Mặt trận ở Sài Gòn là một tuyển tập 12 truyện
ngắn của Nhà văn Ngô Thế Vinh viết về kí ức thời chiến tranh vào thập niên
1970s, chủ yếu ở vùng núi rừng Tây Nguyên. Tuy có nhiều chứng nhân trong cuộc chiến,
nhưng tác giả là một chứng nhân hiếm hoi ghi lại một giai đoạn chiến sự khốc liệt
qua các câu chuyện được hư cấu hoá. Điểm đặc biệt của tập truyện ngắn này là có
phiên bản tiếng Anh do một học giả ẩn danh dịch, có lẽ muốn chuyển tải đến độc
giả nước ngoài về cái nhìn và suy tư của người lính phía VNCH.
Tập truyện ngắn được sáng tác từ những năm chiến tranh trong thập niên 1960s và 1970s, và thập niên 1990s sau khi tác giả đã định cư ở Mĩ. Có truyện viết từ trước 1975, nhưng sau này ra hải ngoại tác giả viết tiếp. Đó là những câu chuyện về những lần giáp trận với những người anh em bên kia chiến tuyến, những trận mưa bom đạn từ trên không, và những cái chết không toàn thân của biết bao người lính của cả hai bên chiến tuyến. Đó là những câu chuyện về những người lính khi ra trận thì gan dạ, can trường, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng sâu thẳm trong nội tâm thì đầy trăn trở về thời cuộc và giàu nhân văn tính. Ngay cả trong bộ đồ rằn ri xem ra dữ dằn, nhưng qua hành vi và cách nói thì họ chỉ là những thư sinh nho nhã, đôn hậu. Hay như người y tá trưởng được lưu dung sau 1975 trong Tổng Y Viện Cộng Hoà vẫn cần mẫn chăm sóc cho những người lính bên kia chiến tuyến để rồi cũng bị sa thải về quê và sống trong nghèo nàn, đau khổ. Trong tác phẩm này, Ngô Thế Vinh viết về những cuộc hành quân trên vùng rừng núi Cao Nguyên, qua Campuchia, về thành phố Sài Gòn. Những nơi họ đã đi qua để lại nhiều kí ức và những suy tư về thời cuộc và quê hương, về thân phận tuổi trẻ và tương lai.
Có những suy tư được bộc lộ rất thật, như
trong truyện Mặt trận ở Sài Gòn mà tác giả lấy làm tựa đề quyển sách. Thật ra,
truyện này đã được đăng trên tạp chí Trình Bầy số 34 trước 1975, và đã làm tác
giả gặp rắc rối với chánh quyền VNCH lúc đó. Trong Mặt trận ở Sài Gòn, tác giả
thuật lại một nhóm lính biệt cách từ rừng núi Tây Nguyên về nơi phồn hoa Sài
Gòn, như là những kẻ về từ 'cõi chết'. Họ phải đối diện với những phong trào
sinh viên biểu tình phản chiến, và bị dằng co một bên là lí tưởng xã hội và một
bên là nhiệm vụ bảo vệ sự ổn định của xã hội. Người lính chợt nhận ra rằng họ
không chỉ đối diện với cái chết trong rừng sâu núi thẩm, mà còn trực diện với một
trận tuyến xã hội với quá nhiều bất công và thối nát. Đó là một "xã hội
trên cao, lộng lẫy sáng choang và thản nhiên hạnh phúc" ở những người
miệng thì kêu gào chiến tranh nhưng họ lại đứng ngoài cuộc chiến. Vậy thì người
lính bảo vệ cái gì đây. Không lẽ bào vệ "cho một con thuyền xã hội xa
hoa ngao du trên dòng sông loang máu, nổi trôi đầy những xác chết đồng loại."
Chiến trường của người lính bây giờ là ngay tại Sài Gòn này, nhưng họ là những
chiến binh ngoài chiến trường, chớ không phải 'chiến sĩ xã hội.'
Tác phẩm này đã làm tác giả gặp rắc rối với chánh quyền VNCH lúc đó. Toà án
quân sự VNCH nhận định rằng truyện ngắn "có luận điệu phương hại trật tự
công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu quân đội".
Chiến tranh thường là mảnh đất màu mỡ cho
tuổi trẻ và những suy tư về dân tộc và quê hương. Cuộc chiến Việt Nam cũng
không phải là một ngoại lệ. Những xung đột giữa các học thuyết chánh trị ngoại
lai dẫn đến những cái chết thảm cho hàng triệu người giúp cho thanh niên Việt
Nam thường trưởng thành trước tuổi. Người lính đối diện trước hiểm nguy và cái
chết trong giây phút, họ càng suy nghĩ về bản thân hơn. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận
xét rất đúng rằng "Trong suốt chiều dài và rộng của lịch sử, tuổi trẻ
Việt Nam đã được nuôi sống bằng những gieo trồng tang thương và nỗi chết. Tuổi
đó không tính bằng tháng năm mà bằng những đổi thay không gian cùng với gót
giày chiến binh của họ -- đã và đang còn dẫm nát từng ngọn cỏ xanh còn sót lại
trên quê hương."
Cũng trong truyện Nước Mắt của Đức Phật
(viết ở thị trấn Krek, Campuchia, 1971) tác giả viết về một lần hành quân sang
Campuchia, và ngay từ lúc đặt chân đến xứ Chùa Tháp đã gặp ngay những phản ứng
kém thân thiện của người bản xứ. Qua lời nói của một nhà sư, tác giả muốn nói
lên tình cảnh éo le của Campuchia: trở thành một đấu trường trong sự xung đột
giữa hai phe người Việt, và tác giả tự hỏi "Trong cái mênh mang của cơn
say lịch sử, có nghĩ được rằng cuộc chiến đang diễn ra giữa những người Việt lại
có thể xoá nhoà một nền văn minh Angkor cổ kính."
Trong Mặt trận ở Sài Gòn, tác giả còn dành
nhiều trang viết về những người đồng minh Mĩ. Những viên sĩ quan cố vấn và giới
kí giả với những hành xử tốt và xấu đều được Ngô Thế Vinh ghi chép cẩn thận qua
những câu chuyện tưởng như là hư cấu. Chẳng hạn như câu chuyện về một viên kí
giả tên Davenport (trong Dấu Ngoặc Lịch Sử) tuy mới vào nghề nhưng đã được
gởi đến Việt Nam, và anh ta đã thể hiện được câu nói dân gian "Nhà báo nói
láo ăn tiền". Davenport chỉ ngồi trong một quán bar, có máy lạnh, bên cạnh
một cô thư kí riêng (có lẽ kiêm thông dịch viên), vậy mà anh ta viết báo cáo mô
tả y như thật rằng Kontum đang sống trong những ngày nghẹt thở, dân chúng hoảng
loạn tìm đường chạy trốn, đường bay Sài Gòn - Kontum đã bị Hàng Không Việt Nam
huỷ bỏ, v.v. Nhưng trong thực tế thì Kontum vẫn sinh hoạt bình thường, người
dân vẫn sống yên ổn, và các chuyến bay của Hàng Không Việt Nam vẫn diễn ra hàng
ngày! Trong Chiến Trường Tạm Yên Tĩnh, Ngô Thế Vinh viết về một nhân vật
Larry, mới tốt nghiệp trường y bên Mĩ, anh chán ghét xã hội Mĩ xung phong vào
đoàn y sĩ thiện nguyện đến Việt Nam chuyên giúp người dân và nạn nhân chiến
tranh. Là người Mĩ nhưng Larry ít giao du với người Mĩ đồng hương, anh chỉ dành
thời gian cho chuyên môn và viết sách. Hai nhân vật tương phản phản ảnh phần
nào sự đa dạng trong nhân cách của đồng minh Mĩ tại Việt Nam trong thời chiến.
Đọc truyện của Ngô Thế Vinh, người đọc có
thể cảm thấy như đọc những kí ức vụn được lấp ghép lại thành một tác phẩm. Có
lúc tác giả viết về vùng Đất Khổ, nhưng lại liên tưởng đến chuyện của 30 năm
trước về nhân vật Kim Đồng của Tô Hoài, rồi ngay sau đó tác giả viết về một Sài
Gòn đã mất tên vào năm 1981. Kim Đồng là tượng trưng cho giấc mơ cách mạng đẹp
đẽ, nhưng 30 năm sau bao nhiêu thế hệ Kim Đồng nhân danh 'giấc mơ Việt Nam' cầm
súng M16 hay AK tiêu diệt lẫn nhau. Ba mươi năm dài làm biến dạng tiếng Việt.
Chữ và nghĩa không còn nhứt quán với nhau
Cuộc xung đột ý thức hệ giữa tự do và giáo
điều còn tạo nên một cộng đồng dân tộc mà từ suy tư, hành vi đến ngôn ngữ của họ
rất khác với người anh em bên kia chiến tuyến. Hai người anh em cùng nói tiếng
Việt, nhưng là loại tiếng Việt khác phiên bản. Trong Nước Mắt của Đức Phật, tác
giả viết rằng "Trong 30 năm điều mà chúng tôi không tự biết - là mọi
suy tư của mỗi người Việt đã được điều kiện hoá để họ không còn thấy nhau. Nói
chuyện với một tù binh cộng sản Bắc Việt tôi đã không thể tưởng tượng rằng giữa
người Việt nói tiếng mẹ đẻ nhưng chúng tôi đã không còn chung một ngôn ngữ."
Câu văn ngắn đó thiết tưởng vẫn còn áp dụng cho đến ngày nay.
Một cuộc xung đột ý thức khác cũng diễn ra
trong cộng đồng người Việt ở Mĩ. Sau 1975, như chúng ta biết, có hàng triệu người
Việt đã liều mạng bỏ nước ra đi, và một số đông đã được tiếp nhận định cư ở Mĩ.
Một thế hệ mới hình thành trên đất Mĩ, và thế hệ mới có những cái nhìn về Việt
Nam khác với cha ông họ. Họ tuy rất bất bình trước những bất bình đẳng ở Việt
Nam, nhưng họ sẵn sàng bỏ thời gian về quê giúp đỡ đồng bào hơn là cái nhìn cứng
nhắc, thậm chí 'một đi không trở lại' như thế hệ cha ông. Những cuộc xung đột
trong gia đình xảy ra, như giữa nhân vật Bs Toản và thân phụ của anh về Việt
Nam: anh nghĩ về tương lai bên quê nhà, còn cha ông thì cứ khắc khoải về quá khứ
chiến tranh và chia rẽ. Tuy nhiên, truyện Giấc Mộng Con Năm 2000 có thể
xem là một câu chuyện kết thúc có hậu, khi có những người y sĩ nghĩ đến những dự
án văn hoá để ghi lại những thành tựu của một cuộc di dân vĩ đại.
Đọc sách của Ngô Thế Vinh, bạn đọc sẽ bắt gặp
những chữ nghĩa ngày xưa. Đó là những chữ chưa bị biến dạng về nghĩa, đó là
cách đánh vần theo cách nói của người miền Nam (dù anh là người gốc Thanh Hoá).
Người đọc sẽ quay về với những danh từ quen thuộc như "chánh phủ",
"chiến hữu", "kích xúc", hay những động từ hết sức dễ
hiểu như "men" (trong 'men dần ra quốc lộ'). Có những đoạn tác
giả viết thật xúc động, nhưng đoạn viết về người lính Bắc Việt bị chết: "Ngồi
bệt xuống đất bên xác hắn, người tôi nặng trĩu mỏi mệt. Tôi đưa tay vuốt mắt hắn,
mi mắt còn ấm nóng khép lại dễ dàng. Một cử chỉ mà tôi không thể làm cho thằng
em khi nó bị tử trận ở Pleime ..."
Ngô Thế Vinh không phải là một cái tên xa lạ
trên văn đàn Việt Nam. Là bác sĩ (tốt nghiệp Đại học Y Khoa Sài Gòn năm 1968),
từng làm y sĩ trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù trong quân đội VNCH. Ngay từ thời
sinh viên, anh đã viết văn, và từng làm chủ bút báo sinh viên Tình Thương thời
thập niên 1960s. Ngay thời gian đó, tác giả đã là một cây bút thành danh với những
tác phẩm nổi tiếng như Bóng Đêm (1964), Gió Mùa Đông (1965), và đặc
biệt là Vòng Đai Xanh (1970), tác phẩm đem về cho anh giải thưởng Văn học
1971. Sau này, khi ra hải ngoại, Ngô Thế Vinh viết cuốn sách nổi tiếng Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng (1996) và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch
(2007). Tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng là một cảnh báo
trước về tai hoạ cho sông Cửu Long do những con đập do Trung Cộng xây dựng trên
thượng nguồn, và những xung đột trên Biển Đông. Có thể nói tác giả là người đi
trước thời cuộc.
Chẳng những đi trước thời cuộc, mà qua những
trang viết thấm dẫm nhân văn tính trong tuyển tập này (như chuyện về cái chết của
một anh lính cộng sản Bắc Việt, hay nhân vật lính Mĩ tên Jim bị rối loạn tâm thần
sau cuộc chiến), tác giả còn thể hiện mình là một người trí thức vượt lên mọi
chánh kiến.
|
Từ trái sang phải: Bs Ngô Thế Vinh, tác
giả, Gs Lê Xuân Khoa, Ks Phạm Phan Long, và Ks Ngô Minh Triết (hình chụp ở
Laguna Beach, Nam California, 2018) |
Nhưng
Ngô Thế Vinh là một chứng nhân của chiến tranh, chứng
nhân của "những bi kịch của một thời nhiễu nhương và lừa dối hào
nhoáng." Anh đã chắt chiu những trải nghiệm thực tế trong chiến trận ở
núi rừng Tây Nguyên và đúc kết lại thành những tác phẩm mang tính 'sử thuyết'
hay một dạng historicity, hơn là tiểu thuyết. Thật vậy, nói là truyện ngắn,
nhưng người đọc có thể cảm nhận được đó là những ghi chép bằng một ngòi bút
điêu luyện miêu tả một cách sinh động những tình huống xảy ra, cùng những quan
sát tinh tế. Truyện ngắn hay truyện dài của Ngô Thế Vinh chỉ là cái cớ hoặc là
cái diễn đàn để cung cấp chứng từ. Các nhân vật trong truyện (ví dụ như bác sĩ
Phan) cũng có thể là chính tác giả hay được tác giả mượn để nêu lên những trăn
trở cùng những suy tư khắc khoải trước chiến cuộc.
Nhà văn Nguyễn Thanh Việt từng viết rằng tất
cả các cuộc chiến đều diễn ra hai lần; lần thứ nhất là ở chiến trường, lần thứ
hai là ở kí ức. Những kí ức được ghi chép lại trong Mặt Trận ở Sài Gòn chính là
một cuộc chiến nội tâm vậy. Chính tác giả trong Một Bức Tường Khác
(1991) cũng tự hỏi mình đến bao giờ "mới thực sự thoát ra khỏi cuộc chiến
đã vào quá khứ 17 năm rồi". Có lẽ tác giả sẽ không bao giờ thoát khỏi
cuộc chiến kí ức. Tuy nhiên, có khi đó là một cái hay, vì những kí ức đó được
viết xuống như là những chứng từ về một cuộc chiến mà có lẽ nhiều thế hệ người
Việt và người ngoại quốc sau này sẽ còn dùng để hiểu biết đúng và công tâm hơn
về cuộc chiến tương tàn kéo dài suốt 20 năm.
"Chút rượu hồng đây xin rưới xuống,
Giải oan cho cuộc bể dâu này.”
(Tô Thùy Yên)
Nguyễn
Văn Tuấn