Cúng việc lề ỏ Long an ngày nay
Cúng «Vật lề» hay cúng «Việc lề» là một nét đẹp trong truyền
thống thờ cúng tổ tiên nhưng nó mang những ý nghĩa vô cùng độc đáo và chi có ở
xứ Nam kỳ mà thôi. Ngày nay còn thấy tục cúng này ở vài nơi trong tỉnh Long An,
Mỹ tho, Bến tre, Sa đéc, An giang.
Lớp người xưa gọi là cúng «Vật lề», cúng Lề, giỗ Hiệp, giổ
«Gộp»* . Nhưng nói cúng «Việc lề» thì phổ thông hơn và còn thông dụng đến ngày
nay.
Cúng «Việc lề» là lễ cúng tổ tiên đã thành một sự việc truyền thống theo một nề nếp, lề thói, tục lệ . Cúng «Việc lề» chỉ có ở Nam kỳ vì nó hình thành từ làn sóng di dân khai hoang lập ấp dưới thời các Chúa Nguyễn . Trước kia, cúng « Việc lề » có ở miền Trung nhưng chưa kịp định hình thành một sắc thái văn hóa như ở Nam kỳ . Có lẽ những người Trung kỳ này từ Bắc di dân vào Đàn trong, sau đó lại theo Chúa Nguyễn tiến vào Nam mở mang bờ cõi nên đem theo luôn vào Nam tục lệ này vì lễ vật cúng có những món ăn quen thuộc của Miền Trung như món «cháo ám»(*) mà ngày nay vẫn không thấy thiếu trong lễ cúng « Việc lề » ở Nam kỳ.
Cúng «Việc lề» khá phức tạp vì việc cúng này bao hàm nhiều nội
dung khác nhau. Trước hết là cúng Tổ tiên, sau là cúng Đất, cúng Cô hồn hay
cúng Thí thực, cầu an cho dòng họ. Theo cách thờ cúng thì tổ tiên từ đời thứ
năm trở về trước, con cháu không cúng riêng theo ngày mất nữa mà lập chung bài
vị đưa về Từ đường thờ cúng theo một ngày được các vị trưởng tộc chọn. Vào Nam,
các thế hệ sau không biết hoặc không nhớ nên chỉ giữ lệ cúng và chọn ngày cúng
tùy hoàn cảnh của mình.
Tục cúng «Việc lề» của người Trung và người Nam có một
số điểm khác nhau. Như ở Nam kỳ, cúng «Việc lề» là tạo dựng lại hình ảnh cuộc
sống nhọc nhằn, cơ cực của ông bà, tổ tiên thời xưa lúc đi khai hoang, lập ấp ở
vùng đất này, thể hiện qua cách bày lễ cúng. Các món cúng được dọn trên bàn hoặc
thường thì trên chiếu trải dưới đất ngoài sân, chén bằng gáo dừa, đũa làm bằng
thân cọng lác… Việc tổ chức cúng được luân phiên nhau trong các chi của dòng họ
nếu biết được và có giử liên lạc với nhau.
Còn ở miền Trung thì cúng «Việc lề» chỉ tổ chức ở Từ đường
của những dòng họ, chi phí do các chi phái của tộc họ đóng góp với nhau để làm
lễ cúng.
Thời gian tổ chức cúng «Việc lề» thường là trong
tháng Giêng hoặc sau Tết Nguyên đán, tức ngày mùng 4. Tuy nhiên, cũng có
một số địa phương ở Long An tổ chức cúng trong lúc gặt hái xong, hay ở
Đồng Tháp, tổ chức vào mùa cá…
Ý nghĩa cúng «Việc lề»
Xin nhắc lại tục cúng «việc lề» là do lưu dân từ miền Bắc,
Trung vào Nam trong chương trình khai hoang mở cõi ở đất Nam kỳ lập ra khi định
cư xong. Đó không gì khác hơn là hình thức đơn giản của lễ cúng giỗ tổ tiên, tức
những người có công trong việc tạo dựng nên một dòng họ và nay lập nghiệp ở đất
Nam kỳ. Tuy nhiên, khi đến xứ Nam kỳ, do hoàn cảnh hoàn toàn mới lạ, sự sanh hoạt
cũng khác xưa lúc còn ở quê nhà, mà tín ngưỡng này mang những sắc thái riêng.
Tuy có nhiều tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung vẫn là hình thức giỗ tổ tiên của
một dòng họ.
Trong tâm thức của người Việt, dù ở bất kỳ nơi nào, lời xưa
dạy “Uống nước nhớ nguồn”, “Chim có tổ người có tông” luôn bám chặt
trong lối sống, nếp suy nghĩ, trở thành đạo lý của họ. Đặc biệt, khi đến vùng đất
mới, quan hệ họ hàng không còn như ở quê nhà. Nơi đây mọi người không bị ràng
buộc bởi những lệ làng, hương ước, nhứt là mối quan hệ họ hàng. Tuy nhiên,
không phải vì những lý do đó mà người Việt ở vùng đất mới vội quên đi cội nguồn,
bà con dòng họ của mình. Họ vẫn luôn cố gìn giữ cội nguồn theo trí nhớ, sự hiểu
biết của mình qua nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức cúng «
việc lề » với những thức cúng đặc trưng của mỗi dòng họ như là một thông
tin đặc biệt giúp họ nhận ra nhau .
Sơ lược nguồn gốc
Dân ở vùng đất mới có gốc gác là những lưu dân từ phía Bắc của
miền Trung và vùng Ngũ Quảng đi vào Nam để mở mang bờ cõi theo chủ trương của
các chúa Nguyễn. Phần lớn họ là nông dân, thợ thủ công vì nhiều lý do khác
nhau phải rời bỏ quê hương tìm đến vùng đất mới để sinh sống. Ngoài ra còn có
quan lại, binh lính được gởi theo làm nhiệm vụ, các nhà nho, thầy thuốc, nhà sư
và cả những tội đồ bị lưu đày biệt xứ… Trong số đó có cả những phần tử tội phạm
bị truy nã, phải thay tên đổi họ cũng tìm đến nơi này trốn tránh .
Đến vùng đất mới, những lưu dân mang theo vốn văn hóa truyền
thống của quê hương, đặc biệt là không thể thiếu việc thờ cúng tổ tiên. Trong
tâm thức của họ, tổ tiên luôn hiện diện và phù hộ họ, che chở họ tránh được tai
ương, bệnh tật trên bước đường lập nghiêp. Vì vậy, trong mỗi gia đình người Việt
ở đất Nam kỳ, dù giàu hay nghèo, đều có bàn thờ ông bà tổ tiên. Ngay cả những
cư dân không có đất để sanh sống phải rày đây mai đó, lênh đênh trên sông nước
thì trên ghe của họ vẫn có một nơi thật trang trọng để thờ cúng tổ tiên. Khi
quan hệ dòng họ không còn gần gủi như lúc còn ở quê nhà, nhiều dòng họ mong muốn
thắt chặt thêm tình thân huyết thống, bà con họ hàng hoặc chỉ là người làng kẻ
nước bằng hình thức cúng « việc lề ». Đây là cách để bà con thân
thuộc có dịp gặp gỡ nhau và ôn lại truyền thống của tổ tiên, với những thức
cúng đặc trưng để nhìn nhận dòng họ. Đó là ý nghĩa quan trọng của tục cúng việc
lề.
Hình thức cúng «việc lề»
Dân Nam kỳ đều từ Miền Bắc và Trung vào nhưng họ cũng không
phải đều cùng họ hàng hay cùng làng xóm với nhau . Nên khi đã có cuộc sống mới,
để nhận biết, mỗi dòng họ đều có thức cúng, ngày cúng và cách chế biến riêng thức
cúng theo tập quán của từng dòng họ. Những đặc tính riêng này được thế hệ trước
truyền miệng lại cho thế hệ sau.
Những lưu dân tới nơi nào mà thấy hình thức cúng, thức cúng
và ngày cúng giống với dòng họ mình thì có thể nhìn nhận họ hàng với nhau.
Về ngày cúng, có họ lấy ngày mất của vị thủy tổ, hoặc lấy
ngày cúng thường niên của tổ tiên, hay họ thống nhất một ngày nào đó dễ nhớ để
con cháu có thể tham dự. Thông thường, ngày cúng «việc lề» được tổ chức vào dịp
mùa màng đã thu hoạch xong hoặc lúc sản vật, tôm cá dồi dào để con cháu có điều
kiện tổ chức cúng tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho họ trên vùng đất mới.
Cúng «việc lề» trước là để tưởng nhớ đến tổ tiên dòng họ ở
miền Bắc, miền Trung, sau là tưởng nhớ đến công ơn của những tiền nhân của dòng
họ có công trong việc khai hoang và tạo dựng nên vùng đất mới này.
Về thức cúng, như đã nói, do hoàn cảnh lịch sử nên từng dòng
họ đặt ra cách cúng, thức cúng và ngày cúng riêng. Nó mang đậm dấu ấn thời kỳ
khai hoang của dân miền Trung đến định cư tại miền Tây Nam Việt. Vì vậy, nghi
thức cúng và thức cúng phản ánh hoàn cảnh sống thiếu thốn của lưu dân những
ngày đầu đến khai phá vùng đất mới. Trong lễ cúng, người ta cố nhắc lại cuộc sống
đầy khó khăn, cơ cực của tổ tiên xưa đi khẩn hoang như bày thức cúng ở ngoài
sân trên những tấm đệm bàng hay chiếc chiếu trải dưới đất, dùng lá sen, lá
khoai môn làm dĩa, lấy gáo dừa, bẹ chuối làm chén, bẻ cọng tre, cọng cỏ làm
đũa,… Thức cúng toàn là những món ăn đạm bạc, đơn sơ phản ánh hoàn cảnh sống
thiếu thốn lúc bấy giờ của tiền nhân như cá lóc nướng trui, cháo ám* (cạo nhớt,
đánh vảy, không chặt bỏ kỳ, vi, đuôi cá), rau dại mọc ven sông như rau ráng,
điên điển, bông súng,… mắm sống, cốm nổ rang,… Như trong câu đối treo ở lễ cúng
« việc lề » của kiến họ Đỗ Tường ở xã Dương Xuân Hội, huyện Châu
Thành, tỉnh Long An (Ngô thị Hồng Quế, Bước đầu tìm hiểu tục cùng việc lề, Bút
ký điền dã, 2015):
Như đã biết các món bày cúng «việc lề» trên chiếu trải ở
ngoài sân thât sự đó là những qui ước của dòng họ, của người cùng làng, cùng
xóm để giúp nhận nhau .Lễ cúng làm ở ngoài trời thay vì ở trong nhà, trên bàn
thờ cho trang nghiêm, vì chủ ý để cho người tình cờ qua lại trông thấy mà nhận
ra dấu hiệu họ hàng .
Ngoài ra, có người cho biết thêm một số món ăn được một số
dòng họ ở miền Tây ngày nay bày ra cúng việc lề như sau:
Trong lễ cúng còn có thêm một tục lệ đặc biệt là cháo ám, cá
lóc nướng trui được đặt trên lá khoai môn và lá ô rô , tất cả đem để lên một
chiếc ghe bầu (làm bằng là và bẹ dừa nước). Bên trong ghe bầu còn để một cặp
cà-ràng, một bịch gạo, một bịch muối, một bó củi, một vài miếng thịt sống trong
một cái chén bằng giấy, hai cái lọ nhỏ, một lọ đựng nước và một lọ đựng rượu
(có ghi chữ nước và chữ rượu bên ngoài) . Nghe nói ngày nay, người ta gởi theo
tiền để ông bà làm lộ phí đi đường (cả xì ra cho công an khi cần) . Chiếc ghe bầu
trong lễ cúng để nhắc lại ông bà tổ tiên xưa đi vào Nam bằng đường biển . Cúng
xong, chiếc ghe bầu được đem thả ra sông, tiển ông bà về cố hương . Chiếc ghe bầu
gợi lại cảnh Nam tiến ngày xưa . Nay con cháu cho ông bà «Bắc hồi” để thăm lại
cố hương với lời khấn vái“Ông bà đi mạnh giỏi”.
Khi chiếc thuyền được gió đẩy trôi theo dòng nước càng lúc
càng xa, người cúng vui mừng vì nghĩ ông bà đã thuận buồm xuôi gió quay về cố
hương và cũng có ý nghĩa rằng con cháu sẽ làm ăn hanh thông như chiếc thuyền
kia trôi đi không gặp trở ngại.
Cúng «việc lề» được giữ cho tới ngày nay
Dân Nam kỳ khi cúng «việc lề» còn cúng «thí thực» hay cúng
«Đất đai» ngày nay vẫn còn kèm theo lễ giỗ. Người ta không cúng một mâm cơm để
ngoài sân dành cho cô hồn, cho những vong linh xấu số “xiêu mồ lạc mả”, chết
khi phiêu bạt, tha phương trên bước đường khẩn hoang, lập nghiệp, không có con
cháu cúng kiếng, như trước kia, mà bày mâm cúng trên bàn đặt ngay cửa chánh.
Người cúng phải cúng ở bàn này trước, để xin phép Đất đai, tức
người đã khai khẩn vùng đất này, hay người đã ở chỗ này trước đây, cho phép ông
bà, cha mẹ về dự đám giỗ rồi mới tới cúng ông bà, cha mẹ .Trong tâm thức của cư
dân Nam kỳ, họ không chỉ muốn chia sẻ, an ủi những vong linh xấu số, xa lạ mà
còn tin rằng trong số ấy, còn có cả họ hàng, thân thích trong gia tộc mình đã
chẳng may bỏ mạng trên đường khẩn hoang lập nghiệp hoặc ví nạn đao binh .
Cúng «Đất đai» còn hàm nghĩa là cúng «tá thổ» (mướn đất), hoặc
cúng «chủ thổ», là một dạng tín ngưỡng xuất xứ từ tục cúng “Tá thổ kỳ yên” của
dân vùng Ngũ Quảng tới lập nghiệp ở miền Tây xứ Nam kỳ (Ngô thị Hồng Quế, nt) .
Tục cúng “tá thổ” rất được nông dân coi trọng và đã được địa phương hoá . Vùng
đất này khi mới khai phá còn quá khắc nghiệt như thú dữ, nước độc, dịch bệnh…,
nên người ta cúng đất ngụ ý mua hay thuê, hoặc mượn tạm đất của thần linh hay của
người chủ trước để gia đình dòng họ được yên ổn làm ăn, sinh sống . Trong tâm
thức của người lưu dân, mảnh đất nơi họ đang sống, trước đây thuộc quyền sở hữu
của một người chủ nào đó, nên họ phải cúng tạ lễ người chủ cũ để họ được sanh sống
và canh tác bình yên.
Vì vậy, việc cúng thổ chủ là một việc làm hết sức cần thiết,
trước là để tạ lễ, ghi nhớ công ơn của những người chủ cũ, sau là để cầu mong sự
an lành cho gia đạo trong cuộc sống. Ý nghĩa của tục cúng «việc lề» còn thể hiện
tình cảm và lòng biết ơn của thế hệ hôm nay đối với tiền nhơn đã tới nơi này.
Cúng «việc lề» được lưu giữ cho đến ngày nay vì nó đích thực
là một hình thức sanh hoạt văn hóa truyền thống dân tộc mà ngày nay chỉ còn một
số dòng họ lớn ở xứ Nam kỳ gìn giữ. Và chỉ có ở Nam kỳ do lịch sử hình thành
vùng đất mới này.
Cúng «việc lề» mang ý nghĩa tưởng nhớ đến công lao khó nhọc
của tổ tiên trong việc khai hoang mở cõi về phương Nam và nhắc nhở con cháu
ngày nay phải nhớ công ơn to lớn ấy .
Thật ra thờ cúng tổ tiên, tiền nhơn có công với đất nước, ở
đâu cũn có . Hình thức khác nhau mà thôi. Như xây tượng đài, đặt tên đường phố,
dinh thự, …Nhưng cách thờ cúng tiền nhơn của người Việt Nam khác hẳn vì nó có nội
dung thâm hậu của nó . Người Việt nam thờ cúng tổ tiên không chỉ ở 4 thế hệ mà
còn đi ngược lên nhiều thế hệ nữa như lễ cúng «Việc lề» . Trong tâm thức người
Việt nam, ông bà đời đời hiện hũu ở lễ cúng, nghĩa là Dân tộc trường tồn.
Một dân tộc có văn hóa như vậy mà bị cộng sản Hồ Chí Minh,
thứ vô văn hóa đô hộ được tới nay là điều rất đáng lấy làm lạ và đáng suy nghĩ
thêm!
*Giỗ gộp: gom lại những người phải cúng mà cúng chung . «Gộp»
là gom chung lại. Tiếng nam kỳ đặc sệt.
*Cháo ám, Gs Nguyễn văn Sâm giải nghĩa :
Chữ ÁM có nhiều nghĩa, nghĩa phù hợp với từ cháo ám nhứt
là chiếm giữ như :
Giải thích từ nầy theo cuốn Tự Vị An Nam La
tinhh do Pierre Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) viết năm
1772-1773 do LM Nguyễn Khắc Xuyên dịch lại và in năm 1999, tại
Sàigòn.
Từ đây có thể đi đến giải thích sau:
Thường người Bắc và Trung nấu cháo, nấu canh thường
luộc con cá và rỉa ra lấy thịt cá để nấu vì sợ xương cá làm mắc
xương trẻ con người già. Hiện giờ người Bác vẫn nấu canh bầu bí với
cá rô, cá trê kiều nầy.
Nhưng có lúc (chậm lắm là thế kỷ 18) người ta
nghĩ rằng nấu như vậy thì mất đi phần nào chất ngọt từ xương
con cá nên họ nấu ám nghĩa là nấu nguyên con cá (Sau khi làm sạch). Rồi mới có
từ nấu cháo ám.
Dĩ nhiên là sau thời gian sự nấu kiểu nầy có thề thay
đổi chút ít, như không cho giở nắm vung để giữ lại tất cả hương vị.
Trong Nam nấu canh, nấu cháo cũng là một biến thể của nấu
ám mà thôi:
Dĩ nhiên là nấu theo cách biến thể của nấu ám
vì con cá không bị luộc trước rồi rỉa mà được nấu sau khi con
cá được làm sạch và chặt thành vài ba khúc.
Đó là giải thích theo tự điển xưa. Không thấy các tự
điển khác có từ nấu ám, ngoài cuốn TĐ của G. Cordier Annamite-Prancais,
1930 cắt nghĩa
Ám: Potade du riz avec poisson, ông Cordier chú trọng
đến chữ cá mà không chú trọng đến cách nấu.
Tự điển Việt- hoa-Pháp của Gouin (trang 861) Nấu
ám: cuire du poisson avec des herbes. Ông nầy nói tới chuyện bỏ vô
rau mà vẫn không nói cách nấu.
có những yếu tố: Gạo, cá nguyên con, rau cỏ và chăm chúc cẩn
thận.
Người ta tuỳ theo ý thích làm gì đó cải biên cải
tiến thì tùy..
Nguyễn thị Cỏ May