“Em gầy như liễu trong thơ cổ
Anh bỏ truòng thi lúc thịnh Đường”
Nguyên Sa
Mỗi lần nhớ lại NhaTrang, tôi nhớ con đường Alexandre De
Rhodes đượm mùi hoa sứ, có bóng mát và tiếng sóng rì rào của biển, con đường
đưa tôi đến trường Kim Yến hàng ngày. Mỗi lần nhớ lại NhaTrang, tôi nhớ Doãn,
người bạn cùng lớp, một gã thư sinh đam mê văn chương, triết học và âm nhạc.
Doãn mang đôi kính cận dày cộm, một thoáng Doãn trông giống Jean Paul Satre.
Doãn rất đam mê đàn dương cầm và một chút tham lam tình yêu...
Mỗi lần nhớ lai NhaTrang, tôi nhớ Phương Dung, người con gái đẹp thôn Phú Vinh ngọai ô phía Tây thành phố NhaTrang, người nữ sinh trường Kim Yến có dáng đi e ấp, mái tóc frisé, thả lơi lã trên hai bờ vai, có đôi mắt đen lánh đẹp và buồn. Phương Dung vừa khiêm tốn vừa sang trọng, quí phái nhưng không hờ hửng với thế giới chung quanh mình. Phương Dung đã làm điêu đứng biết bao chàng trai của thành phố biển này trong đó có Doãn. Năm 1957, Doãn yêu Phương Dung tha thiết và chỉ mong một lần cầm được tay nàng, nhưng vẫn bị Phương Dung từ chối. Doãn biến thành gã si tình. Sau này mỗi khi nhớ lại Phương Dung, Doãn ôm lấy cây đàn dương cầm và thả hồn minh trong những tình khúc cổ điển Tây phương Romance của Robert Schuman, Eva Maria của Franz Schubert. Doãn thường ngợi ca nhan sắc của Phương Dung qua hai câu thơ của nhà thơ Nguyên Sa: “Em gầy như liễu trong thơ cổ/ Anh bỏ trường thi lúc thịnh Đường.”
Những năm năm mươi của thế kỷ
trước, biển NhaTrang, phố Đôc Lâp, trường Kim Yến, trường Võ Tánh, trường bán
công Lê Quí Đôn, là những khung trời kỷ niệm đẹp như một bài thơ. Nhóm chúng
tôi năm đứa: Đạo, gốc Huế, Định, gốc Quảng Trị, Thuận, người Ninh Hòa, và Doãn,
người Nha Trang, còn tôi là dân Phan Rang, chúng tôi cứ nhỡn nhơ đi học, đi dạo
biển và rủ nhau đi cinéma cuối tuần. Đôi khi chúng tôi nghe tiếng Đại bác hay
nhìn thấy hỏa châu thắp sáng một góc trời, chúng tôi cứ yên tâm đó là những cuộc
tâp trận của Trung tâm huấn luyên sỹ quan bộ binh ở Đồng Đế, và chúng tôi quên
đi đất nước chúng ta vẫn còn trong tinh trạng chiến tranh. Ở Nha Trang còn có
Trung tâm Huấn luyện Sĩ quan Phi Công của Không quân và Trường đào tạo Sỹ quan
Hải quân ở Cầu Đá, dọc theo bờ biển phía Nam của thành phố.
NhaTrang thuở ấy thật sự là
thành phố của chiến tranh nhưng NhaTrang mang bộ mặt một thành phố của hòa
bình, ổn định. Vào thời khoảng này sinh hoạt cuối tuần doc theo đai lộ Duy Tân
ven biển, trên phố Đôc Lập thật là vui nhộn phong phú và đa dạng. Nhạc sỹ Văn
Phụng vừa di cư vào Nam, anh thường trình diễn âm nhac ngoài trời mỗi cuối tuần
trên bờ biển gần khách sạn Beau Rivage. Các trường Trung Học của NhaTrang thuở
55, 56, 57 vẫn tiếp nhận các hoc sinh: Ngoài Bắc mới di cư vào Nam trong đó có
câu hoc trò Phí Ích Nghiễm của trường Bán công Lê Quí Đôn và sau này trở
thành nhà văn thành danh với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu; và các hoc sinh từ Liên
Khu V- Nam-Ngãi-Bình-Phú- vừa được giải phóng và trở thành các tỉnh của miền
Nam tự do. Trong nhóm này có Nguyễn Mông Giác, hoc ban B truòng Võ Tánh, sau
này là tác giả của những bộ trường thiên tiểu thuyết: Mùa Biển Động, Sông
Côn Mùa Lũ. Với tác phẩm ‘Đường Một Chiều’, Nguyễn Mộng Giác đoạt giải Nhất của
cuộc thi tiểu thuyết của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam năm 1974. Nguyễn Đức Sơn từ
Phan rang ra học Trường Kim Yến, anh đã sớm phát tiết phong thái như một nhà
thơ lập dị với bút hiệu Sao Trên Rừng, hồi ấy Nguyễn Đức Sơn đã sáng tác bài
thơ: “Một Mình Nằm Thở Đủ Kiểu Trên Bờ Biển: “Đầu tiên tôi thở cái phào/Bao
nhiêu phiền não như trào ra theo/Nín hơi tôi thở cái phèo/Bao Nhiêu Mộng ảo bay
vèo hư không/Sướng nên tôi thở phập phồng/Mây bay gió thổi trời hồng muôn
năm/Mai sau cái chỗ tôi nằm/Sao rơi lạnh lẽo, âm thầm biển ru..”.
Phải chăng chiến tranh đã là nỗi ám ảnh thuở ấy khiến nhà
thơ Nguyễn Đức Sơn sớm thấy số phận hẩm hiu cô đơn của đời người:“Mai sau cái
chỗ tôi nằm/Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru”. Khi chúng tôi lớn lên đã có chiến
tranh. Chiến tranh là một phần đời của chúng tôi. Chiến tranh vây bủa quấn chặt
chúng tôi như loài rắn độc quấn chặt lấy con mồi của nó. Chúng tôi lớn
theo hai cuộc chiến. Chiến tranh mang chúng tôi đi muôn phương. Chúng tôi trôi
giạt trong chiến tranh...
Năm 1962, Đạo, Định, Thuận Tốt nghiệp đại
học sư phạm Toán Lý Hóa. Đi dạy Trung học được một niên khóa, cả ba đều bị động
viên vào thụ huấn quân trường Thủ Đức và sau này là các sĩ quan tác chiến trên
4 vùng Chiến Thuật. Doãn tốt nghiệp sư phạm triết và là thấy dạy triết
cho các lớp 12. (Terminal). Còn tôi thì theo nghiêp Y, là bác sỹ phẫu thuật của
thời chiến- (Chirurgien De Guerre).
Năm 1960, Doãn loan báo cho nhóm chúng tôi
hay là Phương Dung vừa đi lấy chồng. Doãn gọi cho chúng tôi trong giọng thản thốt
và buồn. Thế mới biết trong suốt những năm qua, Doãn vẫn thầm nuôi mộng với
Phương Dung.
Chiến tranh luôn đi trước chúng tôi. Trận đánh lớn
ở cấp sư đoàn-trận Ấp Bắc ở Định Tường xảy ra vào ngày 2 tháng 1 năm 1963,
đã làm vỡ tan mộng hòa binh và ổn định lâu dài của Chinh Phủ và người dân
miền nam Việt Nam. Ai ai cũng xoay lưng lại chiến tranh, nhưng rồi cũng phải chịu
đựng cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, lật đổ chinh phủ Ngô Đinh Diệm.
Sau cái chết của nhà yêu nước Tổng thống Ngô Đinh Diệm và người em trai của
ông, chiến tranh bộc phát trở lại, thiêu đốt và tàn phá quê hương Việt Nam của
chúng tôi với một tốc độ khốc liêt khủng khiếp hơn bao giờ hết....
Nhưng thân phận người đàn bà trong
chiến tranh gánh chịu muôn vàn nỗi truân chuyên. Sau khi lấy chồng được hai
năm, Phương Dung sanh được một cháu gái. Có tin đồn rằng: chồng của Phương Dung
là sỹ quan Không Quân, chuyên về trinh sát-Observateur-Máy bay trinh sát L.19 của
anh bị bắn rơi ở Hạ Lào vào giữa năm 1961. Anh và ngưới sỹ quan phi cô đều bị lực
lượng biên phòng của chính phủ Hà Nội bắt sống. Ba tháng sau chính phủ Hà Nôi
đem vụ này xử công khai trên đài phát thanh cho cả nước cùng nghe. Họ tố cáo
chinh phủ Mỹ đã xâm nhập biên giới của họ, ngay cả phía trên vĩ tuyến 17 và
vùng Hạ Lào. Chồng Phương Dung và người bạn sĩ quan phi công mỗi người lãnh án
25 năm tù ở. Với bản án 25 năm tù ở của chồng, Phương Dung cảm thấy đời nàng hụt
hẩng không biết làm sao chia sẻ sự nhọc nhằng của chồng trong lao tù cộng sản
và nuôi con cho đến ngày khôn lớn trong suốt chiều dài 25 năm tới. Nhưng Phương
Dung không bao giờ quay lưng lại với cái quá khứ vàng son của mình. Nàng lúc
nào cũng là một mênh phụ phu nhân trong cái xã hôi chiến tranh thời đó. Nàng cố
vượt lên trên số phận để có đời sống tốt đep nuôi con cho đến ngày chồng về...Nguồn
tin đồn đoán cũng nhấn mạnh rằng: hoàn cảnh của Phương Dung được xem như là quá
đặc biệt. Do đó Phương Dung có được sự giúp đỡ và được ‘offered cái job’ làm
thư ký tại trung tâm hỗn hợp Không lực Việt Mỹ, phi trường Không
Quân-Nhatrang. Người boss trực tiếp của Phương Dung, là một Trung tá cố vấn
Mỹ cũng là vị chỉ huy trực tiếp của chồng Phuong Dung trước kia. Phương
Dung đươc ân huệ có được job này thật kín đáo ít người biết đến. Nhưng chẳng
bao lâu sau, Phương Dung cũng phải hứng chịu lời ong tiếng ve “gái làm sở Mỹ”.
Sau hơn hai năm làm việc bên cạnh
ông boss của nàng, Phương Dung cảm thấy mình được ông boss chăm sóc rất chu
đáo. Từ đó một thiên tình sử xuất hiện giữa nàng và vị Trung tá người Mỹ. Có phải
chăng họ yêu nhau vì nết trọng nhau vì tài? Một thực tế hiển nhiên vị Trung tá
Mỹ vẫn còn độc thân, chưa có vợ, trong khi đó Phương Dung là ‘nhất gái một
con’, người đàn bà từng trải. Lửa gần rơm có ngày cũng bén. Trước khi về nước,
vị Trung tá người Mỹ ngỏ lời muốn cưới Phương Dung làm vợ. Âu đó cũng là điều
Phương Dung không dám mong đợi và ước mơ nhưng thật sự nó đã đến với Phương
Dung. Sau khi được sự đồng ý của cha mẹ chồng (cũ), Phương Dung gạt lệ, lên xe
hoa một lần nữa. Năm 1967, Phương Dung cùng cô con gái theo chồng về Mỹ. Bao
nhiêu quá khứ tình cảm, Phương Dung coi như theo nước sông trôi về dĩ vãng. Cuộc
sống của Phương Dung sau năm 1960, dù cho thực hay là ảo, tất cả nói lên thân
phận người đàn bà trong chiến tranh cũng nổi trôi theo vận nước, cũng bị cuốn
hút theo chiến tranh...
Từ những năm 62-63...sự quan hệ giữa
bọn chúng tôi thường hay mất liên lạc với nhau. Thỉnh thoảng chúng tôi liên lạc
với nhau qua Khu Bưu Chinh-KBC-chúng tôi thật sự không biết chúng tôi đang ở
đâu và đang làm gì, sức khỏe và gia đình ra sao? Chúng tôi hoàn toàn con người
của chiến tranh.
Sau biến cố Mậu Thân, và trận Khe
Sanh năm 1968, bây giờ người Mỹ bắt đầu sử dụng pháo đài bay chiến lược B52, nhất
là tại vùng núi rừng Trường Sơn, Đường mòn Hồ Chí Minh. Sau đó, là những trận
đánh vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972... Hai phe bốn bên dốc toàn lực đổ quân vào những
trân đánh điên cuồng đẩm máu làm áp lực cho hòa đàm Paris ở giai đoạn chót. Những
trân đánh tận tình hủy diêt nhau làm rực lửa những trang báo cùng khắp thế giới,
thắp sáng lương tri nhân loại. Hầu hết các gia đình người Mỹ, mỗi chiều tối
đều ngóng lên màng ảnh truyền hình, theo dõi chương trình CBS Evening News
Reports hớp từng lời tường thuật của Walter Cronkite về chiến tranh Việt
Nam-Vietnam-War. Những trận đánh đẩm máu xé nát trái tim của những bà mẹ nước Mỹ.
Các sinh viên tại các trường đai học nhất là tại Mỹ, tại Anh, tai các nước Bắc
Âu và Tây Âu, tổ chức “truồng chạy” phản đối chiến tranh diệt chủng tại Việt
Nam...Trong khi đó tại Sàigòn tiếng hát Thái Thanh thảm thiết trong bài “Kỷ Vật
Cho Em”, một kiệt tác phản chiến thời danh của Pham Duy, viết sau Chiến Dịch
Lam Sơn-719:
“Anh trở về trong chiếc poncho
Anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về tật nguyền chai đá
Anh trở về dang dỡ đời em...”
Rồi cái gì phải đến, đã đến. Hiêp định Paris được ký kết hôm
27-1-năm 1973 giữa Lê Đức Thọ và Henri Kissinger nhằm chấm dứt chiến tranh tái
lập hòa bình cho Viêt Nam. Sau đó là cuộc tháo chạy của Mỹ khỏi miền Nam Viêt
Nam, bỏ lại sau lưng hàng triệu quân cán chính của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
trong đó có chúng tôi. Tất cả sau này là đối tượng của chính sách lao tù cải tạo
tập trung vô cùng tàn bạo của của đảng cộng sản Việt Nam. Cả triệu người miền
Nam tổ chức vượt biên, vượt biển, đi tìm vùng đất tự do, bất chấp mọi hiểm
nguy.
Sau 30-4-75, khi thức tĩnh thấy mình đã
ngoài 40-45 chúng tôi mới bất giác nhìn ra rằng mình chưa bao giờ thực sự sống
cho chính mình và tư hỏi mình đã làm được những gì với những năm tháng đã qua?
Chúng tôi đã chiến đấu cho tổ quốc? Chúng tôi là những nhà yêu nước? Chúng tôi
là những tên tay sai, những tên lính đánh thuê cho bọn Đế quốc tư bản? Đế quốc
Cộng sản? Hay chúng tôi chỉ là nạn nhân của chiến tranh? Cho đến tân hôm nay,
chúng tôi chưa tìm ra đuọc câu trả lời thỏa đáng...
Tháng Tư năm 1979 sau khi mang cả
gia đình vươt biển bằng thuyền, tôi và gia đình định cư tai Mỹ vào đầu năm
1980. Sau khi định cư ở Mỹ, việc đầu tiên là tôi cố tìm lại ban bè, ai còn ai mất?
Nhưng tôi hoàn không biết Đạo, Định, Thuân và Doãn hiện giờ ra sao? Mãi đến năm
2010, tôi cộng tác với báo Vietnam Daily News. Dưới mỗi tựa đề bài viết tôi có
ghi chú: Thân gửi các bạn Phương Dung (Phú Vinh) Thu Nguyệt (phố Đọc Lâp) Mông
Vân (Hà Dừa-Xóm Đạo), Phạm Hữu Đạo, Nguyễn thành Định, Lê Đức Thuân và các cụu
hoc sinh Trường Kim Yến Nhatrang. Chúng ta thất lạc nhau trên 30 năm trong màu
khói lửa chiến tranh. Các bạn còn sống? Xin điện thư về Thetrongdao2000@yahoo.com,
Cám Ơn). (*)
Hai tuần sau đó được Doãn hồi âm. Doãn cho tôi hay Doãn và
gia đình được đưa đến Guam vào ngày 24-4-1975, và sau đó Doãn và gia đình đinh
cư tại California. Hiên giờ Doãn vẫn chưa được tin tức gì về Phương Dung, Đạo,
Định, Thuận sống chết ra sao? Doãn rất lo họ có thể mất tích trên Biển Đông...
Một tháng sau đó tôi nhân được Email của Thuận, tôi liền tải
đến cho Doãn. Thuận cho chúng tôi hay, hiện tại Thuận và gia đình định cư tai
Pháp từ năm 1980. Thuận cũng cho chúng tôi hay, Đạo và Định vẫn còn kẹt ở Việt
Nam. Thế là sau 30-4-75 trong hàng ngũ anh em của chúng tôi có kẻ đã vượt thoát
lao tù công sản trở thành người tỵ nạn, có kẻ bị kẹt lại đành chọn quê hương
làm chốn lưu đày....
Bây giờ là đầu tháng 5 năm 2019, mùa xuân đang nở
rộ ở California. Doăn đã là một ông già tuổi vừa ngoài 83. Doãn đã nhiều lần bị
stroke, hiện phải ngồi xe lăn. Tuy nhiên tâm hồn Doãn vẫn còn nhạy cảm với vẽ đẹp
nét buồn khi nắng sớm, lúc mưa chiều. Tiếng đàn dương cầm của Doãn trĩu nặng
màu thời gian, hòa lẫn với tiếng lòng nhớ quê hương của kẻ lưu vong luôn vang vọng
niềm mơ ước “Trở Về Mái Nhà Xưa -Come Back to Sorrento...”.
Vào buổi tối hôm ấy, tựa mình
vào cây đàn Piano, Doãn đề cập đến tập truyện “Tơ Vương Đến Thác” của Doãn xuất
bản năm 2014. Doãn cho tôi hay đó là tiếc nuối cuối đời của Doãn về nghiệp văn
chương. Tháng chạp Năm 2014 Doãn tổ chức buổi ra mắt tâp truyện “Tơ Vương Đến
Thác” tai một thư viện công lập thuộc vùng San Diego. Trong các quan khách đến
tham dự buổi ra mắt sách hôm ấy có một ngươi đàn bà đã lớn tuổi, mặc Jupe
Soirée màu tơ vàng óng ả, có dôi mắt đen lánh đẹp và buồn. Doãn cảm thấy thấy
gương mặt ấy, đôi mắt ấy rất là thân thương quen thuộc từ một thuở xa xâm nào
đó của đời mình.
Phá bỏ mọi nghi cách, người
đàn bà ấy, tiến đến Doãn với tâp truyện “ Tơ Vương Đến Thác” và nói: “Phương
Dung xin được đặc ân có được chữ ký đề tặng của tác giả”. Từ chiếc xe lăn, Doãn
cố gắng đứng dậy hai tay nắm chặt và gục đầu trên bàn tay của Phương
Dung...Doãn thều thào: ” Phải chi 50 năm về trước chúng ta nắm chặt được tay
nhau như hôm nay thì cuộc sống của chúng ta đã hoàn toàn đổi thay”. Khi Doãn cuối
đầu viết đề tặng Phương Dung tâp truyên với câu thơ của Thế Lữ: “ Cái phút ban
đầu lưu luyên ấy. Nghìn năm chưa dễ một ai quên”. Lúc ây Phương Dung thì thầm:
“ngày xưa tôi cũng mến anh vì tính tình còn việc sau này minh có găp lại nhau
hay không điều đó không ai biết đươc, vì mỗi người có một hòan cảnh và số phận
riêng, nhất là trong thời đại chiến tranh- Vậy coi như chúng ta lạc nhau trong
chiến tranh”. Khi từ giã Doãn mắt Phương Dung tràn ngập lệ....
Đến đây, đêm đã khuya, tôi đứng
dậy từ giã Doãn. Doãn vẫn ngồi đó bên cạnh cây đàn Piano. Đôi mắt Doãn hầu như
ngấn lệ. Doãn nhìn tôi, hai bàn tay Doãn trải dài lướt trên những phiếm đàn,
Doãn vẫn một mình thều thào những lời tình tự Come Back to Sorrento của E.
Curtis.
Mở cửa xe ngồi vào ôm tay lái,
tôi nghe văng vẳng tiếng hát già nua của Doãn trong đêm thâu với bản nhạc
Romance Số 2, của Phú Quang- Thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ:
“....Em
chết trong nỗi buồn
Chết
như từng giọt sương, rơi không thành tiếng.....
....Trong
xứ sở của anh hiếm hoi niềm vui
Nỗi
cô đơn khao khát đến nặng lòng
....Đi
bên anh, em còn lạc lối về
Có
đôi khi muốn ngã như chiếc bóng
Ta
lẫn vào đêm không ai nhận ra mình
Em
chết trong nỗi buồn
Em
chết trong nỗi buồn
Em
chết trong nỗi buồn.../.
Đào Như
Chicago
July 14-2020
(Để nhớ ngày sanh thứ 84 của tác giả)
Ghi Chú
(*) Đây là chuyện hoàn toàn hư cấu. Nếu vô tình có sự trùng
lập tên họ với các nhân vật xin quí vị miễn thứ- Vô cùng tri ân-Đào Như.