Sân trường nhà thờ Thánh Tâm vang lên những tiếng nói cười,
la hét rộn rã của các em nhỏ vừa học xong các lớp Việt ngữ cuối tuần. Tôi loay
hoay thu xếp sách vở và bước ra ngoài cùng với các em. Vừa ra đến cửa lớp thì
tôi cũng thấy cô Thư Hương, hiệu trưởng của trung tâm Việt ngữ Thánh Tâm bước đến.
Chúng tôi cười nhẹ và chào nhau bằng ánh mắt. Không ai bảo ai, cô Thư Hương và
tôi cùng bước đi song song, mắt nhìn chừng các em học sinh đang vừa nô giỡn, vừa
xem chừng cha mẹ mình đến chưa.
Đến một chiếc ghế đá trống bên cạnh nhà thờ, cô Thư Hương bảo:
- Thầy Chính ngồi xuống đây một chút. Bây giờ là lúc chúng
ta có quyền nghỉ ngơi trong một thời gian, phải không thầy?
Tôi mỉm cười ngồi xuống, mắt vẫn nhìn các em học sinh. Cô
Thư Hương ngồi xuống bên tôi. Tiếng nói cười của các em nhỏ dần theo từng chiếc
xe của cha mẹ đang chở các em rời bãi đậu xe, trở về với những sinh hoạt riêng
của gia đình. Cuối cùng, khu nhà thờ trở lại êm ắng dưới ánh nắng vẫn còn gay gắt
của buổi trưa.
Cô Thư Hương nói:
- Vậy là lại kết thúc một niên học rồi! Tuần sau chúng ta sẽ
làm lễ mãn khoá và phát phần thưởng cho các em. Mới đó mà thầy Chính đã dạy ở
đây được hai năm. Mau quá thầy hả? Cám ơn thầy đã giúp chúng tôi trong thời
gian qua nhé!
Tôi nhún nhường đáp:
- Dạ, có gì đâu ạ. Tôi phải cám ơn cô đã cho tôi cơ hội được
dạy ở đây mới phải chứ. Tôi rất vui được có dịp đóng góp vào công việc chung
này, cô Hương à.
Cô Thư Hương hỏi:
- Thầy mới vào dạy ở đây thôi, nhưng hình như thầy qua Mỹ
cũng khá lâu rồi phải không?
- Dạ, mới đó mà cũng được tám năm rồi đó cô. Chúng tôi phải
lo đi học lại, kiếm việc làm, ổn định cuộc sống rồi mới có thể bắt đầu sinh hoạt
cộng đồng như bây giờ.
Cô Thư Hương cười nhẹ:
- Ai thì cũng vậy thôi. Thế thì bây giờ gia đình thầy cũng
vui vẻ rồi, rồi còn giúp việc chung như thế này là quý hoá lắm còn gì!
Vui vẻ? Tôi thầm nhủ. Cô Thư Hương nói đúng, nhưng chỉ một
phần thôi. Tự dưng lời nói của cô và bầu không khí của một sân trường ngày cuối
khoá đã gợi lại cho tôi, thật nhanh, những hình ảnh quá khứ khi tôi còn ở Việt
nam. Tất cả loé sáng lên như một khúc phim với đầy đủ những chi tiết nhỏ nhặt
chưa thể phai mờ.
***
Cuối năm 1981, lúc thiên hạ đang tất bật sắm Tết âm lịch lại là lúc cuộc sống của
tôi đi vào khúc quanh buồn thảm nhất. Tin về chuyến tàu vượt biên của Hoàng lan
đã bị mất tích đưa đến cho tôi như một bản án khắc nghiệt và lạnh lùng. Đêm đưa
ông Táo về trời, Hoàng Lan đến chia tay tôi. Tôi phải gắng giữ thái độ thật
bình thản để Hoàng Lan can đảm đi. Nàng cố giấu những giọt nước mắt, nói rằng
vì gia đình mà phải rời xa tôi. Hoàng Lan nói:
- Anh có nghĩ là sẽ có một dịp nào đó anh cũng có cơ hội vượt
biên để chúng mình còn gặp lại nhau không?
Tôi cười buồn:
- Dịp nào mà dịp? Gia đình anh lo ngày hai bữa chưa xong,
còn dám nghĩ đến chuyện gì khác.
Nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Hoàng Lan, tôi an ủi nàng:
- Em cứ yên tâm mà đi. Cầu xin ơn trên che chở cho em
và gia đình vượt thoát bình an. Anh rất tin tưởng nơi số mệnh. Nếu hai đứa mình
thật có duyên nợ với nhau thì anh nghĩ dù ở chân trời góc bể nào mình cũng sẽ
tìm lại nhau mà.
Thế rồi Hoàng Lan ra đi. Còn tôi ở lại, trong bầu trời rộn
ràng của mùa xuân sắp đến. Cuộc sống hằng ngày đã khốn khổ, giờ tôi còn
vương thêm một nỗi buồn mênh mang không cùng. Sầu nước, buồn nhà, thương thân,
tôi chả thiết làm gì nữa.
Tôi chỉ còn biết một điều duy nhất là cầu nguyện cho Hoàng
Lan và gia đình vượt qua những hiểm nguy của biển cả để đến bến bờ tự do. Ngày
nào tôi cũng đạp xe ngang nhà người có dính líu đến tổ chức vượt biên để ngóng
tin, nhưng lần nào cũng thất vọng nhận được cái lắc đầu kín đáo, nhè nhẹ của
người đàn bà ngồi trên chiếc xích đu gần ngõ.
Một tháng, rồi hai tháng, rồi năm, sáu tháng, chuyến tàu của
Hoàng Lan vẫn biệt vô âm tín. Nỗi buồn của tôi bây giờ đã bị thay thế bằng một
nỗi lo sợ lẫn tuyệt vọng. Tôi lén tiếp xúc với người trong căn nhà đó và được họ
cho biết rằng người ra đi có hứa là sẽ liên lạc ngay khi đến một trong những trại
tị nạn ở Đông Nam Á. Thời gian đã quá lâu rồi mà không có tin tức đưa về, ắt là
có sự chẳng lành. Tôi thẫn thờ quay về. Đi ngang đường biển lộng gió chiều, tôi
dừng lại, chầm chậm dắt chiếc xe đạp xuống bãi cát. Tôi để chiếc xe nằm xuống
bãi, ngồi bó gối nhìn mãi ra tít ngoài khơi. Biển xanh màu rờn rợn. Biển mở rộng
ra đến mãi tận nơi nào. Biển cả đã làm gì Hoàng Lan của tôi?
Ngày Hoàng Lan ra đi, tôi đã mất nàng một lần. Bây giờ, nếu
có gì xảy đến cho Hoàng Lan, tôi phải mất nàng lần thứ hai hay sao? Gió biển hắt
vào mặt tôi, mang hương vị của trùng dương thơm mát. Tôi liếm môi, nghe vị mằn
mặn. Đó là vị mặn của đại dương hay vị mặn của một giọt nước mắt nào vừa lăn xuống?
Rồi thời gian trôi qua. Nỗi buồn trong tôi hoá thân thành những
hình thù khác nhau, ăn mòn, gậm nhấm con người tôi. Cuối cùng, nỗi buồn trở
thành một phần câm nín, sâu kín trong hồn tôi. Tôi tiếp tục sống, tiếp tục những
công việc tẻ nhạt thường ngày. Xin được vào thư viện thành phố, tôi trở thành
quản thủ thư viện trong phòng đọc sách ngoại ngữ. Những cuốn sách trở thành những
người bạn thân im lặng của tôi, vỗ về tôi, thì thầm với tôi trong không khí êm ả,
lặng lờ của thư viện. Thoạt đầu những người đến đọc sách đối với tôi như những
chiếc bóng mờ. Họ đến hỏi tôi về cuốn sách này, cuốn tạp chí nọ. Rồi họ
ngồi đọc lặng lẽ ở bàn hay mượn mang về nhà. Có lẽ đối với họ, tôi cũng chỉ là
một cái bóng. Tôi trả lời những câu hỏi của họ, đầy đủ, nhẹ nhàng và lịch sự,
và không thêm một chút gì vào những câu trả lời đó nữa. Thái độ chừng mực của
tôi dường như dựng nên một bức tường vô hình giữa tôi và họ nên cũng chả ai muốn
phá vỡ đi làm gì.
Nhưng cũng có vài chiếc bóng xuất hiện đều đặn hơn những chiếc
bóng khác. Và có một chiếc bóng xuất hiện đều đặn nhất. Chiếc bóng này luôn
luôn đến vào mỗi chiều thứ Sáu, không thật đúng vào một giờ giấc nào, nhưng thường
là lúc chiều nhạt nắng. Chiếc bóng thích đọc những tạp chí tiếng Pháp và luôn
luôn ngồi sát dãy lan can nhìn xuống tầng một. Chiếc bóng đó xuất hiện đều đặn
đến nỗi từ từ nó đã biến thành con người bằng xương bằng thịt, làm cho tôi bắt
đầu chú ý đến. Đó là một cô gái độ hai mươi, hai mươi mấy tuổi. Nàng chỉ
đọc tạp chí hay sách tiếng Pháp chứ không đọc thứ tiếng nào khác, mặc dù trong
phòng đọc ngoại ngữ của tôi còn có đủ loại tạp chí, sách báo tiếng Anh, tiếng Đức,
tiếng Nga tiếng Tây Ban Nha, v.v. Mỗi chiếc bóng đến thư viện đều có một cái
tên, nhưng tôi không nhớ hết. Nhưng từ khi chiếc bóng độc đáo này đã hoá thành
thật, tên nàng bắt đầu ghi vào trí nhớ của tôi. Khi nàng chìa thẻ thư viện cho
tôi xem, tôi đọc thấy tên nàng: Hồng Liên. Bỗng dưng tôi liên tưởng đến
tên của Hoàng Lan.
Tôi lặng lẽ đưa cho nàng cuốn tạp chí Paris Match số mới nhất.
Nàng lại đến ngồi đọc ở chỗ thường lệ. Từ lúc ấy, tôi cứ lan man nghĩ đến hai
cái tên. Thật là một trùng hợp ngộ nghĩnh. Hai cái tên có hai chữ đầu giống
nhau, chữ đầu mang dấu huyền và chữ sau cũng không dấu, và đều là tên của hai
loài hoa. Quả thực chính “chiếc bóng” không làm tôi chú ý bằng cái tên của
nàng. Hồng Liên cũng trầm lặng như tôi, có vẻ như chìm đắm vào một thế giới nào
khác hơn cái thư viện lặng lẽ này. Tôi cũng muốn tôn trọng sự riêng tư đó của
nàng, cũng như nàng và các độc giả khác lâu nay vẫn luôn tôn trọng thế giới
riêng của tôi. Vì vậy, ngoài việc nàng đã từ một chiếc bóng hoá ra thành người
thật có tên tuổi hẳn hòi, không có gì khác lạ xảy ra trong phòng ngoại ngữ này
cả.
Cho đến một hôm, một trong hai người đã phá vỡ bức tường vô
hình đó. Hồng Liên cầm tờ Paris Match quen thuộc đến bàn tôi ngồi và hỏi:
-
Xin lỗi anh, anh biết tiếng Nga phải không? Tôi đang đọc bài báo này, có một chữ
phiên âm từ tiếng Nga mà không hiểu được. Nhờ anh giúp nhé.
Không hiểu sao, đó là lần đầu tiên từ khi vào làm ở thư viện,
tôi đâm ra nhiều lời hơn thường lệ trong câu trả lời của mình. Tôi mỉm cười
nói:
-
Tôi phải biết tiếng Nga chứ cô, vì đó là điều kiện để được vào làm ở phòng đọc
ngoại ngữ này mà.
Hình như Hồng Liên không để ý đến câu nói mà thể bị hiểu là
khoe khoang của tôi. Nàng thản nhiên mở đến trang báo có bài đang đọc, đưa cho
tôi xem. Tôi ghé nhìn vào rồi từ tốn trả lời:
-
À, chữ glasnost này là một chữ Nga cũ mà ông Gorbachev dùng với ý nghĩa mới là
“công khai, minh bạch” cô ạ.
Tôi định hỏi Hồng Liên là nàng học tiếng Pháp ở đâu, thì Hồng
Liên đã nói cám ơn tôi và trở về chỗ cũ. Tôi có thể hỏi với theo nàng được,
nhưng nghĩ sao lại thôi. Trong lòng tôi tự dưng vẫn còn cảm giác khó chịu vì
không hiểu tại sao mình lại có thể phản bội cái chính sách làm thinh của mình từ
bấy lâu nay mà nhiều lời, ba hoa như vậy. Đáng lẽ khi được hỏi, tôi chỉ cần xác
định là đủ rồi. Tôi buồn rầu sửa lại thế ngồi, tiếp tục chìm đắm vào thế
giới riêng của mình, trong lúc những chiếc bóng tiếp tục đến, đi, qua lại trước
mặt tôi, cũng lặng lẽ rời những cuốn sách, những bàn ghế và toà nhà thư viện im
lìm để ra về trong nắng chiều đã nhạt nhoà.
Chiều thứ Sáu lại đến. Hình như tôi có chờ đợi một điều gì.
Hình như tôi có chờ đợi một ai. Và hình như tôi không muốn xác nhận cảm giác
đó. Nhưng tất cả đều vô nghĩa. Nắng chiều đã yếu ớt lắm rồi, mà Hồng Liên vẫn
chưa tới. Rồi đến giờ thư viện đóng cửa, vậy là Hồng Liên không tới. Lần đầu
tiên từ bao năm nay, kể từ lúc Hoàng Lan bỏ tôi đi, tôi mới bắt gặp lại cảm xúc
mang mang, mơ hồ khó diễn tả như dạo ngày xưa còn yêu nàng. Tôi cố gắng không
nhận diện cảm xúc đó, vì tôi thấy như có điều gì như “tội lỗi” đối với Hoàng
Lan. Tội lỗi? Nhưng không phải là Hoàng Lan đã … hay sao? Tôi cũng không
dám nghĩ ra lời về những gì đã có thể xảy ra cho nàng. Suốt đời tôi chạy
trốn ngôn ngữ. Suốt đời tôi trốn chạy cảm xúc. Suốt đời tôi trốn chạy chính
tôi.
Ba tuần liên tiếp, Hồng Liên không đến đọc tạp chí. Lạ kỳ là
lúc nàng vắng mặt, hình ảnh của nàng lại đậm nét trong tôi hơn bao giờ hết. Bây
giờ thì tôi chẳng xa lạ gì với cảm xúc này nữa. Tôi đã có cảm xúc này từ lúc bắt
đầu yêu Hoàng Lan ngày xưa. Nhưng tôi cũng tự hỏi là cảm xúc rất riêng tư này của
tôi sẽ đi đến đâu, vì Hồng Liên đã bao nhiêu ngày không đến, mà tôi thì còn mãi
nơi cái thư viện cũng im ắng không khác gì ở một tu viện. Sang đến tuần thứ tư
thì Hồng Liên trở lại. Lần này nàng có vẻ vui hơn mọi bận. Và lần này tôi
quyết định làm người bắt chuyện trước:
-
Sao mấy tuần nay không thấy cô đến? Tờ Paris Match vẫn chờ cô đó!
Hồng Liên vui vẻ trả lời:
-
À, Liên và gia đình vào Sài Gòn để được phỏng vấn chờ đi Mỹ anh ạ. Sẵn dịp cả
nhà ở đó chơi, thăm bà con luôn.
Tôi có cảm giác hụt hẫng y như hôm hăm ba tháng chạp. Hoàng
Lan đến từ giã tôi ra đi. Sao cái số tôi động đến ai là người đó ra đi hết vậy?
Sao đất nước này cứ lần lượt nhìn bao nhiêu người ra đi hết vậy? Nhưng không
sao, tôi đã quen với nỗi niềm này quá rồi. Tôi chỉ tiếc sao mình không giữ được
sự xa cách như bấy lâu nay. Nhưng chính Hồng Liên đã phá vỡ trước mà!
Hình như Hồng Liên đã quá quen với sự im lìm cố hữu của tôi
nên nàng không thể đoán được tôi đang có tâm trạng như thế nào. Nàng tiếp tục hồn
nhiên nói:
-
Vậy là Liên phải bắt đầu học tiếng Anh rồi. Qua Mỹ chắc chẳng ai dùng đến
tiếng Pháp, phải không anh?
Tôi ngập ngừng nói lời chúc mừng nàng, và thêm vào rằng với
vốn liếng tiếng Pháp sẵn có, nàng sẽ học tiếng Anh rất nhanh. Rồi tôi trở về
bàn làm việc, về với công việc quen thuộc hằng ngày của một thủ thư, về với cuộc
sống âm thầm, trầm lặng của chính mình.
Một hôm, Hồng Liên đưa cho tôi mẩu giấy có ghi địa chỉ thân
nhân của nàng bên Cali và nói:
-
Khi qua đó, ổn định cuộc sống rồi Liên sẽ viết thư thăm anh. Nhưng anh cứ cầm lấy
địa chỉ này, biết đâu!
Biết đâu thật. Hồng Liên chưa kịp đi, thì tình cờ vài
tuần sau đó tôi được gia đình một người bạn rủ đi vượt biên, mà đặc biệt là đi
không tốn tiền!
Anh bạn tôi bảo:
-
Ba má tao coi mày cũng như con trong nhà vậy. Hai ông bà thương và hiểu
hoàn cảnh gia đình mày lắm. Nhà tao cho mày đi cũng có cái lợi là nhờ được cái
tài sinh ngữ của mày. Nếu gặp tàu Mỹ vớt thì mình trúng số, may tha hồ
làm thông dịch viên cho tao và cả nhà. Còn lỡ bị tàu Liên Xô vớt nhầm thì
mày nói là tụi mình lạy nó, xin nó thả!
Chuyến đi của chúng tôi vô cùng êm thắm. Không có tàu nào vớt
hết, Mỹ cũng như Nga. Ghe đi sáu ngày đêm, cuối cùng tấp vào bờ biển của thành
phố Puerto Princesa, thuộc đảo Palawan của Philippines. Tôi như chim sổ lồng,
như diều gặp gió. Cả ngày trong trại tị nạn, tôi tham gia vào thật nhiều công
tác thiện nguyện của trại. Buổi sáng, tôi dạy tiếng Anh cho đồng bào ở trường
các bà xơ. Buổi trưa tôi làm thông dịch viên ở văn phòng Counseling do một bà Mỹ
phái Tin Lành phụ trách. Buổi chiều tôi lại lên văn phòng Cao ủy tỵ nạn để
thông dịch cho các phái đoàn đến phỏng vấn đồng bào. Chưa hết, tôi cùng một số
bạn bè mới quen làm một tờ tập san cho cả trại. Bao nhiêu năm kẹt lại với cộng
sản, chưa bao giờ tôi được nói, được viết những gì muốn nói, muốn viết. Giờ đây
tôi hăng say sáng tác, ngày đêm cọc cạch đánh máy, cùng các bạn trong ban biên
tập cho ra đời tờ tập san đầu tiên của trại, mà thời đó vẫn còn dùng kỹ thuật roneo
cổ điển! Trong lúc những người trong trại thấy thời gian chờ đợi định cư sao mà
lâu lăng lắc, tôi lại quá đam mê với nhiều công việc nên chẳng buồn để ý đến thời
gian. Tôi làm việc tận tuỵ và bình thản, đến nỗi bà trưởng phái đoàn Mỹ mà tôi
làm thông dịch một hôm phải hỏi:
-
Chính này, sao tôi thấy người tị nạn nào ở đây cũng náo nức muốn đi định cư sớm,
còn anh sao lại có vẻ thản nhiên đến độ dửng dưng vậy? Anh làm việc với tôi, lẽ
ra anh cũng có quyền thắc mắc là hồ sơ của anh đã đi đến đâu rồi chứ!
Tôi cười trả lời bà:
-
Nếu bà không thấy được vẻ náo nức của tôi thì chắc là trời ban cho tôi có tài
che giấu cảm xúc đó thôi. Vả lại, tôi cũng nghĩ rằng nôn nóng hay không thì
cũng vậy, chẳng làm cho công việc đi mau hơn chút nào.
Tám tháng sau, tôi được phái đoàn Mỹ nhận và được chuyển tiếp
lên trại Bataan. Tại đây, tôi làm phụ giáo trong một lớp hướng dẫn văn hoá cho
đồng bào để chuẩn bị qua Mỹ. Những người cùng trại nói đùa với nhau là, đến
Bataan là đã “thấy được nước Mỹ mờ mờ” rồi đó! Cuộc sống ở Bataan, quả thật, tiện
nghi hơn so với trại tỵ nạn Palawan, có nề nếp hơn, gần gũi hơn với cuộc sống Mỹ
mà chúng tôi được giới thiệu qua những bài học về văn hoá Hoa Kỳ.
Một hôm, đang đi lang thang trong trại để hóng mát sau giờ học,
tôi ngỡ mình nhìn nhầm ai khác. Nhưng không, đó là Hồng Liên bằng xương bằng thịt
đang đứng trước mặt tôi. Người ngạc nhiên hơn chính là Hồng Liên. Nàng kêu lên:
-
Anh Chính! Sao anh lại ở đây? Liên không thấy anh làm ở thư viện nữa, cũng
hơi nghi nghi là anh vượt biên, nhưng mà …
Tôi cũng vui không kém:
-
Tôi cũng không ngờ mình đi được nữa, Hồng Liên à! Mà lại đi trước Hồng Liên nữa
chứ!
Hồng Liên liến thoắng nói:
-
Nhà Liên đã có danh sách tuần sau đi rồi. Còn anh thì sao? Anh qua Mỹ ở đâu? Ai
bảo lãnh anh?
Tôi bật cười:
-
Hồng Liên hỏi tới tấp còn hơn phái đoàn JVA phỏng vấn nữa. Đây, xin trả lời từng
câu một: Tôi chưa có danh sách rời trại. Qua Mỹ tôi sẽ đến Cali. Tôi thuộc diện
mồ côi được nhà thờ bảo trợ. Sao? Tôi trả lời như vậy có đậu phỏng vấn không hở
cô?
Hồng Liên nói như reo:
-
Vậy là mình sẽ gặp nhau ở Cali nhé!
Tự lúc nào, sự ngăn cách im lặng như ngày nào ở thư viện
không còn nữa. Có lẽ không khí tha hương đã làm cho chúng tôi thay đổi, trút bỏ
lớp vỏ lạnh lùng ngày xưa khi còn ở quê nhà, ngột ngạt và buồn bã. Những ngày
sau đó, tôi thường gặp Hồng Liên sau giờ học. Cả hai đến quán cà-phê trong trại,
nhâm nhi món halo halo của người Phi, nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Những
đêm trời Bataan mát dịu sau một ngày nóng bức, chúng tôi cùng thả bộ trên những
con đường đất đỏ trong trại, hay ngồi bệt xuống bãi cỏ, nhìn trời sao vằng vặc,
nói chuyện hoài không hết. Tuần sau, gia đình Hồng Liên rời trại đi Mỹ.
Ra tiễn Hồng Liên ở bến xe buýt, lần đầu tiên tôi mới thấy cảnh chia tay mà
không buồn bã. Hồng Liên rất vui mà tôi cũng vui, vì cùng biết là sẽ gặp nhau ở
xứ Cali nắng ấm một ngày rất gần.
Sáu tháng ở trại chuyển tiếp trôi qua chóng vánh đối với
tôi. Ngay hôm đưa Hồng Liên đi Manila, ra về tôi cũng vừa dò thấy tên mình trên
danh sách ra đi. Cũng như Hồng Liên, mười ngày sau đó tôi đáp máy bay lên thủ
đô Manila, và từ đó bay qua phi trường Narita của Nhật, rồi cuối cùng đến được
bến bờ của tự do, giấc mộng lớn của tôi đã thành sự thật. Chỉ sau vài
ngày tạm ổn định chỗ ở do nhà thờ bảo trợ lo chu đáo, tôi đã tìm lại Hồng Liên ở
cách tôi một thành phố. Rồi những gì xảy ra sau đó chỉ như một nối tiếp êm đềm,
xuôi chảy giữa tôi và Hồng Liên, tựa như hai người chúng tôi đã quen nhau, thân
nhau từ lâu lắm rồi. Hai chúng tôi cùng nương tựa nhau trong những ngày đầu
tiên trên xứ người. Cả hai cùng ghi tên học một trường đại học trong
vùng, rồi chuyển tiếp lên hệ đại học bốn năm. Hồng Liên học môn văn chương
Pháp, không ngờ là ở Mỹ người ta vẫn có ngành này. Còn tôi cũng vào đại học
ngành thư viện với ước muốn tiếp tục công việc ngày xưa ở Việt Nam. Đối với Hồng
Liên, mọi việc diễn ra như ước muốn cũng là một điều tự nhiên, vì từ bé đến lớn
cuộc sống của nàng vẫn êm xuôi như thế. Tuy nhiên, với tôi, cuộc sống mới thật
là một hồng ân, so với những ngày tôi và gia đình lận đận ở quê nhà. Gia đình Hồng
Liên đã qua đây cả, nên Hồng Liên chỉ phải lo một điều là học hành cho giỏi.
Còn tôi vừa đi học, vừa phải đi làm để có tiền gởi về giúp gia đình. Nhưng như
vậy là quá sung sướng đối với tôi rồi. Thế rồi sau những ngày cặm cụi
sách đèn, cuối cùng hai đứa chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học. Hồng Liên xong
trước, học thêm chứng chỉ sư phạm rồi xin được một chỗ dạy tiếng Pháp toàn thời
gian ở một trường trung học trong vùng. Tôi ra trường sau Hồng Liên một năm, lận
đận hơn, chỉ xin được hai việc bán thời gian ở hai thư viện khác nhau. Nhưng
tôi không còn mơ ước gì hơn thế nữa.
Rồi chúng tôi cưới nhau. Sau một thời gian dành dụm, chúng tôi
mua được một căn nhà nho nhỏ, với một mảnh vườn xinh xắn sau nhà. Như vậy cũng
hay, hạnh phúc nho nhỏ dễ nắm giữ hơn những niềm vui to tát. Rồi những đứa bé
xinh xinh ra đời. Chúng tôi được hai cháu. Cháu đầu là gái, cháu sau là thằng
cu tí. Các cụ bảo vậy là có nếp có tẻ rồi. Tôi thì có con nào cũng mừng như
nhau. Trai mà chi, gái mà chi. Con nào có nghĩa có có nghì thì hơn. Dẫu
sao có một thằng bé trong nhà cũng rộn ràng hơn nhiều. Các cháu lớn như thổi,
thấm thoát cháu lớn đã đến tuổi đi học. Chúng tôi muốn con học chừng một hai
năm cho vững tiếng Anh một tí, sau đó sẽ cho cháu đi học Việt ngữ để khỏi lẫn lộn
hai thứ tiếng.
Lần đầu đưa con đến nhà thờ học Việt ngữ, tôi thầm cảm phục
các thầy cô giáo dạy thiện nguyện cuối tuần cho những cháu bé như con tôi. Các
thầy cô cũng bận như tôi mà sao lại có thể hy sinh thời giờ để dạy dỗ các cháu
được như vậy? Từ chỗ cảm phục, tôi đi đến cảm giác hổ thẹn mỗi lần thả con vào
trường, mặc cho các thầy cô dạy dỗ, rồi mình đi công việc của mình, hết giờ ghé
qua đón con về. Nói theo kiểu Mỹ, để tình trạng như vậy mà chịu được thì không
có “fair” tí nào! Tôi bàn với Hồng Liên là tôi sẽ xin đi dạy Việt ngữ, chứ
không thể làm ngơ được. Hồng Liên bảo:
-
Anh nghĩ rất đúng. Anh cứ xin dạy đi. Phần em thì cả tuần đã đứng
trước lớp rồi, nói thật cuối tuần mà còn phải tiếp tục gõ đầu trẻ nữa, em ngại
lắm! Nhưng em sẽ phụ anh soạn bài, chấm bài nếu cần. Hay mỗi khi trường
có sinh hoạt gì như văn nghệ, nấu nướng thì em sẽ xin phụ giúp.
Vậy là tôi đến nhà thờ xin dạy học. Vừa lúc nghỉ hè, có khoá
tu nghiệp sư phạm do một nhóm các nhà giáo dục ở địa phương tổ chức, nhà thờ gởi
tôi đi dự những lớp thiết thực về cách dạy Việt ngữ theo lối sống và tâm lý của
trẻ em Việt ở nước ngoài. Khi khoá học đầu tiên ở nhà thờ bắt đầu, tôi đã bị cuốn
hút ngay vào công việc. Lúc trước, tôi chỉ biết là mình mê hai đứa con của mình
lắm, nhưng bây giờ tôi mới khám phá ra rằng tôi rất mê con nít. Nhìn các em học,
ca hát, vui đùa, tôi thấy thương chi lạ. Và bây giờ tôi cũng mới khám phá thêm
một điều nữa là quả thật làm thầy cô đôi khi cũng có chút thiên vị. Tuy bảo rằng
thương các em đồng đều, tôi vẫn thấy mình có phần để ý một hai em nổi bật trong
lớp. Thương các em đó hơn các em khác một chút thôi!
Qua niên học thứ nhì, tôi đã quen với hơn công việc, với học
trò của mình. Năm nay các em học sinh mới của tôi dường như nói tiếng Việt yếu
hơn các em năm ngoái. Vậy là tôi phải dạy cực hơn một chút. Năm nay học trò
“pet” của tôi, nói theo kiểu Mỹ, là cháu Jessica. Cô bé này có mái tóc bum-bê,
hai mắt tròn xoe và đen láy, má núng đồng tiền, da lại trắng mịn, trông giống
con búp-bê Nhật Bản. Đặc biệt đôi mắt đen láy của Jessica có một màu đen huyền
khá lạ mà mỗi lần nhìn vào tôi lại thấy có một cảm giác gần gũi khác thường.
Jessica là học trò cưng của tôi, không những vì xinh xắn mà học cũng giỏi
nữa. Cô bé có cách nói âm “đờ” hơi đớt đớt, nghe thật dễ thương. Nói chung,
nghe các em phát âm ngây ngô kiểu trẻ con là lúc nào tôi cũng cảm thấy thích
thú chẳng riêng gì cô học trò cưng của tôi. Nói vậy chứ tôi không hề tỏ ra
thiên vị Jessica chút nào trước mặt cả lớp. Tôi muốn các em thật hồn nhiên, đón
nhận sự chăm sóc và tình thương đồng đều của thầy cô giáo.
Năm học thứ nhì rồi cũng trôi qua chóng vánh. Nhà thờ tổ chức
một buổi phát phần thưởng cho các em. Có cả phần văn nghệ và ăn uống cuối năm.
Hồng Liên giữ lời hứa, đến phụ giúp nấu nướng và phân chia các phần ăn, thức uống
cho mọi người. Một số thầy cô tham gia giúp vui trong phần văn nghệ. Những bài
ca quen thuộc ngày xưa làm tôi bồi hồi, gợi nhớ đến những ngày tháng thanh bình
ở quê nhà năm cũ. Tôi đưa học trò giỏi của lớp tôi vào hàng ghế ngồi để chờ
lãnh phần thưởng. Tất nhiên là Jessica có mặt trong số đó. Các em lần lượt bước
lên sân khấu, nhận những phần thưởng bọc trong giấy bóng kính đủ màu, lí nhí
nói lời cám ơn, rồi hớn hở đem quà xuống chỗ ngồi. Tôi vuốt tóc từng em để
khen, nhưng chưa tới Jessica thì cô bé đã vụt ôm phần thưởng chạy vụt ra ngoài
hội trường, chắc là đón bố mẹ đến trễ. Tôi đi theo cô bé, cũng muốn chào vị phụ
huynh của cô học trò cưng mà lâu nay chưa có dịp gặp mặt. Nhưng kìa, người đàn
bà chìa tay ra cho Jessica nắm, sao mà giống… Người đàn bà ngước lên nhìn tôi,
cũng thoáng giật mình:
-
Xin lỗi, thầy … thầy dạy cháu Jessica ạ?
Tôi nghe giọng nói mình lạc đi:
-
Thưa bà, bà có phải là … Hoàng Lan không? Nhưng mà…
Người đàn bà nghẹn ngào:
-
Thầy … anh Chính! Em là Hoàng Lan đây!
Jessica nắm chặt tay mẹ, ngoảnh lại nhìn thầy, rồi lại nhìn
mẹ. Tôi run run nói:
-
Tôi nghe nói chuyến đi của Hoàng Lan gặp nạn, không ngờ...
Hoàng Lan đã lấy lại được chút bình tĩnh. Nàng vừa vân
vê tà áo vừa kể lể:
-
Em thoát chết trong chuyến đi đó, anh ạ. Nhưng cả nhà em và hầu hết mọi người
đã không thoát nổi. Cả chuyến tàu em đi chỉ còn có ba người con gái sống sót
sau cơn bão mà thôi. Hai người kia cũng mất cả gia đình nên tụi em không còn ai
để liên lạc, mà cũng chẳng có địa chỉ của trên tàu để báo về nhà nữa. Tụi em được
cứu và đưa vào đảo Nouvelle-Calédonie, đau khổ và chán đời quá em chẳng còn thiết
gì liên lạc với anh nữa. Không ngờ... cuối cùng anh cũng đã đi được, và lại là
thầy của Jessica! Lâu nay nhà em đi đón cháu, hôm nay anh ấy bận nên em mới
thay thế…
Tôi vuốt mái tóc của Jessica để dằn cơn xúc động:
-
Bao nhiêu năm rồi, anh cứ tưởng em đã chết. Đến bây giờ anh mới nói được chữ đó
vì em đang đứng trước mặt anh đây. Trời đất ơi, bây giờ mình gặp lại nhau thì
chắc mỗi đứa có cả ngàn câu hỏi cho nhau. Hoàng Lan biết không? Chắc là linh
tính hay sao mà anh để ý và thương Jessica một cách đặc biệt. Cháu ngoan và giỏi
lắm em à!
Hoàng Lan hỏi:
-
Anh cũng có gia đình rồi phải không? Chị ấy là ai vậy? Em có biết không?
Tôi ngượng ngùng chỉ vào trong:
-
Vợ anh đang phân phát thức ăn bên trong đó. Em không biết cô ấy đâu. Chút nữa
anh sẽ giới thiệu em với cô ấy.
Tôi nhìn chằm chằm vào mặt Hoàng Lan để dò phản ứng:
-
Anh xin lỗi em. Mọi chuyện xảy ra đã lâu quá rồi, anh không còn hy vọng gì nữa.
Hoàng Lan cười buồn:
-
Chính em còn nghĩ là em đã chết, huống hồ là anh hay ai khác.
Nàng đỡ gói phần thưởng trên tay Jessica, bảo con:
-
Con chào thầy mình đi về, và cám ơn thầy đã dạy con học tiếng Việt!
Jessica nghe lời mẹ, chào và cám ơn tôi bằng giọng ngọng nghịu,
dễ thương của nó. Tôi lại vuốt đầu cô bé:
-
Thầy cũng cám ơn con chăm học và ngoan nhé. Sang năm thầy không dạy con nữa,
nhưng nhất định là vẫn gặp Jessica hoài, phải không?
Hoàng Lan đỡ lời cho con:
-
Hôm nay em định đến chào thầy của cháu và xin thầy cho cháu nghỉ học luôn, hoá
ra thầy giáo lại là anh.
Tôi hoảng hốt:
-
Nghỉ học luôn à? Tại sao?
Hoàng Lan khẽ đáp:
-
Chồng em vừa xin được việc làm mới ở trên San Jose nên gia đình em sẽ dọn lên
trên đó. Thôi chào anh nhé, hy vọng có dịp nào sẽ gặp lại anh.
Hoàng Lan dắt tay con ra bãi đậu xe. Tôi đứng nhìn theo. Hệt
như buổi chiều hăm ba tháng chạp năm nào, tôi đã đứng nhìn theo Hoàng Lan khuất
trong bóng chiều. Tôi mất Hoàng Lan đến lần thứ ba rồi.
Tôi quay trở lại hội trường. Tiếng nhạc xập xình, tiếng
micro vang vang xướng tên các em học sinh giỏi, tiếng nói cười rôm rả của mọi
người, tất cả quyện vào nhau như một thứ âm thanh quánh đặc quanh tôi. Hồng
Liên ở đâu đi đến, hỏi dồn dập:
-
Cô hiệu trưởng đang tìm anh kìa! Anh đi ra ngoài làm gì vậy?
Thốt nhiên, tôi cầm lấy tay Hồng Liên, lặng người đi một
thoáng, và chưa biết bắt đầu câu chuyện như thế nào.
Trần C. Trí