Nhà thơ Đinh Thị Thu Vân
Những câu thơ em viết mất linh hồn.
Nhìn vào văn học sử Việt Nam, sau Lưu Quang Vũ, tôi
đánh giá cao cái Tôi trong thơ của Đinh Thị Thu Vân. Và cùng cái chất
trữ tình ấy, những câu thơ của chị ám ảnh, làm cho người đọc “vãi“
cả linh hồn: “Dẫu mai này lòng không còn nguyên vẹn/ những câu thơ
em viết mất linh hồn”. Có thể nói: Ru là một trong những bài thơ
như vậy của chị. Đọc nó, dường như tôi không thể phân biệt được rạch
ròi, hồn vía thi nhân đã mất, hay hồn thơ đã rụng, khi: “Câu
thơ nào em viết cho anh/ Xin vĩnh viễn đi vào kỷ niệm”. Và rồi nhà thơ
cũng chợt nhận ra, những câu thơ kia đã lạc mất linh hồn. Phũ phàng,
buồn đau là thế, nhưng đọc lên, ta thấy hồn thơ vẫn có sự ấm áp và
bao dung:
Uớc mơ trở về cái thuở ban đầu, cái thuở chưa có
thơ, và chưa hề biết bạc bẽo dường như là một điều không tưởng (hay
không còn trọn vẹn) trong tâm hồn Đinh Thị Thu Vân. Đọc Ngày anh trở
lại, tôi cứ ngỡ, đó là một bài thơ nối lại hồn vía, nối lại thi
phẩm (lời) Ru của chị. Và làm tôi chợt nhớ lại mấy câu thơ mang tính
triết lý nhân sinh của Khánh Nguyên: “Trước không em bình thản
sống vô tư/ giờ không em, lòng tràn đầy bão tố/ Cứ tưởng rằng sẽ về
nguyên như cũ/ Có đâu ngờ không lại chẳng bằng không”. Và cái không
lại chẳng bằng không đó, như một phép so sánh trong sự mất mát khôn
cùng, âu cũng là kết quả mà Đinh Thị Thu Vân phải đón nhận vậy.
Đoạn trích có lời thơ dân dã, trần trụi, trong bài “Ngày anh trở
lại“ dưới đây, không chỉ cho ta cảm giác chờn chờn rờn rợn, mà còn
thấy được ước mơ, cùng những bi lụy đắng cay chìm vào cái hồn thơ
nồng nàn thuở ấy:
Sở trường Đinh Thị Thu Vân là thơ tự do, với những
câu thơ dài ngắn vắt ra từ cảm xúc, trải lên trang viết của mình.
Nhưng đến với “Có ai buồn với tôi không“ chị đã viết theo thể lục
bát. Một thể thơ dễ viết, song rất khó hay, nếu nhà thơ không thực tài.
Tuy nhiên, ta có thể thấy, Đinh Thị Thu Vân là thi sĩ giàu trí tưởng
tượng, và tài năng làm mới từ ngữ, cũng như sử dụng hình tượng so
sánh ẩn dụ: “dường như nhung nhớ thoáng rêu phong rồi”. Do vậy,
đọc “Có ai buồn với tôi không“ cho ta một cảm giác, như chia đôi hồn
người vào cơn gió chiều mông lung ấy. Thật vậy, cả bài thơ là một
câu hỏi tu từ, cùng những lời độc thoại níu kéo, gạn chia nỗi buồn.
Nhưng nỗi buồn bi đát ấy, dường như đã hóa thành rêu phong, làm sao
có thể sớt chia. Vâng, một nỗi buồn cô đơn tuyệt vọng. Và những câu
hỏi thay cho lời phủ định đó là tiếng kêu vọng lên trong đêm, hay điểm
bấu víu cuối cùng của linh hồn người thi sĩ:
Nếu “Có ai buồn với tôi không” là một câu hỏi tu từ,
níu kéo sẻ chia nỗi buồn, thì đến “Ru oan” như một lời ru, xoa dịu
nỗi đau trong lòng người vậy. Có một điều đặc biệt, thơ của Đinh Thị
Thu Vân luôn luôn có nhân vật. Và những nhân vật trữ tình này xuyên
suốt trang thơ của chị. Với đặc tính này, thơ của chị khó có thể
lẫn với bất cứ nhà thơ nào khác. Do vậy, trộn lộn thơ cả trăm tác
giả vào, khi đọc ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra thơ Đinh Thị Thu Vân.
Và Ru oan là bài thơ điển hình như vậy của chị. Có thể nói, đây là
một trong những bài thơ hay nhất của Đinh Thị Thu Vân. Vẫn thể lục
bát, lời thơ tự sự đẹp, và nhẹ nhàng, chẳng biết lời ru cho anh, hay
thi sĩ đang tự ru lòng mình: “là dăm ba phút lỡ làng/ em ru anh, để
ru oan đời mình!”. Và đoạn trích dưới không chỉ cho ta thấy rõ
những điều đó, mà một lần nữa chứng minh thêm tài năng sử dụng từ
ngữ, hình ảnh, cũng như trí tưởng tượng phong phú của nữ thi sĩ họ
Đinh này:
Nếu đọc Đinh Thị Thu Vân chỉ cảm được nỗi buồn đau
chơi vơi của tình yêu lệch phía, thì quả thực ta mới thấy cái vỏ.
Sự bao dung trong cái mất mát tàn phai mới là lõi trong hồn thơ chị.
Vâng! Còn có con người đáng để cho chị yêu, chị sống đến tận cùng,
đó mới là hạnh phúc trong cuộc sống, thơ văn của chị.
Em biết trốn vào đâu cho bớt nhớ.
Khi đọc những câu thơ chân thực đến xót xa của Đinh
Thị Thu Vân: “hôn em nhé, mai ta về với đất/ góc bể chân trời có lẽ bớt
xa xôi…” làm cho tôi nhớ đến cái thiết tha đến tận cùng của
Xuân Quỳnh: “Em trở về đúng nghĩa trái tim em/ Là máu thịt, đời thường
ai chẳng có/ Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa/ Nhưng biết yêu anh cả khi
chết đi rồi”. Vâng, có lẽ, trái tim đa cảm như hai nữ thi sĩ này,
trong thơ và trong cuộc sống hiện nay, dường như không còn có nhiều.
Chẳng vậy, mà một kỷ niệm nhỏ cũng làm cho lòng người day dứt.
Buộc Đinh Thị Thu Vân phải trốn chạy nỗi nhớ thương, cuộn hồn vào
trang giấy mong manh ấy. Để rồi: Nhớ, một bài thơ bát ngôn được ra
đời trong hoàn cảnh, tâm trạng như vậy của Đinh Thị Thu Vân. Cái tính
chân thực, khẩu ngữ dân dã (thoảng qua như một câu hỏi tu từ), làm cho
câu thơ hồn hiên hay đến bất ngờ: “biết trốn vào đâu cho bớt
nhớ”. Có thể nói, Nhớ là một trong những bài thơ hay nhất, tôi
đã được đọc trong thời gian gần đây:
em biết trốn vào đâu cho bớt nhớ …”
Được toát ra từ nội tâm, do vậy thơ Đinh Thị Thu Vân
mang tính nhất quán thật rõ ràng: “hương vẫn hương, gió vẫn gió
vô cùng” (Sau những giấc mơ buồn). Tưởng rằng, anh đừng đi, em
không cách chi tìm, nhưng rồi, anh yêu dấu không còn thuộc về ta nữa.
Một nỗi đau, từ “Nhớ” cho đến “Ngày anh trở lại” như mạch nối dài
tâm trạng và hồn thơ Đinh Thị Thu Vân vậy. Ngày anh trở lại gồm sáu
khổ thơ, tác giả đã sử dụng điệp ngữ (cụm từ): Em quỳ xuống, đến 5
lần. Cứ tưởng rằng, đơn điệu lắm, nhưng không phải vậy, bởi mỗi lần
nhà thơ bộc lộ diễn biến tâm lý khác nhau. Và động từ quỳ xuống
trong câu thơ đã hoán đổi thành tính từ, như biểu hiện lời thỉnh cầu
trong tâm trạng chia ly, và nỗi buồn đắng chát. Với tôi, “Ngày anh trở
lại” là một bài thơ hay, và toàn bích nhất của Đinh Thị Thu Vân:
Tình yêu đã lạc nơi cuối trời, nhưng khát khao thèm
muốn vẫn cháy bỏng trong lòng thi nhân. Những câu thơ đầy hình tượng
lãng mạn như gieo vào người một chút gì yếu mềm, và mong manh: “vai
anh rộng để em thèm bé nhỏ/ mơ một ngày yên ngủ giữa vòng tay/ một ngày thôi
lơi lỏng áo quên cài…” (Nhớ). Và giấc mơ, sự thèm muốn đó đã
bị dập tắt bởi: “những phũ phàng anh đã tặng cho em”. Buồn đau
là vậy, song người thi sĩ vẫn: ”nếu có kiếp sau, em xin làm bậc cửa/
làm thềm rêu, lặng lẽ đợi chân người” (Gió bụi chông chênh). Vâng!
Nếu buộc phải chọn, tôi nghĩ, đây là câu thơ hay nhất, hình tượng
nhất của Đinh Thị Thu Vân. Và nó đã ôm trọn hồn cốt con người cũng
như thơ ca của chị. Tuy đây là câu thơ hay và hình tượng, song nhìn
tổng thể “Gió bụi chông chênh” không thuộc nhóm những bài thơ hay nhất
của Đinh Thị Thu Vân:
Trong cái nghiệt ngã, và cô đơn, Đinh Thị Thu Vân vẫn
khát khao, dám đi đến tận cùng tình yêu, và cuộc sống. Đọc những câu
thơ cuồng say ấy của chị:“em yêu anh, cuồng nhiệt đáy tâm hồn/ May mắn
quá, lòng anh quen nguội lửa/. Không đốt được đời mình nơi chốn đó, /em trở về
thương lấy trái tim đau” (May mắn) tôi chợt nhớ đến sự rung
động, si mê tình ái làm người đọc phải sởn cả gai ốc của Đinh Hùng:
Cùng bộc bạch cái độ cuồng mê ấy, nếu lời thơ Đinh
Hùng mộng mị, sắc lạnh, thì ta có thế thấy, lời thơ Đinh Thị Thu Vân
đằm thắm và nhẹ nhàng hơn nhiều lắm. Sự khác nhau này, mang đến
tính đặc trưng riêng của từng thi sĩ, cũng như làm phong phú thêm sắc
thái cho thi ca nước nhà vậy. Và đằng sau cái khát khao, ngọn lửa
Đinh Thị Thu Vân dường như vẫn thường trực ở đâu đó, có lẽ chỉ còn
thiếu ngòi dẫn nữa thôi. Đoạn trích trong bài “Một nửa đường đang khuất”
dưới đây, không chỉ cho ta thấy ngọn lửa khát vọng đó, mà còn thấy
được sự mông lung trong tâm tưởng, súc tích trong lời thơ Đinh Thị Thu
Vân:
Cũng như cái gu rượu bia, (khẩu vị) mỗi người có
khác nhau. Trong thơ văn cũng vậy. Với tôi, Văn học việt, kể từ khi có
thơ mới đến nay, về mảng tình yêu đôi lứa, sau Đinh Hùng, có lẽ Đinh
Thị Thu Vân là người gây cho tôi khoái cảm nhất khi đọc. Và tôi có nói
điều này với một gã bạn trên bàn nhậu. Gã bạn này tỏ vẻ không
đồng ý, hỏi: Còn ông hoàng Xuân Diệu thì sao? Tất nhiên, ở khía cạnh
nào đó, tôi cũng khoái đọc Xuân Diệu. Nhưng thơ ông có lẽ hợp với nơi
đông người, đọc nơi hội trường, khác hẳn với Đinh Hùng, hay Đinh Thị
Thu Vân. Nếu ví thơ Xuân Diệu là cái vỏ, thơ Đinh Hùng, Đinh Thị Thu như
cái lõi vậy. Tôi nói thật suy nghĩ của mình. Dĩ nhiên, gã bạn không
đồng ý như vậy, bởi gã có cái gu đọc khác. Âu cũng là điều cần tôn
trọng.
Từ mâu thuẫn tư tưởng đến trong thơ.
Mâu thuẫn tư tưởng dẫn đến sự không nhất quán trong
cuộc sống, cũng như trên những trang viết là yếu điểm của khá nhiều
các văn nghệ sĩ ở miền Bắc sau 1954, và trên toàn đất Việt sau 1975
mắc phải. Cái mâu thuẫn, và hạn chế ấy phần nhiều do xã hội, hoàn
cảnh cuộc sống tác động đến họ, kể các các nhà văn, nhà thơ lớn,
tên tuổi: Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, hay Hữu Loan… Từ lẽ đó,
cho nên không gây cho tôi một tí ti bất ngờ nào, khi đi sâu vào đọc Đinh
Thị Thu Vân. Thật vậy, ngay từ những ngày đầu cầm bút Đinh Thị Thu Vân
đã hồ hởi, reo vui: “Tháng Tư ơi xin đẹp mãi tâm hồn.” Và
Ba mươi tháng Tư đến, nhà thơ như cởi bỏ dĩ vãng, gột rửa được tâm
hồn. Lời tự thú ấy đã được Đinh Thị Thu Vân viết thành thi phẩm: Nếu
không có ngày Ba mươi tháng Tư, rất đồng điệu với khí thế hừng hực của
những ngày sau 30-4-1975. Qủa thực, nó chẳng khác gì một bản kiểm
thảo trước chi bộ đảng đoàn vậy. Đọc nó, làm tôi nhớ đến lời tụng
ca (với hình ảnh so sánh) cùng sự dày vò, sám hối của Chế Lan Viên
trước Tố Hữu trong những ngày đầu đến với đảng:
Xét riêng về mặt nghệ thuật: Nếu không có ngày Ba mươi
tháng Tư, là bài thơ tự sự hay. Thay cho lời lên gân, sáo rỗng của
những bài thơ về thế sự, xã hội thường gặp, ta có thể thấy lời thơ
của Đinh Thị Thu Vân nhẹ nhàng, cùng những hình ảnh so sánh dân dã,
mộc mạc. Tưởng như một lời thủ thỉ, tâm tình vo tròn trong cái bé
nhỏ ấy, nhưng (với thủ pháp, lời thơ tự sự), nó thấm dần cái tư
tưởng của tác giả vào người đọc, một cách tự nhiên vậy:
Nếu “Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư” là lời tự thú,
để rũ bỏ quá khứ, gột rửa tâm hồn, thì đến với Saigon Đau lại là
sự tìm về dĩ vãng, trong cái tiếc nuối và nỗi đau mất mát của Đinh
Thị Thu Vân. Có thể nói, Saigon Đau là bài thơ tiêu biểu, và rõ nét
nhất cái mâu thuẫn tư tưởng trên những trang viết của Đinh Thị Thu Vân.
Và nó cũng là một trong những bài thơ viết về thế sự xã hội hay
nhất, mà tôi được đọc. Thật vậy, nỗi đau và sự luyến tiếc đó,
dường như không phải của riêng nhà thơ, mà nó đưa đến, và nhận được
sự đồng cảm của rất nhiều người. Vẫn những lời thơ tự sự, Saigon
Đau như một mũi khoan xoáy vào lòng người đọc. Nhất là những kẻ
buộc phải rời xa quê. Ta hãy đọc lại những trích đoạn có lời thơ dân
dã, song rất đẹp dưới đây để thấy rõ, (và so sánh) cái mâu thuẫn tư
tưởng, cũng như cái tôi, và chất trữ tình trong thơ thế sự xã hội
của Đinh Thị Thu Vân:
Có một điều đặc biệt, khi đi sâu vào đọc Đinh Thị Thu
Vân cho ta thấy: Nếu thơ tình của chị mang tính nhất quán, thì mảng
thơ thế sự có sự mâu thuẫn thật rõ rệt. Tuy nhiên, với tôi, khi nhận
định hay đánh giá chân dung nữ thi sĩ này, thì cái cốt lõi nhất tạo
dựng nên chân dung nhà thơ tài năng Đinh Thị Thu Vân là những trang thơ
tình yêu của chị. Có được cái giá trị chân thực, tính đặc trưng,
lời thơ đẹp, lãng mạn ru hồn người như vậy trong thơ Đinh Thị Thu Vân,
ta có thể thấy, ngoài biện pháp tu từ, chất tự sự, với cái tôi trữ
tình, thì phải nói đến sự can đảm, dám đi đến tận cùng yêu, tận
cùng nỗi đau, và dám hy sinh, tôn thờ nó của chị.
Khi viết bài này, quả thực tôi không có tài liệu,
hay một tập thơ nào của Đinh Thị Thu Vân, ngoài mấy chục bài thơ
trên thivien.net, và
đọc rải rác đâu đó, hay trên Facebook của chị. Do vậy, chắc chắn bài
viết này chỉ nói được một phần nào đó về chân dung người thi sĩ
tài hoa này, và cũng không thể tránh khỏi những sai sót.