Nhân ngày Father’s Day, tặng quý vị
để biết ơn bậc sinh thành và tưởng nhớ đến bậc sinh thành quá vãng.
Lời Ngỏ: Bài viết về Nhà Giáo Hà Mai Anh & Tác Phẩm Tâm Hồn Cao
Thượng trong mục “Tiếng Việt Mến Yêu” năm 2004, có trích vài bài tiêu biểu để
con em đang theo học tiếng Việt ở các Trung Tâm, Trường Việt Ngữ học hỏi thêm…
Trong đêm hội ngộ kỷ niệm 50 năm Ngày Ra Trường của Khóa Nguyễn Trãi I, Trường Đại Học CTCT vào cuối tháng 5, 2019. Tôi gặp anh Hà Mai Khuê (Thiếu Tá Thiết Giáp, bạn học với Nguyễn Lương Tâm thời trung học ở Đà Lạt và cũng là bạn cùng khóa NT I của chúng tôi). Anh Khuê nhắc lại bài viết của tôi cách nay 15 năm khi được tin nhà giáo Hà Mai Anh (bác của anh Hà Mai Khuê) qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1975 tại San Bernadino, Hoa Kỳ.
Trong thời gian qua, nhiều bài viết
nói về nền giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa với chăm ngôn: Đức Dục, Trí Dục, Thể
Dục. Nền giáo dục đó từ bậc tiểu học đã dạy dỗ, hướng dẫn trẻ thơ học hỏi hầu
khi lớn lên làm con người lương thiện, tâm hồn trong sáng để phục vụ cho đất
nước.
Năm 1938 cuốn Công Dân Giáo Dục của
nhà giáo Hà Mai Anh đã được xuất bản tại Nam Định được chấp thuận dùng làm sách
giáo khoa. Quyển Tâm Hồn Cao Thượng, bản dịch của nhà giáo Hà Mai Anh đoạt Giải
Thưởng Văn Chương của Hội Alexandre de Rhodes Hà Nội năm 1943, cuốn sách nầy
được xem như cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư của thế kỷ 20 và trở thành “kim chỉ
nam” cho thế hệ thiếu niên trong nhiều thập niên. Sách được tái bản nhiều
lần.
Bậc sinh thành lúc nào cũng quan tâm
dạy dỗ con cái với tình thương cao cả. Người cha thường nghiêm khắc, người mẹ
nhẹ nhàng, trìu mến… Hình ảnh đó trong tác phẩm Tâm Hồn Cao Thượng thể hiện
trong đời sống xưa nay.
Sau năm 1975, Tâm Hồn Cao Thượng của
dịch giả Hà Mai Anh được tái bản rất nhiều lần tại Việt Nam, nhưng chưa lần nào
thực hiện đúng trong nguyên tác, các nhà xuất bản thiếu tôn trọng tác quyền!.
Lời NXB Thanh Niên ghi: “Chúng tôi cũng có thay đổi, sửa chữa một vài chi
tiết của bản dịch nầy cho phù hợp với tình hình hiện nay…”. Thật khó hiểu
“tình hình hiện nay” qua tác phẩm văn học, giáo dục như thế nào mà tự ý làm
giảm giá trị nguyên bản được trích giảng ở nhà trường qua nhiều thập niên.
Bản dịch khác là Những Tấm Lòng Cao
Cả do Hoàng Thiếu Sơn dịch, nhưng lối hành văn không hay như Tâm Hồn Cao Thương
(VTrD)
***
Vào đầu thế kỷ XVIII, nữ sĩ Đoàn Thị
Điểm đã dịch thi phẩm Chinh Phụ Ngâm của danh sĩ Đặng Trần Côn đã lưu lại trong
văn đàn Việt Nam áng thơ tuyệt tác. Thi phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn
viết bằng Hán văn, vào niên hiệu Cảnh Hưng đời Lê Trung Hưng, năm 1741, gồm 483
câu, theo thể thơ cổ phong trường đoản cú, câu dài đến 13 chữ, câu ngắn có 3
chữ. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã chuyển dịch sang quốc âm, thể thơ song thất lục
bát, dài 412 câu (theo bản của Văn Bình Tôn Thất Lương, năm 1950, sách Giáo
Khoa Tân Việt) được giảng dạy ở học đường. Qua bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn
Thị Điểm, Đặng Tân Côn đưa cho danh sĩ Ngô Thời Sĩ xem và ông ta ngỏ lời thán
phục: “Văn chương tới mức nầy thì Lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà
thôi”.
Nhờ bản dịch bằng quốc âm của Đoàn
Thị Điểm, tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn mới được lưu truyền và áng
thơ Chinh Phụ Ngâm gắn liền với tên tuổi nhà thơ Đoàn Thị Điểm.
Vì vậy có những tác phẩm mà bản dịch
lột tả văn phong lẫn nội dung, thể hiện tinh hoa của nguyên tác cũng được nổi
danh và lưu truyền qua nhiều thạp niên; điển hình như tác phẩm của Edmondo De
Amicis qua bản dịch của Hà Mai Anh.
Nhà giáo Hà Mai Anh (1905-1975), bút
hiệu Mai Tuyết và Như Sơn, tác giả của nhiều sách giáo khoa và dịch giả nhiều
cuốn sách phổ biến trong thập niên 50, 60 và giữa thập niên 70 ở Sài Gòn.
Năm 1954 cụ di cư vào Nam làm hiệu
trưởng trường tiểu học Trần Quý Cáp ở góc đường Trần Quý Cáp và Pasteur, Sài
Gòn (nay là trường Trần Quốc Thảo) rồi chuyển sang làm việc trong Ban Tu Thư và
Học Liệu thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Việt Nam Cộng Hòa.
Nhà giáo Hà Mai Anh được trao tặng
Giáo Dục Bội Tinh VNCH, Giải Nhất Giải Dịch Thuật Pháp Văn của Phủ Quốc
Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa năm 1970. Cụ đã dịch những danh phẩm hầu như chúng
ta đều biết: Vô Gia Đình (Sans Famille của Hector Malot), Trong Gia Đình
(En Famille của Hecotr Malot), Về Với Gia Đình (Romain Kalbris của Hector
Malot), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (La Tour du Monde en Quartre-vingt
Jours của Jules Verne), Guy-Li-Ve Du Ký (Gulliver’s Travels của J. Swiff), Em
Bé Bơ Vơ (Charles Dickens), Chuyện Trẻ Em (Contes de Perrault của Charles
Perraul), Thuyền Trưởng 15 Tuổi (Un Capitaine de 15 Ans của Jules Verne)… Hầu
hết các tác phẩm chọn dịch đều có nội dung trong sáng, hướng thượng để học hỏi.
Tác phẩm Cuore của nhà văn Ý Edmondo
De Amicis (1846-1908) ấn hành năm 1886, được nhà văn A. Pazzi chuyển sang Pháp
ngữ Les Grand Coeurs và nhà giáo Hà Mai Anh dựa vào bản Pháp ngữ nầy dịch Tâm
Hồn Cao Thượng.
(Nhân đây, đề cập bài viết “Vũ Hạnh,
Chim Cút & Hoạt Đầu Văn Nghệ” của tôi trên tờ Saigon Times năm 1993. Tên
tuổi nhà văn A. Pazzi được mọi người ái mộ qua bản dịch Les Grand Coeurs nên Vũ
Hạnh láu cá mạo danh cho rằng nguyên tác tiếng Ý là “Per Comporedere Vietnam Il
Vietnamila”, tác giả A. Pazzi. Tác phẩm Người Việt Cao Quý do Hồng Cúc dịch từ
tác phẩm của A. Pazzi, nhà xuất bản Cảo Thơm 1965. Lời nói đầu ghi: “… chúng
tôi đã có sửa chữa cho bản dịch này được đầy đủ hơn, và lần này đem in thành
tác phẩm với cái đầu đề Người Việt Cao Quý là những tiếng được trích dịch từ
trong nguyên tác, có lẽ phản ảnh trung thực hơn hết chủ đích của chính tác
giả…” (Sài Gòn, 15 tháng 6 năm 1965 – Hồng Cúc)
Tôi viết chim cút vì Vũ Hạnh cùng
với đám mánh mung, lừa vụ chim cút đã một thời gây xôn xao trong làng báo Sài
Gòn.
Sau năm 1975, với tác phẩm Người
Việt Cao Quý, Vũ Hạnh (bút hiệu Hồng Cúc) vênh váo: “Tôi phải phịa ra tên
tác giả là một người ngoại quốc, một người Ý để người ta khó truy tìm tông tích
thật hư… Thế thôi! Khi quyển sách tung ra, bán rất chạy. Với mấy chữ “không
ai biết là mình bị lừa cả”, tư cách của nhà giáo, nhà văn hoạt động nằm
vùng thật đểu, lố bịch.
Bài viết Vũ Hạnh, chim cút hoạt
đầu văn nghệ khá dài, sau nầy đã phổ biến trên
các website, trong đó trang web của Hưng Việt.
Tác giả Edmondo De Amicis viết về
tác phẩm cho trẻ thơ, viết theo hình thức nhật ký của Enrico Bottini (là An Di
trong bản dịch của Hà Mai Anh), cậu học trò 11 tuổi, học tiểu học. Câu chuyện
dẫn dắt từ Ngày Khai Trường tại thành Torino, thành phố ở Tây Bắc nước Ý, vào
thứ Hai ngày 17 tháng Mười đến Trang Cuối Cùng Của Mẹ Tôi vào thứ Bảy, ngày 1
tháng Bảy. Tác phẩm tuy mỏng, gồm 60 “tiểu mục” ngắn từ (1 Ngày Khai Trường)
“Hôm nay tôi đi học…” đến (60 Trang Cuối Cùng Của Mẹ Tôi) với dòng kết “Mẹ
tôi tin rằng hình ảnh trường cũ sẽ in vào ký ức của con cho đến lúc tàn hơi thở
cuối cùng như không bao giờ mẹ quên được bóng dáng của nhà cũ kỹ mà ở đó mẹ đã
nghe tiếng nói ban đầu của con – Mẹ con”.
Từng mẩu chuyện ngắn ghi lại trong
lớp học vui, buồn… tinh nghịch, an ủi, chia sẻ cho nhau, hình ảnh đó trong tuổi
học trò đã từng trải qua.
Tâm hồn trẻ thơ như trang giấy
trắng, khi cha mẹ, thầy cô tô điểm những bông hoa tươi đẹp sẽ ảnh hưởng vô
cùng. Và, trong tác phẩm nầy đã nói lên điều đó. Từ những ghi nhận của cậu bé,
lời nhắn nhủ của cha mẹ được diễn đạt qua dòng nhật ký trong suốt niên học được
kết thúc lúc chia tay.
(Thuở còn cắp sách đi học, chị Sáu
tôi cho quyển sách nầy, tôi chưa cảm nhận được nhưng khi về già sống ở hải
ngoại cảm thấy tuyệt vời ở trong lòng con người mất nơi chôn rau cắt rốn!).
Tác phẩm Tâm Hồn Cao Thượng được nhà
giáo Hà Mai Anh chuyển ngữ với lời văn trong sáng, nhẹ nhàng, giản dị, khi đọc
cảm tưởng như những lời tâm tình của cậu bé học lớp Ba với bậc sinh thành, với
thầy cô và cả bạn bè. Lời thầy cô, cha mẹ nhắn nhủ, khuyên bảo từ những cử chỉ,
hành động nhỏ nhặt trong nhà, trong lớp… đến ý thức và trách nhiệm người con
của đất nước. Có thể nói Tâm Hồn Cao Thượng là “sách gối đầu giường” cho tuổi
trẻ để hiểu biết những điều cao quý.
Trong bài viết Một Thuở Học Trò, GS
Nguyễn Xuân Vinh ghi nhận:
“… Những câu chuyện ở học đường, và
trong gia đình, về các thầy giáo, cô giáo và bè bạn của An-Di, những mẩu chuyện
vui hay buồn đã xảy ra trong thành phố cổ xưa này đã được kể lại trong sách
bằng một văn phong giản dị và trong sáng, thắm đặm tình người…. đặc biệt là
cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi được đọc, tả cuộc đời của cậu bé An-Di
trong một năm học ở lớp Ba, đã cho tôi nhiều bài học về lòng thương người,
phương cách cư xử chung thủy với bè bạn, và hiếu kính với mẹ cha…
… Từ ngày lên học trường trung học ở
Hà Nội, và sau này ở bậc đại học, theo học ở Pháp hay ở Mỹ, tôi phải tự mình
mua lấy sách vở giấy bút, nhưng bao giờ vào những dịp khai trường, vào thăm
những hiệu sách và đi quanh quẩn ở giữa những chồng sách vở, thơm mùi giấy mới,
tôi lại nhớ đến thời thơ ấu, nhớ những kỷ niệm xa xưa, cho đến năm học lớp Ba,
bao giờ mẹ tôi cũng đưa tôi đến tận lớp vào ngày tựu trường…
Cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt
tôi đọc là cuốn Tâm Hồn Cao Thượng của dịch giả Hà Mai Anh. Đó là những cuốn
sách Pháp và Việt tôi đọc đầu tiên, và là những cuốn sách hay đã xâm nhập vào
tiềm thức của tôi, để sau này dù có tạo ra được một văn phong riêng cho mình,
tôi vẫn chỉ có thể viết được những câu chuyện tình cảm nhẹ nhàng giống như
trong những cuốn sách đầu đời tôi đã đọc mà thôi…”.
“… Nếu kể cả vị thầy giáo già cả
nghèo khổ đầu tiên của đời tôi tại một ngôi nhà tồi tàn trong một xó xỉnh nào
đó của thành phố Hà Nội. Người thầy đã dậy tôi đọc và viết vần ABC trong hai
tháng ngắn ngủi trước ngày tôi di cư vào Nam năm 1954, khi đó tôi đã 8 tuổi!
Thì thầy Hà Mai Anh là vị thầy giáo thứ tư của đời tôi, thầy đã dậy tôi năm lớp
Nhì tiểu học, khi tôi 12 tuổi.
Sau khi vào Nam, việc học của tôi
lại bị gián đoạn khoảng hơn một năm. Vì bố mẹ và anh em chúng tôi cùng với ông
nội tôi phải theo gia đình chủ nhân ông đi lên Đà Lạt làm rẫy, lập trang trại.
Những sự giúp đỡ, cứu trợ của các cơ quan từ thiện và chính phủ cho người di
cư, đã được chủ nhân khéo léo nuốt trọn. Mãi đến năm 1955, khi sự tham nhũng,
lường đảo tiền cứu trợ của người di cư bị khám phá, chủ nhân ông thất thế. Gia
đình tôi mới trở về Sài Gòn, hòa nhập với đời sống bình thường của những người
nghèo khổ trong xã hội.
Lúc di chuyển về Sài Gòn, vì thấy
tuổi tôi đã lớn, ba tôi đã xin ngang cho tôi vào lớp Tư trường Tiểu Học Chí
Hòa. Nhờ đó tôi đã có một may mắn đầu tiên trong đời, năm 1967 khi lên lớp Nhì,
lớp của thầy Hà Mai Anh. Vị thầy kính yêu và cũng là vị thầy đã ảnh hưởng rất
nhiều đến bản chất, hướng đi suốt cuộc đời tôi. Có lẽ đến nay, ở cái tuổi xế
chiều, khi mà những ước muốn đã được coi là ảo vọng, dang dở, muộn màng. Khi mà
sự nồng nàn, hăng say của tuổi thanh niên đã chớm màu buồn bã. Tôi tự cảm thấy
lương tâm mình không bị ray rứt, xấu hổ với những tháng năm học hành và làm
việc của mình. Phần lớn nhờ vào những bài học Đạo Đức, cũng như lời khuyên nhủ
mà tôi đã thấm nhuần từ vị thầy kính yêu này.
Với thầy, tôi biết được ý nghĩa của
lá cờ vàng ba sọc đỏ. Lá cờ biểu tượng cho những ước mơ được phục vụ suốt đời
và được chết cho nó như một người ái quốc. Tôi cũng đã lịm người đứng nghiêm
trang kính cẩn, hát vang những câu hào hùng của bản Quốc Ca mỗi buổi sáng chào
cờ ở sân trường trước khi vào lớp học…
… Rồi với những bài học Lịch Sử,
thầy dẫn tôi vào những cảm giác ngất ngây, đầy hào khí bằng với những chiến
công vĩ đại của các vị anh hùng của quê hương. Lý Thường Kiệt phạt Tống, bình
Chiêm. Trần Hưng Đạo sau Hội Nghị Diên Hồng là bản Hịch Tướng Sĩ oai hùng sát
đuổi quân Nguyên. Rồi Nguyễn Trãi, khóc tiễn cha bên ải Nam Quan, gạt nước mắt
trở về cuộc chiến chống quân Minh với Lê Lợi. Sau 10 năm nếm mật nằm gai, ông
lưu truyền lại muôn thu bản Bình Ngô Đại Cáo. Cuối thế kỷ 18, đúng mùa Xuân Kỷ
Dậu 1789, cùng với năm Cách Mạng dân quyền tại Pháp vua Quang Trung với chiếc
áo ngự bào thấm đen thuốc súng đánh đuổi quân Thanh như lũ chuột đồng. Tất cả
những âm thanh oai hùng của Tổ quốc ngàn năm đó đã được thầy êm ả đưa vào tâm
tư non nớt của hơn 50 đứa học trò lớp Nhì hơn 40 năm về trước, chẳng bao giờ
tôi quên!
… Rồi những bài Đức Dục, Cách Trí,
Vệ Sinh, và cả trong giờ Toán với giọng nói ấm cúng hiền hòa. Thầy gọi trò bằng
con và xưng thầy (lúc đó ở miền Nam, thầy giáo gọi trò bằng em!) đã làm cho
tình thầy trò gần gũi, thân tình hơn. Hình dáng thầy cao và hơi ốm, mái tóc
muối tiêu, rẽ ngôi ở giữa trán (có lẽ lúc đó thầy khoảng trên 50 tuổi ?), da
rất trắng, nét mặt hiền hòa thân ái. Trang phục của thầy đơn sơ, luôn luôn dưới
chiếc áo sơ mi dài tay mầu trắng bỏ trong gọn ghẽ, có chiếc cà vạt lủng lẳng
trước ngực. Hình ảnh người thầy nghiêm trang đã làm cho hơn 50 đứa học trò
chúng tôi kính nể, nghe lời chỉ dạy.
Với vị thầy yêu kính này, ký ức tôi
vẫn còn ghi đậm khá nhiều kỷ niệm, mà có lẽ trọn đời tôi chẳng bao giờ quên.
Đến nay đã hơn nhiều thập niên rời xa sự dạy dỗ của thầy, tôi có cảm tưởng thầy
vẫn còn là một biểu tượng trong ký ức, làm khuôn mẫu cho tôi suy nghĩ và học
hỏi. Để dành riêng cho vị thầy muôn thuở, một nhà giáo dục gương mẫu đó. Tôi
xin đề cập đến vài chi tiết như là sự tôn vinh một người đã trọn đời tận tụy
đóng góp cho nền giáo dục của đất nước.
Thỉnh thoảng trong những giờ dậy học
liên quan đến lịch sử địa lý, thầy thường nhắc nhở học trò về đất nước Việt Nam
lấy sự phát triển nông nghiệp làm căn bản. Thầy khuyên chúng tôi nên hướng sự
học mình vào kỹ thuật và nhất là về nông nghiệp. Với hướng đó, sự đóng góp vào
quốc gia tích cực và thực tiễn nhất. Tôi không biết lời khuyên đó của thầy có
ảnh hưởng nhiều đến các bạn bè khác của lớp không. Nhưng với tôi nó đã đi vào
trí nhớ của tôi, chi phối sự ước mơ và nghề nghiệp sau này của tôi một cách quá
sâu đậm…
… Khi tôi học với thầy, hình như tác
phong trong sáng của thầy đã là chiếc chìa khóa đầu tiên mở cửa tâm hồn tôi.
Cho vào đó những lời chỉ dạy như là dòng chữ đầu tiên trong sáng! Tôi ôm ấp
những ước mơ từ đó, tôi đã hướng tất cả đis mê của đời mình vào ngành nông
nghiệp. Trong mấy chục năm làm việc ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc. Tôi cố
dành tất cả sự thông cảm và giúp đỡ cho những thành phần lao động, đói khổ dưới
quyền mình.
Tôi biết rất kỹ giá trị của sự nhọc
nhằn, của những giọt mồ hôi. Tôi chưa một lần nào có những câu nói tỏ vẻ khinh
rẻ đối với những người ít học, thua kém tôi. Rất có thể sự thông hiểu đó cũng
được đến với con người tôi, vì tôi tìm thấy trong sự cực nhọc, nghèo túng của
người khác là hình ảnh của bố mẹ và cũng chính cá nhân tôi.
Tôi còn nhớ rất rõ, trong một giờ
Đức Dục và buổi sáng. Thầy dạy chúng tôi về bài học thương người tàn tật, nghèo
khổ, và già lão. Thầy đọc cho chúng tôi nghe một truyện về lòng nhân đạo, rồi
thầy kể chuyện vua Lý Thánh Tông (1054-1072) lấy áo ngự bào đắp cho một người
ăn mày trên đường đi tuần vào một ngày mùa đông lạnh giá. Cả lớp hơn 50 đứa học
trò im lặng nghe thầy kể chuyện trong sự say mê và cảm động bởi lòng từ ái của
vị minh quân trong thời thịnh trị!…
Với những làn khói tỏa mùi thơm của
tình thầy trò, với tâm tư cảm động của những bài học xưa đã hun đúc tôi nên
người có chút khả năng và lý tưởng (dù nó chưa làm gì tạm gọi là hợp với ước mơ
của mình) Tôi xin gửi đến thầy Hà Mai Anh, người thầy mà tôi muôn đời kính nhớ
và biết ơn.” (Lưu An, Thụy Sĩ)
Ngày trước, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm mang
tâm trạng của người chinh phụ khi chồng là Nguyễn Kiều đi sứ sang Trung Hoa, vì
giặc giã, giao thông cách trơ, ngày đêm mong chờ nên đem tâm tư, tình cảm của
bà để dệt thành áng thơ bất hủ. Sau hai thế kỷ, nhà giáo Hà Mai Anh cảm nhận
được sự cao quý trong tâm hồn nên chọn tác phẩm Les Grandes Coeurs của nhà văn
Ý Edmondo De Amicis để gởi gắm niềm ước mong của mình cho tâm hồn trẻ thơ làm
hành trang vào đời.
An-Di ơi,
“Mỗi khi bất đắc dĩ cha phải phạt
con thì lòng cha đau đớn hơn con và chỉ muốn cho con sửa lỗi nên cha mới phải
làm cho con khóc”… “Lòng cha vẫn yêu con, vì con là niềm hy vọng quí báu nhất
đời của cha”… “Con nên nhớ rằng lòng hiếu thảo là một bổn phận thiêng liêng của
con người”.
Công cha, nghĩa mẹ muôn đời còn ghi.