóng mát
vĩ đại để tâm hồn mình trú ẩn. Bởi mỗi khi buồn, cảm thấy cô đơn lạc lõng trên
xứ lạ quê người, nghĩ tới ngoại là tinh thần Hưng phấn chấn. Nhớ những ngày
mình còn bé, ngoại thường dắt lên chùa lễ Phật. Hưng chấp tay trước ngực, đứng
nép bên ngoại trước tượng Phật, nghe ngoại chỉ cầu xin bao điều may mắn tốt đẹp
cho đứa cháu côi cút của mình. Có lẽ nhớ những lời cầu xin này của ngoại mà cuộc
đời mình mới được như hôm nay. Bây giờ trang sách cuộc đời như vừa bị ai đó xé
đi mất nửa trang đầu, để nửa sau không còn ý nghĩa gì nữa. Hưng khóc hết nước mắt
và hụt hẫng đến suy sụp cả tinh thần.
Ông Ba, người chồng sau của mẹ cũng qua đời mấy năm sau đó.
Hưng dắt vợ con về Việt Nam để chịu tang ông như người cha ruột của mình. Hưng
xin xây mộ phần cho ông, an ủi mẹ và hai em. Trước khi rời Việt Nam, Hưng
gởi lại cho mẹ một số tiền và hứa mỗi tháng sẽ gởi thêm về để phụ cho hai em ăn
học đến nơi đến chốn.
Trong lần về Việt Nam lo đám tang cho ngoại, Hưng có dịp tâm
tình riêng với mẹ. Mấy ngày hai mẹ con nằm trong khách sạn Hải Yến ở Nha Trang,
khi ngoài trời gió mưa tầm tã, mẹ đã kể lại tỉ mỉ hơn về cha ruột của Hưng, về
cuộc tình thật đẹp, thật lãng mạn nhưng kết cục quá đau đớn của ông bà. Mẹ cũng
không còn trách cha. Bảo ông ấy là người tốt, hiểu biết, thương người, nhưng
lúc ấy còn đang đi học, lệ thuộc nhiều vào gia đình, hơn nữa lại là đứa con
luôn vâng lời cha mẹ. Hôm ấy, lần đầu tiên mẹ ngỏ ý muốn Hưng đi tìm cha, dù điều
ấy bây giờ rất nhiêu khê, nhất là sau tháng 4/75, những người giàu có đã phải bỏ
nhà cửa, bỏ Sài gòn ra nước ngoài hay đến một vùng quê xa xôi nào đó để mong
còn giữ được cái thân.
Nghe lời mẹ, trước khi trở lại Mỹ, Hưng thuê xe đến khu
Phùng Hưng trong Chợ Lớn. Đúng như lời mẹ nói, tất cả đã đổi thay, không ai biết
gì về gia đình ông chủ xưởng dệt Bắc Hà ngày trước.. Vừa thất vọng, vừa nghĩ là
nếu có tìm được ai đó trong gia đình cha, chắc gì họ đã đón nhận mình. Bởi
trong mười lăm năm Hưng sống côi cút khổ cực, cũng không hề thấy có ai đi tìm đứa
con, đứa cháu lạc loài bất hạnh. Hưng quyết định bỏ hết, cố quên đi cái quá khứ
đau buồn và phiền muộn ấy để cho lòng thanh thản. Hưng nhủ thầm “không ai thay
đổi được quá khứ, mình nên dồn hết trí óc và thời gian còn lại để xây dựng
tương lai”. Hôm ấy, khi máy bay lấy cao độ để rời khỏi không phận Sài
gòn, Hưng nhìn xuống, qua khung cửa kiến nhỏ, nhận ra khu vực Chợ Lớn nằm xa xa
phía dưới, bất giác Hưng đưa tay lên chào. Hưng nghĩ đó không chỉ là cái vẫy
tay từ biệt khu phố Phùng Hưng, mà còn từ biệt luôn một quá khứ mơ hồ. bất hạnh
với một người cha chỉ nghe như huyền thoại.
***
Cách đây hai tuần, khi đang say ngủ Hưng giật mình bởi
chuông điện thoại reo. Xem đồng hồ, đã hơn hai giờ sáng. Giờ này mà ai gọi chắc
là có điều khẩn cấp lắm.. Hưng bốc ống nghe. Bên kia đầu dây là Hà, đứa em trai
cùng mẹ khác cha đang gọi từ Sài gòn. Hà gọi từ một trạm internet, nên hiện lên
trên khung điện thoại của Hưng một dãy số lạ hoắc. Hà báo tin đã tìm được một
người biết gia đình ông bà Bùi văn Trụ, chủ xưởng dệt Bắc Hà. Việc đi tìm tin tức
về người cha ruột của Hưng hy vọng có nhiều manh mối. Cái tin bất ngờ đó làm
cho Hưng lo lắng hơn là vui mừng. Không biết khi tìm được rồi họ có nhận mình
không?
Cái vẫy tay từ biệt hôm nào trên máy bay, Hưng tưởng đã bỏ lại
cho khu phố Phùng Hưng tất cả quá khứ buồn thảm. Hưng muốn xóa sạch hết tất cả,
như cái xưởng dệt Bắc Hà giờ cũng chẳng còn một dấu tích nào. Nhưng rồi một giấc
mơ đã làm Hưng thay đổi. Một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, có tiếng điện thoại
reo, Hưng bốc máy lên nghe. Giọng một người đàn ông :
– Có phải Hưng đó không con ? Ba là Hoành, cha của con đây.
Bao nhiêu năm đi tìm con khắp nơi mà không gặp. Ba rất thương nhớ con. Hãy tha
thứ cho ba nghe Hưng!
Hưng giật mình tỉnh giấc, trong tai vẫn còn văng vẳng tiếng
người vừa nhận là cha mình. Giọng nói trầm ấm, hiền lành, xúc động. Giấc mơ đã
làm Hưng nhớ lại câu nói “cha con là máu mủ thiêng liêng” của mẹ trong ngày đầu
tiên khi hai mẹ con gặp nhau tại căn nhà tranh của ngoại ở làng quê Bá Hà hơn
36 năm trước. Chính giấc mơ đã thôi thúc Hưng đi tìm lại cha mình
Hưng nghĩ ngay tới Hà, đứa em trai một mẹ khác cha, nhưng rất
giống Hưng và luôn kính trọng, thương yêu, giữ tình nghĩa với Hưng chẳng khác
nào anh em ruột. Từ hơn mười năm nay, Hà làm việc cho một công ty xuất nhập cảng
lớn tại Sài Gòn, chắc chắn quen biết nhiều người. Hưng liền gọi điện thoại về
Việt Nam, bảo Hà hỏi mẹ rõ ràng chi tiết về gia đình ông bà chủ xưởng dệt Bắc
Hà để tìm ra tông tích của cha Hưng. Hà hết lòng ủng hộ mẹ và Hưng về việc này.
Ngày nào, sau khi đi làm về, Hà cũng chạy ngay xuống khu phố Phùng Hưng.
Qua bao biến cố, thăng trầm, Sài Gòn – Chợ Lớn bây giờ đổi
thay nhiều quá. Cả khu xưởng dệt Bắc Hà không còn lại một dấu tích gì. Người ta
đã phá hết để xây khu chung cư mới. Hầu hết dân chúng ở khu vực này từ ngoài Bắc
mới vào sau 75. Dường như chẳng còn ai biết có một xưởng dệt tên Bắc Hà từng hiện
diện ở nơi này. Hơn nữa, mọi người đang tất bật rượt đuổi theo thời gian để tìm
cơ may trong cơn sốt đổi đời, thì còn đầu óc và thời giờ đâu mà nhớ tới ngày
xưa, ngay cả cái thời đẹp đẽ hạnh phúc mà họ đã mất. Sau mấy ngày, Hà may mắn gặp
được một ông già tốt bụng. Ông thuê lại căn nhà của một người Bắc 54 đã ở đây
hơn 30 năm kể từ ngày di cư vào Nam. Hy vọng ông ấy biết nhiều về gia đình chủ
nhân xưởng dệt Bắc Hà. Ông tìm địa chỉ đưa cho Hà. Hà chạy ngay lên tận Biên
Hòa và gặp được người chủ nhà gốc Bắc 54 ấy. Ông cụ đã trên 85 tuổi, nhưng trí
nhớ còn rất tốt. Ông biết rất rõ về gia đình ông bà kiến trúc sư Bùi văn Trụ và
xưởng dệt Bắc Hà nhưng ông bảo sau 75, cả nhà cửa và xưởng dệt đều bị tịch thu.
Có lẽ tất cả đã ra nước ngoài. Vì từ ngày ấy ông không còn gặp và cũng chẳng
nghe ai nói tới gia đình ấy nữa. Tuy nhiên, ông có biết một bà bác sĩ hiện ở
bên Pháp, là bà con với gia đình ông bà chủ Bắc Hà. Bà có về Việt nam
thăm thân nhân và bạn bè một đôi lần. Ông hứa sẽ tìm một người quen, là bạn
thân của bà bác sĩ ấy, để hỏi giùm tin tức. Hà mừng quá, xin số điện thoại của
ông cụ rồi chạy ngay đến một trạm internet ở gần đó để gọi cho Hưng, mặc dù biết
ông anh của mình giờ này đang ngủ say. Hà bảo :
– Em báo tin để cho anh “phấn khởi” và tốt nhất là em
cho anh số phôn của ông cụ, để anh gọi về trực tiếp nói chuyện. Sẽ hấp dẫn, hồi
hộp và chính xác hơn là em.
Sáng hôm sau, Hưng gọi về và gặp được ông già Bắc Kỳ 54 khả
kính. Nhưng ông bảo phải chờ ông hỏi thăm, vì chưa gặp được người ấy. Ông hẹn
Hưng tuần sau gọi lại. Trong một tuần ấy, lòng Hưng rối như tơ vò. Không biết
người cha ấy như thế nào, vợ con ra sao.. Nhà giàu và học hành như thế đối với
mẹ con Hưng họ là giai cấp thượng lưu. Hơn nữa còn bà vợ. Liệu bà có cho chồng
nhận Hưng là con, khi sợ bị chia mất một phần gia tài, và nhất là tình cảm của
mẹ con bà? Hưng tâm tình với vợ. Là một người hiểu rõ tính tình, suy nghĩ và cả
một quá khứ bất hạnh buồn thảm của chồng, vợ Hưng luôn an ủi, khích lệ và chia
sẻ cùng chồng mọi tâm sự, nỗi niềm:
– Em nghĩ anh nên vui và nắm lấy cơ hội này để tìm gặp lại
cha. Vì hoàn cảnh của anh, của chúng mình hiện nay, em không sợ gia đình cha sẽ
hiểu lầm. Mình không cần bất cứ tài sản gì nữa, còn tình cảm, đó là sự thiêng
liêng như mẹ đã nói, không ai có thể nhẫn tâm chia cách được. Hơn nữa nếu còn sống,
cha cũng đã già rồi. Em tin là dù trước kia có thế nào, bây giờ bất ngờ gặp được
anh, chắc là cha sẽ vui mừng ghê lắm. Hơn nữa, đó chính là điều ước mong của mẹ.
Những lời nói của vợ làm cho Hưng bớt căng thẳng và vui vẻ
hơn, nhưng chưa hết hẳn lo âu. Sau một tuần lễ dài nhất trong đời, Hưng gọi điện
thoại về Biên Hòa gặp ông cụ Bắc Kỳ 54. Rất may mắn ông đã có số điện thoại của
bà bác sĩ ở bên Pháp. Đó là bà bác sĩ Tuyết, trước kia là học trò của ông bác
sĩ Bùi Huy Lâm hiện ở bên Mỹ. Hưng rụt rè gọi cho bà Tuyết. Một người đàn ông bốc
phôn. Nhưng mới nói vài câu, Hưng nghe bên kia đầu dây im lặng, rồi cúp máy.
Hưng đoán có lẽ ông là chồng của bác sĩ Tuyết, tưởng ai gọi nhầm số. Cũng có thể
ông không muốn nghe, ngại dính vào câu chuyện phiền toái của Hưng. Suy nghĩ
mãi, cuối cùng Hưng hỏi vài người quen ở Cali, xin số phôn của bác sĩ Bùi Huy
Lâm. Ông này khá nổi tiếng ở đây. Ông Lâm thật nhân từ, tốt bụng, vui vẻ và chịu
khó nghe Hưng trình bày một câu chuyện khá dài. Ông tỏ ra xúc động. Khi đang
khóc trong điện thoại, Hưng nghe bên kia đầu dây có tiếng sụt sùi. Ông hứa sẽ
liên lạc ngay với bà Tuyết để kể lại đầy đủ sự việc và bảo đảm bà sẽ sốt sắng
trong việc này. Ông còn an ủi Hưng:
– Cháu yên tâm. Bây giờ không phải chỉ có cháu, mà còn có cả
bác nữa, chúng ta nhất định sẽ tìm ra bố của con.
Tấm lòng của bác sĩ Lâm làm Hưng thực sự cảm kích. Hưng nghĩ
mình đã may mắn gặp một người nhân từ, nên hy vọng mọi điều sẽ tốt đẹp.
Cuối cùng thì Hưng cũng gặp được bà bác sĩ Tuyết. Lần này bà
lắng tai, thăm hỏi an ủi và cho Hưng số điện thoại của người cô út, em cùng cha
khác mẹ với cha Hưng. Bà sống ở Thụy Sĩ.
Hôm nói chuyện với cô, tự dưng Hưng xúc động đến nghẹn ngào.
Bà chỉ lớn hơn Hưng có bốn tuổi. Tuy hoàn toàn không biết gì về Hưng, không hề
được nghe người anh tên Bùi văn Hoành của bà đã từng có một đứa con như thế,
nhưng bà rất vui vẻ, thân thiện và dành cho Hưng những lời thương yêu, quí mến.
Chính tấm lòng và giọng nói của bà đã làm cho Hưng có cảm giác người này thực sự
có liên hệ máu thịt với mình.
Hưng gởi ngay cho bà vài tấm ảnh của Hưng qua email và ngược
lại bà cũng gởi cho Hưng tấm ảnh của người anh, mà Hưng bảo là cha. Xem ảnh
xong, bà bảo là Hưng giống cha Hoành như đúc. Còn Hưng, khi nhận tấm ảnh của
cha, tấm ảnh lúc ông còn trẻ, nên cả vợ chồng Hưng đều giật mình tưởng người
trong ảnh chính là Hưng bây giờ. Bà cũng báo tin cho người chị cả của bố, bác
Hương, hiện định cư ở Canada gọi sang Mỹ thăm và vui mừng đón nhận Hưng. Tối
hôm ấy, Hưng rất xúc động nhận được một email ngắn của cô út :
– Hưng đã quậy trời, quậy đất đi tìm bố, từ bác sĩ Lâm
ở Cali, đến cô Tuyết, bác Túc ở Pháp. Tất cả đã biết và cùng chia sẻ niềm hạnh
phúc. Cô ở Suisse và bác Hương ở Toronto đã mở rộng vòng tay đón Hưng vào gia
đình họ Bùi. Cô rất vui vì Hưng tìm được dòng suối trong, và Hưng sẽ như dòng
thác đổ, như sông Cửu Long chẩy về ôm hết những người Hưng muốn thương yêu
Có một điều không phải như Hưng nghe mẹ và ông cụ Bắc Kỳ 54 ở
Phùng Hưng ước đoán trước đây, cha của Hưng không định cư ở Pháp sau 75, mà vẫn
còn ở Sài Gòn. Điều ngạc nhiên hơn ông từng là đại úy phi công VNCH. Bị tù 7
năm sau tháng 4/75. Ông đủ điều kiện đi Mỹ theo diện HO, nhưng bà vợ, nhờ chôn
giấu được một số vàng của cha mẹ để lại sau 75, nên còn vốn để buôn bán làm ăn,
điều quan trọng hơn là cả cha mẹ bà đều bị bệnh nặng nằm một chỗ cần đến sự săn
sóc của bà, nên bà không thể bỏ đi. Cuối cùng bố Hưng phải đành ở lại. Bà cô út
rất tế nhị, vừa muốn tránh việc phiền muộn có thể ảnh hưởng tới cuộc kỳ ngộ, và
cũng muốn dành trọn cảm giác ngạc nhiên cho ông anh, nên bà bảo sẽ không trực
tiếp cho cha Hưng biết, mà chỉ cho Hưng số điện thoại và địa chỉ của ông, đề
nghị Hưng nhờ đứa em ở Sài gòn tìm cách hẹn ông ra ngoài, kể chuyện về Hưng, rồi
sau đó gọi điện thoại để hai cha con nói chuyện.
Hưng nghe theo lời cô, nhờ Hà giúp mình mọi việc. Chiều hôm
sau, từ một quán cà phê trong giờ vắng khách, ông Hoành lần đầu tiên nghe tiếng
nói của đứa con hơn 51 năm chưa hề biết mặt.
Giọng nói đôn hậu pha lẫn chút đùa cợt, có lúc lại nghẹn
ngào đứt đoạn của ông đã gây cho Hưng cảm giác gần gũi, thân thiết ngay từ phút
ban đầu. Ông kể chuyện về bố ông và ông, đau buồn thế nào khi biết mẹ Hưng bỏ
đi, vã đã vất vả kiên nhẫn đi khắp nơi tìm mẹ con Hưng mà không gặp. Khi nghĩ
là mẹ Hưng đã tự tử mang theo dòng máu của mình, cha con ông đã ân hận đau đớn
như thế nào. Trong phòng riêng ông có để tấm ảnh nhỏ của mẹ Hưng trên kệ thờ.
Thấy ông đau buồn tiều tụy, bố ông xin giấy tờ cho ông sang Pháp du học. Nhưng
khi ông chuẩn bị lên đường thì bố ông đột ngột qua đời do một tai nạn ở Lâm Đồng.
Ông phải ở lại, phụ bà kế mẫu lo cho xưởng dệt và mấy đứa em. Khi đến tuổi động
viên, xin vào trường Không Quân ở Nha Trang và làm phi công quan sát (L19) cho
đến ngày mất nước. Thời gian biệt phái công tác ở Trà Nóc, ông quen cô con gái
của một thương gia ở thành phố Cần Thơ. Sau này trở thành vợ của ông. Bây giờ
ông bà có bốn người con, hai trai hai gái. Tất cả đều đã trưởng thành và có gia
đình riêng. Những điều ông kể, nhiều lần bị gián đoạn. Không phải ông quên, hay
ái ngại, mà vì phải dừng lại để lau nước mắt. Bên kia đầu dây, Hưng cũng sụt
sùi.
Ông nhờ Hà về thưa lại với mẹ xin cho ông được đến thăm mẹ.
Được bà đồng ý, sáng hôm sau ông lái xe lên Bình Dương. Vợ chồng Hà giúp trang
điểm, thay áo quần mới cho mẹ. Vừa vui mừng, vừa xúc động khi nép vào cánh cửa
nhà sau, nhìn lén cuộc trùng phùng kỳ diệu của mẹ mình với người tình xưa, Cả
hai đều bạc tóc. Ông nắm tay bà :
– Bà còn giận tôi không ?
Mẹ Hưng không trả lời mà bật khóc. Đôi mắt của bà đã bị mờ từ
hơn bốn năm nay, bây giờ càng mờ hơn qua làn nước mắt. Nhưng dường như bà đã nhận
ra ông, nhìn thấy ông rất rõ qua ký ức và cả tâm hồn bà. Ông ôm lưng, dìu bà ngồi
vào chiếc ghế bành bên cửa sổ. Khi thấy bà ngồi bỏ hai chân trên ghế, ông đùa :
– Bà ngồi cái kiểu này, hèn gì Thái Lan đang bị một trận lụt
kinh hoàng bên ấy.
Bà hiểu ý, vội bỏ thòng hai chân xuống, đưa tay lau nước mắt
rồi nhoẻn miệng cười. Vợ Hà véo nhẹ tay chồng khi thấy mẹ đã trên 70 nhưng vẫn
còn giữ chút thẹn thùng của thời con gái.
Ông nói tiếp :
– Chắc bà thương tôi lắm hay sao mà đặt tên cho mấy đứa con
sau này cũng bằng vần H, và cháu Hà trông cũng giống tôi lắm?
Bà lảng sang chuyện khác:
– Nghe nói ông là sĩ quan Cộng Hòa, khi biết tôi theo Việt Cộng
ông có thù ghét tôi không?
Ông cười thật to :
– Nhiều lần bay trên trời, tôi phát hiện mấy cô du kích tắm
truồng dưới suối. Tôi sà xuống thật thấp định phóng mấy trái hỏa tiễn, nhưng bỗng
nhận ra có bà dưới đó, nên tôi vội vã bay đi. Chứ hồi đó tôi bắn một phát thì
làm sao bây giờ hai đứa còn gặp nhau đây.
Không biết vì giọng bông đùa rất tự nhiên hay vì chữ “hai đứa”
của ông vừa nói, bà bỗng im lặng, đưa đôi mắt đục mờ nhìn xa xăm. Trong ký ức của
bà, hình ảnh anh học trò Hoành 19, 20 tuổi tuấn tú ngày xưa vừa sống dậy, tạo cảm
giác trẻ trung, cùng một chút lãng mạn trong lòng bà.
Dường như ông đã đoán trước và chờ đợi thời điểm kỳ diệu
này, bước ra xe lấy bó hoa vào trao cho bà :
– Xin bà nhận cho tôi vui. Đây là bó hoa đáng lẽ tôi trao
cho bà trong ngày đám cưới, giờ lại trở thành bó hoa xin tạ tội, dù rất muộn
màng. Cái lỗi lớn nhất của tôi là đã đẩy bà đi lạc vào một con đường, để đến cuối
đời bà vẫn mãi ăn năn.
Khi thấy bà ôm chặt bó hoa vào lòng, rưng rưng nước mắt, ông
bỗng trầm xuống:
– Tôi xin cám ơn bà. Dù bà không nói ra, nhưng tôi biết là
bà đã tha thứ cho tôi. Thằng Hưng, đứa con bất hạnh của chúng ta, dù ở thật xa,
nhưng tôi đang nhìn thấy nó mỉm cười.. Tôi mong chờ để đón vợ chồng nó và hai đứa
cháu nội của mình. Nay mai tụi nó sẽ về đây để cùng với bà và tôi ôm nhau mừng cho
cuộc trùng phùng kỳ diệu này.
Trước khi chia tay, ông xin phép bà được thắp một nén hương
trên bàn thờ ông Ba, chồng của bà.
Khi tôi ngồi viết lại câu chuyện này theo lời kể của Hưng,
thì Hưng cùng vợ và hai cô con gái đang có mặt tai phi trường Tampa, bắt đầu cuộc
hành trình về Việt Nam để tìm lại nguồn cội và quá khứ của mình. Cầu mong cuộc
trùng phùng sẽ làm lành được những vết thương trong lòng mỗi người, trải qua
bao đổi thay, tan thương dâu bể.
Phạm Tín An Ninh
(*) Gs Đỗ Trung Hiếu, sau 75 làm Ủy Viên Liên Lạc Các Tôn
Giáo của Trung Ương Đảng CSVN, vợ là bác sĩ Văn và cháu là Đỗ Hữu Ưng. Cả ba đều
là đảng viên Cộng sản. Riêng Hiếu gia nhập đảng CS (1956) trước khi hoạt động
trong phong trào sinh viên Phật Tử Sài gòn. Sau này (1986) phản tỉnh, cùng với
Nguyễn Hộ và các đảng viên kỳ cựu trong Câu Lạc Bộ Kháng Chiến Cũ, chống lại đảng
nên (1992) đã bị tù và tước hết đảng tịch cùng các chức vụ.
(**) Nguyễn Xuân Nam, vượt biên trước Hưng một năm, lúc
19 tuổi. Ở Việt nam, Nam mồ côi mẹ, cha bị thương tật, chỉ học đến lớp ba, rồi
nghỉ, theo cha làm nghề đánh cá. Vậy mà sau hơn mười năm sang Mỹ đã trở thành một
bác sĩ nổi danh, được Hội Đồng Giáo dục Y Khoa trường đại học Harvard bình chọn
là một trong những bác sĩ giỏi nhất nước Mỹ(2010), hiện là Trưởng Khoa Nhi Đồng
bệnh viện Los Angeles, California và cũng là giáo sư tại một số trường Đại Học
của Hoa Kỳ