|
Hình minh hoạ, NHAC NGUYEN/AFP via
Getty Images |
Tôi
kéo chiếc va ly ra khỏi phòng để trên hành lang của
khách sạn Galaxy. Chúng tôi thuê hai phòng trên lầu ba. Khoá cửa tôi đi dọc
theo hàng lang gõ cửa phòng số 319. Lát sau cửa mở. Steve, đứa rể Mỹ, thò đầu
ra nói:
– We are ready.
Thảo, con gái tôi, mở rộng cửa, kéo theo cái va ly to. Nó nhìn tôi nói:
– Mẹ phải mặc thêm áo lạnh. Con nghe nói
trên Sapa lạnh lắm đấy.
Nói xong nó mở va ly lấy ra cái áo len
khoác lên người tôi. Chúng tôi xuống thang máy. Cô hướng dẫn viên chờ chúng tôi
ở lobby. Du khách ngoại quốc đứng chật trước quầy khách sạn. Trong lúc chờ các
con tôi xếp hàng làm thủ tục trả phòng tôi ra đứng trước cửa khách sạn nhìn ra
phố. Bấy giờ trời đã tối. Ngoài đường xe ô-tô, xe máy chạy đan nhau chung quanh
cái bồn nước Hàng Đậu. Bên kia đường là một công viên nhỏ với dăm ba chiếc ghế
dài, vài cặp ngồi tình tự trong bóng tôi, những chiếc xe máy dựng cạnh.
Hà Nội là một thành phố xa lạ dưới mắt tôi
lúc ấy. Xa lạ như thể tôi chưa hề đặt chân tới. Thật ra không hẳn vậy. Tuy sinh
trưởng và lớn lên ở trong Nam nhưng Hà Nội tôi được biết qua tiểu thuyết tôi đọc
thời còn là học sinh, và sau này lập gia đình với một người miền Bắc, nhà tôi vẫn
thường kể tôi nghe về những kỷ niệm thời còn bé của anh ở Hà Nội. Ngoài ra có một
lần trong đời chính tôi đã từng ghé Hà Nội một thời gian ngắn. Nhưng thành phố
này đã không để lại trong tôi một hình ảnh nào đáng ghi nhớ, ngoài hình ảnh buồn
bã của những dẫy phố lạnh lẽo với những căn nhà màu xám nham nhở cũ kỹ. Vả lại
Hà Nội đã gắn liền tôi với một mảnh đời mà tôi thực sự muốn quên đi. Tôi không
hề nghĩ mình sẽ trở lại thành phố này lần thứ hai, nhất là sau ngày chồng tôi mất
mấy năm về trước. Chuyến đi này sẽ không xẩy ra nếu không có lời mời gần như khẩn
nài của con gái tôi muốn có mẹ đi cùng với vợ chống nó trong chuyến về Việt Nam
này.
Steve bỏ ba chiếc va ly lên sau chiếc xe
van. Cô hướng dẫn viên ngồi băng trước bảo tài xế chở chúng tôi đến nhà ga. Xe
êm êm chạy qua những con đường của Hà Nội về đêm. Những khách sạn nhiều tầng
ánh đèn lộng lẫy. Hồ Hoàn Kiếm trên vỉa hè ven hồ người tản bộ đông đảo. Trong
khung đen tháp rùa nổi lên màu trắng xanh. Cửa hàng bách hoá Tràng Tiền Plaza
sáng choang ánh đèn. Đường Trần Hưng Đạo dài rộng ngập đầy bóng tối, vỉa hè hai
bên rộng thêng thang, những hàng cây sấu to cao gốc cây sơn màu vôi trắng xoá.
Vào ga Hà Nội, chúng tôi đi theo cô hướng dẫn
bước qua những thanh ray đường sắt tiến tới một con tàu dài nằm im lìm trong
bóng tối sân ga. Đi cùng với chúng tôi là đoàn du khách ngoại quốc kéo theo những
chiếc va ly, đa số là những thanh niên thiếu nữ trẻ, ngoài va ly còn mang thêm
ba lô trên vai. Đến cửa toa ở đầu xe hoả cô hướng dẫn viên dừng lại. Cô bắt tay
Thảo và Steve, nói:
– Have a good time! See you soon. Goodbye
and good night...
Rồi quay qua tôi cô nói giọng nhỏ nhẹ lễ
phép:
–Sáng mai tàu đến Lào Cai sẽ có nhân viên của
hãng đón bác. Sẽ có ô-tô đưa bác và các anh chị đến Sapa. Chúng cháu sẽ gặp lại
bác khi bác trở lại Hà Nội vào sáng thứ Bẩy. Bác đi vui vẻ và chúc bác một đêm
ngủ ngon.
Nói xong cô chắp tay trước ngực khẽ cúi đầu
chào tôi rồi cô quay người đi trở ngược lối cũ. Bước lên tàu tôi nghĩ trong bụng:
“Người đâu mà ăn nói thanh tao dịu dàng đến thế!”. Giọng nói và phong cách của
cô ta khác hẳn những cô gái Hà Nội thuở nào tôi đã gặp trong chuyến đi Hà Nội
trước. Dù sao thì cũng đã mấy chục năm rồi còn gì. Bây giờ phải khác chứ. Vả lại,
tôi nghĩ, cô thiếu nữ này được huấn luyện đặc biệt để trở thành hướng dẫn viên
du lịch thì phải học cách ăn nói cho lịch sự chứ.
Chuyến tàu đêm toa cút xếp có máy lạnh, sạch
sẽ và tiện nghi. Con tàu dùng dằng giật nhẹ rồi chuyển bánh. Buồng nhỏ có hai
giường đôi. Người thứ tư trong buồng là một thanh niên Mỹ còn trẻ, ngang tuổi
Steve. Chẳng mấy chốc mà hai người đồng hương tình cờ gặp nhau trên chuyến tàu
đêm Hà Nội – Lào Cai trở thành bạn đồng hành tương đắc, câu chuyện qua lại trên
hai chiếc giường cao, tiếng cười nói vui vẻ. Ngồi ở hai giường dưới mẹ con tôi
chỉ yên lặng mỉm cười, thỉnh thoảng trao đổi ánh mắt. Thảo ngồi xích lại phía cửa
sổ nhìn ra ngoài. Nó giơ tay chỉ tôi ngồi gần nó. Hai mẹ con cùng nhìn ra cửa.
Tàu chạy sát những căn nhà của Hà Nội. Những quán ăn tấp nập. Những gia đình
quây quần bên mâm cơm tối. Đám trẻ bu đông trước màn ảnh TV. Những chiếc xe máy
đứng chờ sau cổng đường sắt. Rồi tàu lên cao hạ thấp dần những mái nhà xuống
phía dưới. Đoàn tàu rầm rộ trồi lên vượt qua cầu Long Biên. Âm thanh loảng xoảng
nghiến trên cầu sắt. Phía xa trên đêm đen của mặt sông Hồng trôi đi ánh đèn của
ghe chài những đốm sáng leo lét. Tàu vào huyện Gia Lâm rúc lên một hồi còi dài
“Tu tu...”... “Tu tu...”.
Tiếng còi tàu Việt Nam nghe rít cao hơn tiếng
còi hơi tôi vẫn thường nghe quen ở bên Mỹ. Qua cửa kính buồng ngủ căn nhà chúng
tôi ở chung với các con tôi nhìn xuống vịnh Puget Sound, nơi đó trên một con đường
sắt ngoằn ngoèo chạy dọc bãi biển Richmond xe hỏa mỗi ngày đi qua vùng vịnh. Từ
xa đoàn tàu trông nhỏ xinh như một món đồ chơi, tiếng còi vọng tới, trầm buồn.
“Phè phè...”... “Phè phè...”. Tiếng còi nặng nhọc như không đủ sức cất cao
trong bầu không khí ẩm lạnh của miền Tây Bắc.
Chúng tôi thường từ nhà đi bộ xuống bãi biển.
Nhất là từ ngày sức khoẻ của nhà tôi suy yếu, bác sĩ khuyên không nên ở lâu quá
trong nhà. Chúng tôi nắm tay nhau đi xuống con đường dốc, con đường tắt từ sau
nhà dẫn xuống bãi biển. Những buổi chiều mùa lạnh trời nhiều mây xám và lộng
gió bãi biển hoang vắng không một bóng người, đàn hải âu bay rối trên không
trung, tiếng chim kêu thảng thốt. Những buổi trưa hè chúng tôi thường ngồi trên
những khúc thân cây tróc vỏ nhìn thiên hạ tắm biển đi qua lại trên bãi cát, thỉnh
thoảng một chuyến xe lửa rầm rộ đi qua, mặt đất phía sau lưng rung chuyển...
“Nhìn nhưng con đường sắt, những chuyến tàu
hỏa bao giờ cũng làm anh nhớ tới thời trẻ và bao giờ cũng mang lại một cảm giác
buồn buồn”. Anh hay nói với tôi như thế cứ mỗi lần anh nghe một tiếng còi hụ
hay nhìn một chuyến tàu đi ngang. Những ngày tháng cuối cùng của đời anh anh chỉ
thích nhắc đến quá khứ và nỗi ám ảnh của anh về những chuyến đi, chuyến đi nào
cũng thấp thoáng hình ảnh con đường sắt, những chuyến tàu, những nhà ga... ga
Mường Mán, ga Tua Chàm, ga Diêu Trì, ga Kỳ Lam... của những thị trấn, thành phố
miền Trung anh đã đi qua. Nhưng buồn bã và cô tịch nhất – anh bảo – là những ga
nhỏ như ga Krongpha, ga Eo Gió ở chân đèo Ngoạn Mục.
Cửa buồng mở. Một người đàn bà bước vào. Chị
ta bận đồng phục quần xanh áo sơ mi trắng tay xách cặp da, ở túi áo có đeo phù
hiệu nhân viên hỏa xa. Thảo quay qua hỏi chị ta:
– Sáng mai mấy giờ tàu đến hả chị?
Chị ta trả lời bằng một giọng nhà quê hơi sẵng:
– Đến đâu?
– Chúng tôi đi Sapa.
– Tàu không đỗ ở Sapa. Tàu đỗ ở “Nào Cai”.
6 giờ sáng.
Nói xong chị ta mở cửa đi ra.
Nào Cai!
Giọng nói đặc biệt miền Bắc của chị là tôi
vụt sống lại những ngày xa xưa lần đầu tiên tôi đến Hà Nội. Rồi tôi chợt nhớ ra
rằng cái tuyến đưòng sắt Hà Nội-Yên Bái-Lào Cai mà tôi đang đi này cũng là tuyến
đường tôi đã đi trong chuyến tàu thăm nuôi nhà tôi. Tôi lặng người nghĩ đến
chuyến tàu cũ, chuyến tàu thảm thương ấy tôi không thể nào tưởng tượng đã từng
một lần đi qua đời tôi.
Tôi nhìn đồng hồ tay. Tàu rời Hà Nội từ hai
tiếng trước. Đứa con rể tôi và người bạn Mỹ đã ngừng nói chuyện. Ở giưòng bên
con tôi và chồng nó nằm đọc sách. Giường trên đầu tôi người bạn của Steve chắc
đã ngủ. Tôi ngồi dậy dí mũi sát cửa kính nhìn ra ngoài đêm tối cố tìm một hình ảnh
nào quen thuộc trong quá khứ... hình bóng của một cái ga xưa.
Bên ngoài ánh trăng nhợt nhạt, dẫy núi mờ
xa, đồng ruộng mênh mang từng khoang từng khoang nối tiếp như đuổi nhau dọc con
đường sắt. Mặt trăng lơ lửng trên dẫy núi mờ và hình như cũng đang lãng đãng
trôi theo con tàu. Thỉnh thoảng thoáng hiện một chòi lá, một trụ điện, một lô cốt
in trên nền trời. Giờ này tàu chưa thể đến được cái nhà ga ấy, mặc dầu đây là
chuyến tàu tốc hành; may ra thì mới tới được nửa đường, nhưng cho dù có đi qua
tôi cũng chẳng thể nào nhận ra. Tôi tin chắc nhà tôi cũng nhớ rõ như tôi, mặc
dù không bao giờ tôi được nghe anh nhắc tới trong số rất nhiều tên ga đã đi qua
trong đời anh.
Tôi nằm trên giường kéo chăn bông lên cằm.
Tiếng còi đêm “Tu.. Tu...” lâu lâu vọng về mơ hồ như từ một miền quá vãng. Theo
với tiếng động rập rình của con tàu đêm tôi chong mắt nhìn về quá khứ... tôi
tính nhẩm... thế mà đã vừa đúng 25 năm, một phần tư thế kỷ.
*
Sau ba ngày ba đêm chuyến xe hỏa xuyên Việt
đến ga Hàng Cỏ Hà Nội vào một buổi chiều mùa đông tháng 12 năm 1979. Chiếc áo
len cũ tôi giữ từ những ngày còn ở Đà Lạt không đủ làm tôi ấm áp. Tôi lễ mễ
xách hai cái giỏ nặng bước xuống tàu. Ga Hàng Cỏ ồn ào tiếng người. Cả chục chiếc
xe xích lô tranh nhau mời khách. Tôi bảo chú xích lô chở tôi đến đường Lê Thánh
Tông. Đó là địa chỉ của Bộ Giáo Dục nơi anh Tùng làm việc. Anh Tùng là người
anh họ của nhà tôi. Năm trước anh từ Hà Nội vào Sài Gòn thăm chúng tôi và cho
tôi địa chỉ này.
Lần đầu tiên đến Hà Nội tôi không có ý niệm
gì về phố xá ở đây, không biết phố Lê Thánh Tông cách ga Hàng Cỏ bao xa, nhưng
tôi nghĩ phải xa lắm. Chú xích lô đi mất cả tiếng đồng hồ cũng chưa đến nơi. Xe
đi lòng vòng mãi qua những đường phố chật hẹp của Hà Nội. Tôi thấy thành phố
này sao mà cũ kỹ và buốn tẻ quá. Nhà cửa thấp lè tè, bờ tường loang lổ vàng ố,
mái ngói nhà nào nhà nấy rêu xanh phủ đầy. Có lẽ tại tôi quen mắt từ hồi nhỏ những
toà nhà cao và khang trang ở Sài Gòn. Mà sao thành phố này lắm xe đạp thế. Đường
phố chật ních xe. Tiếng chuông xe đạp leng keng rộn rã khắp nơi.
Sau cùng chiếc xích lô đỗ trước một toà nhà
thật to. Đó là Bộ Giáo Dục. Lúc trả tiền xe, chú xích lô quất tôi bốn chục đồng.
Tôi điếng người. Bốn chục hồi đó lớn lắm. Tôi cự thì nó lại mắng tôi. Không muốn
đôi co tôi đành bấm bụng trả tiền. Vào trong bộ Giáo Dục tôi đi kiếm anh Tùng.
Sau khi biết là tôi phải trả tiền xe những bốn chục bạc, anh kêu lên: “Trời ơi!
Sao nó lấy dữ vậy?”. Tôi nói: “Ai biết đâu. Thấy nó chạy xa quá trời...” –
“Thôi chết rồi! Từ ga xe lửa lại chỗ anh có tí đường à. Nó đánh vòng vòng để lừa
em lấy tiền”. Tôi nói: “Thôi kệ! Miễn là nó đưa mình đến nơi đến chốn an toàn
là được rồi”.
Tối hôm đó tôi ngủ ở nhà anh Tùng. Anh chị
và các cháu chen chúc nhau ở trong buồng trên lầu một chung cư. Vào trong nhà
anh chị là tôi đi tìm ngay nhà bếp vì tôi muốn hâm lại một số đồ ăn thăm nuôi
tôi mang theo từ Sài Gòn. Nhà anh trống hổng, không có bếp, không có nồi nấu nướng.
Ngạc nhiên tôi hỏi anh Tùng thì được biết là dân Hà Nội ở tập thể không có nhà
nào có bếp núc nồi niêu gì ráo trọi. Công chức nhân viên bộ đội ở ngoài Bắc ăn
cơm trưa và chiều ở cơ quan rồi mới về nhà. Trong giỏ đồ ăn thăm nuôi mà mẹ chồng
tôi và tôi đã dành mấy tháng trời để sửa soạn phần lớn là đồ ăn khô có thể để
được rất lâu, nhưng tôi vẫn sợ một số ít có thể bị thiu sau ba ngày ba đêm ở
trên tàu.
Mấy tháng trước tôi lên Sở Công An quận Năm
xin gấy phép ra Bắc thăm nuôi chồng. Theo thủ tục tôi đem giấy khai sinh và một
cái thư của chồng tôi viết từ trại cải tạo chứng minh có người nhà ở tù. Thư phải
kèm cả phong bì có đóng dấu, phải nói rõ tên tuổi, số tù, lại còn phải chỉ rõ
đường đi nước bước để người trong này ra thăm không bị lạc đường. Trong khi chờ
giấy phép tôi sửa soạn đồ ăn thăm nuôi cho nhà tôi. Hồi đó bánh mì không được
mua tự do. Mua cái gì cũng phải trình hộ khẩu. Gia đình sĩ quan ngụy không được
mua gì ngoài một tháng bốn lít dầu với ít ổ bánh mì. Với hộ khẩu có tên tôi và
mẹ chồng, một ngày chúng tôi chỉ mua được hai ổ. Chúng tôi chỉ dám ăn một ổ còn
để dành một ổ xắt miếng đem ra hiên phơi khô. Còn mì gói thì tôi gom góp của
người nọ người kia từ mấy tháng trước. Ngoài bánh mì, mì gói, còn mắm ruốc, sào
xả, cơm rang phơi khô...
Sáng hôm sau anh Tùng đưa tôi trở lại nhà
ga Hàng Cỏ. Trong ga người đông vô kể. Toi thấy có rất nhiều đường rầy đến những
thành phố khác nhau: Yên Bái, Việt Trì, Thái Nguyên, Lào Cai... Trong thư của
chồng tôi có chỉ dẫn cách thức đến trại từ Hà Nội. Tôi nghĩ anh sao chép theo
cái mẫu có sẵn mà tất cả tù nhân trong trại cải tạo gửi về cho thân nhân chứ
sao mà anh có thể biết rành vậy. Nhà tôi ở trại tù Tân Lập thuộc tỉnh Phú Thọ.
Từ Hà Nội đáp chuyến tàu đi Yên Bái. Đi hơn nửa đường thì xuống ga Ấm Thượng.
Ga này cách trại tù Tân Lập khá xa, phải đi đò mới tới.
Anh Tùng chạy vào mua vé tàu cho tôi. Anh
nói cái tuyến đường sắt tôi đi là tuyến đường đi Việt Trì, Yên Bái, Lào Cai.
Trước khi lên tàu anh Tùng dặn dò tôi rất kỹ lưỡng. Anh nói: “Ở trên tàu quân
ăn cướp như rươi, phải cẩn thận dữ lắm”. Trước kia tôi cũng có nghe mấy bà thăm
nuôi kể lại là tụi cướp đường đánh hơi mấy bà vợ sĩ qua ra thăm có mang nhiều đồ
ăn, nhiều tiền, tụi nó chờ thời cơ là giựt đồ, nhất là ở những khúc đường rừng.
Tôi sợ lắm, không bao giờ rời cái giỏ xách tay đựng áo lạnh, tiền bạc, giấy tờ.
Đi ngủ tôi cũng phải gối đầu lên nó. Anh Tùng còn sợ lên tàu tôi đói bụng không
biết đường mua thức ăn nên anh dúi vào tay tôi một bao ny lông đựng cơm mắm trộn
muối mè và thịt kho.
Chuyến tàu từ Hà Nội đi Yên Bái thật khủng
khiếp. Nó bê bối hơn chuyến tàu từ Sài Gòn ra Bắc nhiều. Tàu chật ních. Người đứng
người ngồi, đồ đạc ngổn ngang trên sàn tàu. Đã thế mấy thằng du côn ngồi banh
chân banh cẳng choán hết lối đi. Tôi có đi qua chúng nó cũng làm ngơ chẳng thèm
co chân lại. Mặt chúng câng câng dễ ghét. Tôi tìm được chỗ ngồi trong góc, đút
cái giỏ đồ ăn dưới ghế, tay ôm cứng cái bọc quần áo có giấy tờ tiền bạc. Chuyến
tàu chợ này chạy chậm lắm. Đã chạy chậm lại còn ngừng ở rất nhiều ga. Mỗi lần
tàu ngừng là cả một sự hỗn loạn. Người lên người xuống chen nhau cãi vã cứ ồn cả
lên. Trước khi chạy tầu giật một cái mạnh, xô mọi người về một phía.
Một anh cán bộ vừa bước lên tàu. Anh ta
nhìn quanh. Vì ghế đã chật hết mà dưới sàn hàng hoá để ngổn ngang, anh ta đành
ngồi bệt xuống sàn, dựa lưng vào cái cửa cầu tiêu, ở gần cửa lên xuống. Tôi để
ý trên chuyến tàu đi Yên Bái này có nhiều cán bộ đi hơn là ở trên chuyến tàu từ
Nam ra Bắc. Chắc họ đi công tác. Thường cán bộ đi đâu cũng quấn ở bụng cái khăn
lông, cái ruột tượng đựng gạo, lưng đeo ba lô, lại cài thêm nồi niêu, xoong chảo
lủng la lủng lẳng. Anh này mặc bộ ka ki vàng bạc màu, đội nón cối, đi dép râu,
chỉ có ba lô, không mang theo đồ nấu nướng. Anh ta có đồ ăn làm sẵn. Mở ba lô,
anh lấy gói cơm ra ăn. Ăn từ tốn, thản nhiên, khoan thai. Lát lát anh lại né
người xịch sang một bên. Một hành khách mở hé cửa cầu tiêu, lách vào.
Tôi cũng lấy bánh chưng bóc ăn. Bánh chưng
còn nóng tôi vừa mua lúc tàu ngừng ở ga trước có người lên tàu bán. Bánh chưng
một đồng một cái. Tôi còn mua cả chuối. Chuối ăn rất ngon. Ăn xong, vừa thấy có
người mở cầu tiêu đi ra tôi vội vàng ôm cái bọc bước tới. Cầu tiêu lúc này người
ta xử dụng liền liền nên tôi không hể chần chờ.
Vừa mở cánh cửa cầu tiêu tôi bật ngửa! Trên
lối vào, trên bệ ngồi bầy nhầy một thứ nước vàng đặc sền sệt của phân người trộn
lẫn với nước tiểu. Ngay chỗ lỗ nhà trồ phân vung lên như một cái bánh bò, ngập
lên cả hai bàn chân. Từ đống phân đó vô số những con ruồi trâu bay vù lên, đâm
thẳng vào mặt tôi! Hoảng hồn tôi vội quay trở ra, đóng cửa lại. Một mùi hôi thối
theo tôi nồng nặc.
Tôi ngồi chịu trận sau đó cả tiếng đồng hồ
trong cơn mót tiểu mỗi lúc một tăng làm người tôi co quắp lại. Nhưng nghĩ đến
cái cầu tiêu gớm ghiếc kia tôi lợm người không dám trở lại. Cũng may mà tôi ăn
bánh và chuối trước đó, nếu không tôi không thể nào nuốt trôi bất cứ thứ gì vào
bụng. Trong khi đó anh cán bộ vẫn ngồi ung dung thoải mái. Ăn cơm xong, anh ta
chậm rãi đưa ngón tay trỏ lên miệng mút mút rồi xòe các ngón tay ra thè lưỡi liếm
vào lòng bàn tay. Lát sau, đầu dựa vào chiếc cánh cửa – chiếc cánh cửa hôi thối
– anh ta lim dim đôi mắt như còn đang tận hưởng dư vị của gói cơm ngon lành anh
ta vừa ăn xong.
Đến trưa tàu rời đồng bằng tới vùng trung
du. Bên ngoài là núi đồi rừng cây nối tiếp. Đến một khoảng rừng trống tàu hỏa
ngừng lại giữa đường, chắc là theo lời yêu cầu của hành khách để họ đi tiêu đi
tiểu. Thiên hạ đổ xô ra cửa. Tầu đỗ lưng chừng một ngọn đồi. Một bên là rừng
cây có bờ dốc đứng. Một bên là cánh đồng có dốc thoải xuống. Nhìn phía bên rừng
có cả trăm người đàn ông đứng thành một hàng dài, lưng quay phía tàu, tôi ngần
ngại. Tôi bảo con bé trông đồ cho tôi rồi tôi xuống tàu ở phía bên kia. Không
nhìn thấy một ai, lại thấy một con dốc, tôi lần mò đi xuống. Tôi ngồi xuống tiểu
trên bờ cỏ, mắt tôi nhìn ngược lên con tàu hỏa ở trên kia mà lòng lo sợ nó chạy
mất. Tôi đi tiểu lâu lắm. Sau mấy giờ đồng hồ nhịn trên tàu, bọng đái của tôi
tê liệt, tôi cố rặn mà nước tiểu không ra. Càng kinh hãi vì sợ tàu chạy lại
càng khiến tôi không tiểu được. Sau cùng tôi phải cố chấn tĩnh và tập trung tư
tưởng. Đến lúc nước tiểu vừa thoát ra được thì một tiếng còi hụ vang lên và con
tàu từ từ chuyển bánh!
Kinh hoảng tôi kéo vội quần lên, chạy lên bờ
dốc. Con dốc dựng ngược hơn tôi tưởng. Cứ mỗi lần hai tay tôi bám vào đất vào
đá để níu lên thì đất lại lở ra và tôi lại tụt xuống. Tôi tụt như thế hai ba lần.
Cứ mỗi lần tụt xuống thì ở phía trên một toa tầu xẹt qua! Thất kinh, bàn tay
tôi quớ quá thụp bám, trong khi dòng nước tiểu trong quần tôi vẫn tiếp tục chẩy
dọc xuống đùi. Đến lúc tôi tìm được một khúc rễ cây để bám lên được và chạy đến
sát đường rầy thì vừa vặn hai toa tầu chót đi ngang. Rất may tầu chạy không
nhanh vì đang lên dốc. Tôi víu được cái thanh sắt ở cửa đu lên. Tàu hoả có hai
mươi toa. Đó là cái cửa của toa tầu chót!
Tôi đi lần lên trên tìm về toa tầu của
mình, toa số tám, như người mất hồn. Từ đó cho đến lúc xuống ga Ấm Thượng tôi
ngồi im bất động. Tôi tưởng tượng cái cảnh nếu tôi bị bỏ lại giữa rừng thì
không biết số phận của tôi ra sao. Lúc đó hai ống quần của tôi ướt nhẹp, ép cái
lạnh cái nhớp nháp vào da đùi tôi. Nhưng nghĩ đến cái cầu tiêu khủng khiếp tôi
không dám vào đó để thay quần khác.
Mãi 8 giờ tối mới tới ga Ấm Thượng. Cùng xuống
với tôi tại ga này có khoảng ba bốn chục người. Tất cả đều là dân đi thăm nuôi
tại trại tù Tân Lập. Xuống ga chúng tôi tập trung tại một cái trạm trình giấy tờ.
Trạm là một căn nhà lá lợp tranh. Chúng tôi ngồi chờ riết tại đó cho đến sáng.
Trời lạnh như cắt da cắt thịt. Có bao nhiêu áo tôi bận hết mà vẫn thấy rét.
Sáng hôm sau đoàn người lũ lượt đi xuống một bến đò gọi là Bến Ngọc, nơi đó có
phà chở chúng tôi đi ngược dòng sông. Sông khá to, vùng này người ta gọi là suối,
có tên là Suối Mai. Chiếc phà tựa như chiếc xà-lan tôi thường thấy chở dừa chở
chuối ở bến đò Thủ Thiêm. Cả một ngày trời phà chạy trên sông tôi nhìn cảnh vật
hai bên bờ và thấy núi non ở miền Bắc khác hẳn trong Nam. Núi ở đây cao hơn, nhọn
hơn, ít cây hơn và có nhiều đá xanh. Hai bên bờ lác đác những căn nhà chòi cất
cao như kiểu nhà sàn của người Thượng. Phà đi lâu lắm. Đến tận chiều tối chúng
tôi mới đến nơi, một bến đò nằm tuốt phía dưới sâu. Đây là vùng đồi núi, từ bến
muốn lên đường cái phải lên cái dốc thiệt cao. Mọi người hì hục dinh đồ lên.
Lên trên đó có xe Molotova, một loại xe nhà binh của Liên Xô, chờ sẵn. Xe đưa
chúng tôi một quãng đường khoảng 10 cây số đến một cái trạm thì ngừng. Mọi người
xuống xe. Lúc đó đã tám giờ tối. Tôi đinh ninh là đã đến Tân Lập. Té ra còn phải
cuốc bộ thêm cả tiếng đồng hồ nữa mới đến trại. Hành lý đồ đạc của mọi người được
chất đầy trên một chiếc xe trâu, một loại xe giống như xe bò ở miền Nam nhưng
do hai con trâu kéo. Dưới ánh trăng mờ mờ, đoàn người thăm nuôi lặng lẽ đi bộ
theo xe trâu trên con đường rừng.
Khoảng 10 giờ đêm chúng tôi đến trại Tân Lập.
Mọi người trình giấy tờ ngoài cổng và được hướng dẫn đến một dẫy nhà lá ở phía
ngoài trại. Nhà này dùng làm chỗ ngủ cho dân thăm nuôi. Đó là loại nhà ở ngoài
Bắc gọi là “lán”, nhà lá lợp tranh, cột gỗ lấy trong rừng, chắc là do những ông
tù cải tạo làm và được ngăn ra từng phòng nhỏ. Mỗi người được cấp phát một cái
mền Trung Quốc có lông đỏ thật dầy. Trời ban đêm quá lạnh, có lẽ trong đời tôi
chưa bao giờ phải ngủ ở một nơi giá buốt như thế.
Sáng ra tôi trở dậy, đứng xúc miệng đánh
răng tôi nhìn xuống núi. Phía dưới kia, trong làn sương sớm, ba tên công an giắt
một đoàn tù cải tạo vác cuốc đi vào rừng lao động. Tuy nhìn từ xa nhưng tôi thấy
rõ đoàn người ai nấy đều ngoái cổ ngước nhìn lên ngọn đồi chỗ tôi đang đứng và
tôi hình dung nỗi nôn nao của họ không biết trong số những bóng đàn bà thấp thoáng
trên kia có người vợ thân yêu của mình không.
Lúc ấy lòng tôi cũng nôn nóng không kém họ.
Đã năm năm rồi còn gì. Năm năm không hề thấy bóng dáng anh. Kể từ ngày cuối tôi
tiễn anh với mớ hàng trang và thức ăn tôi sửa soạn rất kỹ để anh dùng trong thời
gian xa cách mà lúc ấy tôi nghĩ là chỉ có hai tháng. Sau năm năm chờ đợi, chốc
nữa, tôi sẽ gặp anh. Nhưng “chốc nữa” bây giờ tưởng như dài vô tận. Đã 10 giờ
sáng rồi mà tên anh chưa thấy gọi trên loa.
Ngồi bó gối trong phòng đợi tôi lấy bánh
chưng ra bóc ăn. Ăn xong tôi sực nhớ là trong bọc còn gói ny lông cơm anh Tùng
đưa tôi ở ga Hàng Cỏ từ hai hôm nay mà tôi quên khuấy đi mất. Tôi giở ra thì nắm
cơm đã thiu. Thấy giữa phòng cạnh một cái bàn có để một cái sọt rác, tôi bèn giục
cái bao cơm và cái lá bánh chưng vào đó.
Nghe trên loa đọc tên nhà tôi tôi lật đật
đi vô phòng tiếp tân. Tù cải tạo và thân nhân chỉ được phép gặp nhau trong
phòng đó nửa tiếng đồng hồ. Cứ người nọ ra thì người khác vô. Lúc tôi vào còn đứng
ở cửa thì có một anh bộ đội đang quát một cặp vợ chồng. Hết giờ thăm rồi mà bà
vợ cứ bịn rịn mãi không chịu đi ra. Anh cán bộ hét to: “Khẩn trương lên!”.
Không biết là bà ta thực sự không hiểu hay gỉa bộ không hiểu, bà ta cứ tỉnh bơ,
cứ lần chần rề rà gói đồ ăn thiệt là chậm. Bà rỉ rả nhắn chồng, nhắn có một câu
mà cứ nói tới nói lui hoài. Tôi đứng chờ mà cũng sốt cả ruột. Thấy anh cán bộ tức
giận quá tôi sợ cho ông chồng, sợ hắn trù ông ta tội nghiệp, nên mới lên tiếng
nói chữa: “Ở trong Nam người ta không nói khẩn trương. Người ta bảo nhanh lên hay
lẹ lên. Nói khẩn trương chắc bả không hiểu đâu!”. Anh ta liền nói: “Nhanh lên!”
tức thời hai ông bà kia trả lời: “Rồi, rồi! Đi liền! Đi liền!”. Ông chồng cho vội
đồ ăn vào bao rồi lật đật đi trở vô. Còn bà vợ quay lại nhìn tôi, cười khì khì,
có vẻ khoái trí vì đã lừa được anh cán bộ.
Phòng tiếp tân có một cái bàn dài như kiểu
bàn ăn, nhà tôi ngồi một đầu bàn, tôi ngồi một đầu, công an ngồi giữa.
Thoạt tiên tôi không nhận ra người ngồi
phía bên kia đầu bàn là anh. Nhà tôi vốn xưa nay tạng người gầy gò bây giờ chỉ
còn da bọc xương. Ở đầu bàn kia khuôn mặt đầy những hốc tối của người lạ mặt
thoáng vụt trong trí tôi hình ảnh chiếc sọ người có dính thịt. Rồi khuôn mặt ấy
thu nhỏ lại. Là anh. Ở cặp mắt. Nhìn nhau, tôi biết ngay là anh đã đọc được nét
sửng sốt trong ánh mắt tôi và qua ánh mắt đó, như tấm gương soi, lần đầu tiên
sau năm năm trời cải tạo, anh mới ý thức được cái diện mạo mới của mình. Tôi biết
là mình chỉ được phép gặp anh có nửa tiếng và nửa tiếng đó sẽ vụt qua nhanh lắm,
nên tôi cố hết sức đè nén xúc động, không dài dòng tỉ tê mà chỉ tóm tắt cho anh
biết rành rẽ về hiện tình ở nhà, tình trạng sức khoẻ của mọi người, nhất là của
mẹ chồng tôi, bà con những ai đã chết, đã đi xa, những người đã lập gia đình,
có con... Còn biết bao nhiêu những điều khác – nhớ nhung, xót thương – tôi chỉ
biết lặng lẽ gửi đến anh qua ánh mắt. Tôi hoàn toàn không nói với anh về những
khó khăn chồng chất mà hai mẹ con tôi phải chịu đựng trong cuộc đổi đời.
Lát sau họ đưa đồ ăn của tôi vô bầy lên
bàn. Công an mở từng gói từng gói đồ ăn ra, họ lấy chiếc đũa khều khều kiểm tra
từng li từng tí một. Xong tôi hốt đồ ăn bỏ lại trong gói. Tù thăm thân nhân từ
trại đi ra mỗi người đẩy một cái xe cút kít. Chúng tôi bỏ đồ ăn lên xe. Nửa giờ
ngắn ngủi đã hết, nhà tôi đẩy xe đồ ăn vào trại, tôi đi trở ra, chấm dứt chuyển
thăm nuôi tôi đã để cả sáu tháng trời để sửa soạn.
Trở lại phòng khách tôi thấy người ngồi chờ
đông lắm. Nhiều bộ mặt mới, chắc là những người này đi trên những chuyến tàu
sau tôi. Tôi phải ngồi chờ ở đây cho đến hết giờ thăm nuôi lúc 5 giờ chiều mới
có xe đưa về.
Trong lúc ngồi nói chuyện với một bà thăm
nuôi, tôi nhìn cái sọt rác ở giữa phòng, trên miệng sọt còn vắt cái lá chuối
gói bánh chưng tôi vứt vào đó lúc nẫy trước khi vào phòng tiếp tân. Bỗng tôi
chú ý, ngạc nhiên. Rõ ràng cái lá chuối còn dính một ít bánh chưng sao bây giờ
nó sạch bóng sạch trơn như thể có con chó nào liếm láp. Quay qua bà bên cạnh
tôi hỏi: “Ủa, có con chó nào ở đây mà tôi không thấy hả? Nó liếm sạch bách cái
lá chuối gói bánh chưng tôi mới vứt ở kia trước khi gặp nhà tôi”. Bà ta nhìn
cái là chuối nói: “Ở đó mà chó! Mấy ông tù chứ còn ai vào đây nữa! Mà phải ông
nào có phước lắm được điểm tốt lắm mới được phép ra ngoài này dọn dẹp không phải
đi lao động... Tôi đi thăm nuôi ba lần rồi tôi biết. Mấy ổng khổ lắm! Khổ còn
hơn con chó!”. Nửa tin nửa ngờ, tôi bước lai gần cái sọt rác nhìn vào bên
trong. Tôi lặng người. Nắm cơm thiu biến mất. Chỉ còn lại cái bao ny lông trong
sọt.
Tôi nghĩ đến anh lòng buồn rầu. Chắc chắn
anh không phải là người “có phước” kia. Bởi vì tôi biết chắc anh không thể nào
là người có “điểm tốt”. Tôi nghĩ đến đêm qua tôi ngủ ở đây trong căn trại này,
đến cái giá rét mùa đông đất Bắc thật là khủng khiếp và tôi nghĩ mình chắc chết
nếu đêm qua tôi không có cái mền Trung Quốc. Đó mới chỉ là một đêm trong đời
tôi. Còn anh, còn những người khác... không có cái mền Trung Quốc, không có cả
nắm cơm thiu tôi vứt đi, tháng này năm nọ như thế... Thảo nào mà anh trông rộc
cả người đi tôi không nhận ra anh nữa.
Hết giờ thăm nuôi chúng tôi mấy chục người
bắt đầu rời trại đi xuống một con dốc dài. Lúc đó mới năm giờ chiều nhưng vì
mùa đông đêm tới sớm nên trời đã gần tối. Sương chiều bắt đầu lan xuống thung
lũng. Xuống gần cuối dốc thì gặp một đoàn tù cải tạo đi lên, tôi không biết đó
có phải đoàn vác cuốc tôi trông thấy hồi sáng sớm hay không. Họ đi lao động ngược
dốc trở về trại. Đoàn tù dài lắm chắc khoảng cả trăm người được hướng dẫn bởi
ba tên cán bộ cầm súng, một tay dẫn đầu, một tay đi giữa, một tay đi sau cùng.
Lần này vì đi gần nên tôi trông thấy rõ đôi mắt những người tù, những đôi mắt
thật buồn, thật tội nghiệp.
Lần đi về chúng tôi không đi lại con đường
cũ, không đi phà trên sông như ngày hôm trước mà có xe Molotova chở thẳng chúng
tôi đến ga Ấm Thượng. Xe đi trong đường rừng suốt ba tiếng đồng hồ. Đến ga khoảng
8 giờ tối.
Vừa ngồi ở trạm không lâu thì có chuyến tầu
trờ tới. Tầu vừa ngừng ở trạm thì đàn người thăm nuôi, phần lớn là đàn bà trong
số có nhiều bà cụ vội vã chen nhau trước cửa toa tranh nhau lên. Toa tàu chắc
đã nghẹt người bên trong nên nhiều người không lèn vào được. Đã thế lại có những
thằng mất dậy ngồi dạng cẳng ở bậc cửa choán hết lối đi. Một cảnh hỗn loạn xẩy
ra. Ông trưởng trạm chạy ra nói: “Thôi! Lên vừa vừa thôi! Ở lại còn chuyến nữa
9 giờ. Làm gì mà chen dữ vậy!”. Nghe thấy thế tôi khều mấy người tôi mới quen ở
trại ở lại với tôi. Tôi nói: “Đợi chuyến sau đi! Việc gì mà phải chen lấn. Mà
tàu cũng sắp chạy đến nơi rồi, nó chỉ ngừng ở ga có 8 phút thôi”. Lúc ấy có một
bà lão trên bẩy chục tuổi, mặc dù tầu đã hụ còi mà còn ráng bám vào cửa tính đu
lên. Mới chân trên chân dưới thì tầu phát chạy lôi bà ta sền sệt trên mặt đá
răm cạnh đường rầy một quãng dài rồi quẳng bà lão nằm sóng sượt trên đất. Mọi
người vội chạy tới vực bà đưa vào trong trạm. Một chân của bà máu mê ướt đẫm cả
quần. Bà ta người quê ở Vĩnh Long lặn lội từ đó ra thăm con. Buổi trưa, lúc
chúng tôi ngồi chờ xe trong phòng đợi ở trại Tân Lập, chính bà ta đã khóc quá
trời kể tôi nghe con bà đi lao động đốn cây, bị té xuống núi gẫy cẳng. Trong trại
tù làm gì có nạng. Anh ta dùng hai khúc cây chặt ở trong rừng làm nạng chống khập
khễnh từ trong trại đi ra khu tiếp tân gặp mẹ. Bây gờ thì cả con lẫn mẹ đều bị
gẫy chân.
Một tiếng sau thì chuyến tàu 9 giờ tới.
Chuyến này cũng đông không kém chuyến tàu trước và cảnh chen lấn để lên tàu lại
tái diễn. Tôi để ý là những toa ở phía sau có ít người lên xuống hơn những toa
đầu nên tôi cùng với vài người chạy dọc theo đuờng rầy về phía cuối tàu. Chúng
tôi xô nhau lên toa. Vào được trong toa rồi thì, quái lạ, toa tàu tối thui! Tôi
nghĩ bụng: “Người ta không bật đèn chắc là để tiết kiệm điện. Không thấy đường
tốt nhất là mình nên đứng yên một chỗ”. Tôi mừng thầm là dù sao mình cũng leo
lên được chuyến tàu chót.
Tàu chạy. Nó giựt một cái mạnh làm tôi xiêu
người một bên. Hoảng hồn, sợ bị té, tôi từ từ ngồi xuống. Tôi ngồi bệt xuống
sàn. Tay tôi quờ quạng trong bóng tối xem có cái ghế ngồi nào ở chung quanh
không. Trống hổng. Sờ phía sau lưng tay tôi đụng thành tàu, tôi chống tay lùi dần
đít về phía sau, cho đến khi tôi dựa được lưng vào đó.
Tôi ngồi yên như thế lâu lắm. Thường thường
khi con mắt đã quen với bóng tối tôi có thể nhìn thấy được cảnh vật dù rất lờ mờ.
Đằng này không. Tuyệt nhiên trong toa tối đen như mực. Bỗng tôi có một cảm giác
là lạ là tôi không ở trong một toa tàu hỏa bình thường. Tôi xoè bàn tay mò mò
trên sàn để thám hiểm xung quanh. Bỗng tay tôi mò trúng một đống gì sền sệt ướt
ướt. Tôi đưa tay lên mũi ngửi. Trời! Cứt heo! Tôi hoảng hồn: “Ủa! Cứt heo đâu
trên xe lửa vậy ha!”. Ngồi lê trên sàn tôi quờ quờ phía trước. Tay tôi đụng mấy
con heo. Chúng nằm cả đống ở đó. Thì ra đây là toa chở heo! Không muốn ngổi gần
mấy con heo tôi dịch qua phía bên kia để tránh. Hơn nữa sàn tàu nhớp nháp dơ
dáy quá tôi phải tìm cho ra chiếc ghế để ngồi. Mò mãi không ra ghế. Tay tôi lại
đụng thêm một vật gì bầy nhầy. Đưa lên ngửi: Cứt vịt! Một bãi khác: Cứt gà! Tôi
quờ tay lên trên. Gà vịt một bầy ở đó. Thôi, tôi rút lui, không muốn thám hiểm
thêm. Tôi thụt lui, thụt lui. Tôi không về đúng chỗ cũ vì khi ngồi dựa vào
thành tàu tôi ngồi ở giữa hai người, chắc là hai người đàn ông, lúc ấy đang ngủ
gục ngáy khò khò. Hồi lâu một cái đầu ngoẹo sang đè xuống vai tôi. Nghĩ thằng
cha này lợi dụng bóng tối để dê mình tôi đẩy mạnh ra. Nhưng hình như hắn chỉ ngủ
say, người hắn mềm xuội, chốc chốc cái cổ lại vẹo sang một bên. Tôi nhích người
phía bên kia để tránh thì lại đụng thằng thứ hai. Thằng này còn tệ hơn! Cái đầu
nó gục lên vai tôi nặng đến độ tôi không hất ra được. Rồi hự một cái. Trời ơi
nó ói! Nó ói nhớt dãi thốc vào cổ tôi, chẩy xuống ướt cả phần trên chiếc áo.
Thôi rồi! Mấy thằng này nó say xe chứ không phải dê mình. Tôi ngồi chịu trận
như thế. Lâu lắm. Suốt đêm. Bên cạnh tôi hai người đàn ông bây giờ đã ngủ say,
ngáy khò khò. Tiếng ngáy to cộng thêm với cái cổ nhớp nháp của tôi đưa lên một
mùi chua nồng làm tôi rùng mình, không sao chợp mắt được. Đến gần sáng có lẽ vì
quá mệt tôi thiếp đi.
Lúc tỉnh dậy thì tàu vừa đến ga Hà Nội. Trời
sáng bạch. Hai người bên cạnh tôi vẫn còn ngủ vùi. Nhìn gương mặt họ tôi mới biết
đó là hai người Thượng, có lẽ họ bị ói mửa vì không quen đi tàu. Tôi nhìn khắp
trong toa. Nào heo nào gà nào chuối nào bắp nào bí nào khoai... lổn ngổn đầy
toa. Thì ra những toa trên là toa hành khách còn những toa ở cuối tàu chỉ để chở
hàng, thảo nào mà đêm qua không có ai tranh nhau lên.
Lúc tôi xuống tàu gặp lại mấy bà quen họ rủ
tôi đi mướn khách sạn. Ai nấy đều khuyên tôi là dù có người quen cũng không nên
ở vì nhà cửa Hà Nội chật và đông đúc lắm. Mấy người chung nhau mướn khách sạn ở
Đường Thành. Tôi tắm rửa sạch sẽ rồi ngủ một giấc dài. Đến chiều tôi kiếm anh
Tùng. Anh Tùng lấy xe chở tôi đi. Ngồi sau chiếc xe đạp cũ kỹ của người anh họ
lần đầu tiên trong đời tôi thăm Hà Nội 36 phố phường.
Hôm sau anh Tùng ra ga Hàng Cỏ tiễn tôi vào
Nam. Anh nói là lần tới ra thăm nuôi thì nhớ lại ghé anh. Hai chữ “lần tới” làm
tôi nhớ đến câu nói của nhà tôi trước khi chia tay. Anh cũng nhắc đến “lần tới”.
Tôi nói với nhà tôi là mỗi lần ra Bắc tốn kém lắm, có thể phải bán cả cái xe
Honda đi. Anh bảo: “Thì bán!”. Tôi không nói gì. Anh không biết rằng cái xe
chính là nồi cơm của mẹ con tôi, bán đi thì lấy gì mà sống. Bây giờ, sau chuyến
thăm nhà tôi, tôi có thêm một lý do nữa để tin rằng sẽ không có “lần tới”. Nghĩ
đến hai chuyến tàu trên tuyến đường ga Ấm Thượng tôi rùng mình. Tôi thật tình không
muốn phải đi lại tuyến đường ấy một lần thứ hai.
Rất may cho chúng tôi là một năm sau chuyến
thăm nuôi ấy nhà tôi được thả về.
*
Xuống ga Lào Cai chúng tôi được nhân viên của
hãng du lịch đón và đưa chúng tôi đi Sapa, cách Lào Cai khoảng hơn ba chục cây
số. Trên chiếc xe van ngoài ba chúng tôi còn có Brian, người bạn mới của con rể
tôi và hai du khách người Úc. Xe đi trên con đường đèo chật hẹp quanh co. Tôi
nhìn hai bên đường. Phong cảnh nơi đây tuyệt đẹp. Sương hoà lẫn mây giăng phủ dẫy
núi cao. Lưng chừng những ngọn đồi bờ đất chạy ngoằn ngoèo ôm lấy những khoang
ruộng vàng rực trong ánh nắng mai từng lớp từng lớp đi lên như những bậc thang.
Gấp cuốn sách “Vietnam: the update guide
book” đặt trên đùi, Thảo quay qua hỏi tôi:
– Đêm qua mẹ ngủ ngon không?
Tôi trả lời con:
– Mẹ ngủ cũng tàm tạm.
Thật ra đêm qua trong toa tàu tôi trăn trở
mãi không ngủ được và khi tôi thiếp đi giấc ngủ lại đầy mộng mị.
Con tôi rời Việt Nam lúc còn nhỏ. Nó thuộc
một thế hệ khác và lớn lên trong một thế giới khác. Sau khi nhà tôi mất nó trở
thành giọt máu thân thương duy nhất của tôi. Tuy thế không bao giờ tôi tâm sự với
nó về những chuyện buồn cũ. Bởi vì tôi biết chắc dù mình có diễn tả cách nào nó
cũng chẳng thể nào hình dung ra nổi chứ đừng nói đến chuyện thấu hiểu. Vả lại
nói cho cùng nó cần gì biết những chuyện xưa ấy.
Thảo nhìn ra ngoài xe rồi giơ máy ảnh chụp
hai người đàn bà Thượng vai đeo gù lưng bọc con đi dọc ven đường. Nó nói:
– Cuốn sách này “rate” Sapa những 3 sao. Họ
nói Sapa cũng như vịnh Hạ Long là hai thắng cảnh du khách không thể bỏ qua khi
đến miền Bắc của Việt Nam.
Tôi yên lặng. Tôi ao ước được như con tôi:
đến Sapa và nhìn Sapa dưới con mắt thuần túy của một du khách. Dưới con mắt vô
tư ấy Sapa dễ dàng được đánh giá bằng con số của những ngôi sao. Còn tôi, tôi
không thể nhìn cảnh trí nơi đây một cách bàng quan như thế. Tôi không thể nhìn
nó mà không kèm theo những xúc động vui buồn hết sức riêng tư.
Vui vì Sapa là một thị trấn trong mộng tưởng
của nhà tôi mà hôm nay tôi thay mặt anh đến thăm. Hồi anh còn bé có một lần cha
anh kể anh nghe về Sapa và anh cứ nhớ mãi. Từ đó Sapa ăn sâu vào tuổi thơ anh
như một cảnh trí thần tiên. Trong tâm tưởng anh Sapa là một thị trấn nằm trên
mây, một thị trấn lãng đãng chìm đắm trong sương khói. Đó là nơi anh chờ đợi nhiều
nhất để đến trong chuyến trở về Việt Nam của chúng tôi. Chẳng may anh mất trước
chuyến đi được dự trù không lâu.
Buồn vì cảnh trí nơi này chưa đi mà đã làm
tôi muốn ứa nước mắt. Khi tôi nhìn xuống chân đồi kia trong làn khói sương bay
tỏa một đoàn mấy người Thượng mang gù vào rừng đốn củi tôi không khỏi liên tưỏng
đến cái cảnh ba tên công an cầm súng dẫn một đoàn tù dài vác cuốc vào rừng lao
động, đoàn tù cúi mặt lầm lũi đi trong sương sớm.
Nguyễn
Tường Thiết