Bài thơ đầu tiên tôi làm vào năm mười bốn tuổi. Trong một sớm
một chiều tôi trở thành thi sĩ vì bài thơ đầu tiên ấy được vị giáo sư dạy việt
văn cho điểm cao nhất lớp. Suốt thời gian từ tuổi mười bốn đến tuổi hai mươi,
tôi đã làm trên dưới hai trăm bài thơ, hầu hết là thơ thất tình, mặc dù ngoài đời
tôi không bị tình yêu ngược đãi cho lắm. Trong số hai trăm bài thơ đặc sệt chất
thơ tiền chiến của tôi thời đó, tôi chỉ nhớ một bài. Bài thơ nầy tôi nhớ từng
chữ, từng câu, và mỗi lần có dịp đọc lại là mỗi lần lòng tôi xao xuyến. Bài thơ
nói về một người đàn bà, một người đàn bà từng chăm sóc tôi như một người chị
chăm sóc một người em trai.
Tôi không nhớ ai đã giới thiệu tôi đến ở trọ căn nhà đó. Chỉ
nhớ tôi dọn đến ở đó sau khi tôi nhất quyết không chịu tiếp tục ở chung phòng với
anh Quý, anh con trai của bà thím tôi. Anh nầy đang học ngành kiến trúc năm thứ
hai. Anh có tật cứ mỗi lần về phòng là mở nhạc cổ điển tây phương thật lớn nghe
muốn vỡ cả màng nhĩ. Tôi thì mới ghi danh học môn sinh lý hóa ở Đại Học Khoa Học.
Nhìn mấy chồng bài in ronéo dầy cộm vừa mới mua, tôi phát ớn.
Tôi không biết anh con trai của bà thím tôi, anh học lúc nào, chỉ biết mỗi ngày
từ sáu giờ chiều đến chín giờ tối, anh chỉ nằm hoặc đi lui đi tới trong phòng
nghe nhạc. Hết Beethoven đến Mozart, hết Mozart đến Chopin. Tôi có cảm tưởng anh Quý muốn chứng tỏ với tôi, anh là người biết nghe nhạc,
anh đã đến trình độ nghe được nhạc không lời. Mỗi tối tôi phải nằm đọc báo, chờ
cho anh Quý tắt nhạc lên giường ngủ, tôi mới ngồi vào bàn học. Nhưng chỉ học được
chừng một tiếng là tôi buồn ngủ. Sau hai tháng, thấy mình chạy theo không kịp
bài vở, tôi bực bội than phiền với bà cụ nấu cơm cho hai người ăn. Một buổi chiều
tôi về sau anh Quý, anh chận tôi ngay ở cửa vào và nói với giọng rất kẻ cả:
– Duy có học thì học trong khi tôi đi vắng. Tôi về nhà thì
tôi phải nghe nhạc.
Tôi trả lời đúng những gì tôi nghĩ trong đầu:
– Em thì phải thật im lặng em mới học được.
– Gia đình Duy muốn Duy ở chung với tôi, chứ tôi đâu có muốn.
Tôi nói lại tôi vẫn tiếp tục nghe nhạc. Còn Duy ở hay đi thì tùy.
Lần đầu tiên trong đời, tôi lấy một quyết định mà không hỏi ý kiến gia đình.
Tôi nghĩ tôi đã lớn. Tôi dọn nhà một tuần sau đó mặc dù bà cụ nấu cơm khẩn khoản
tôi ở lại vì tôi đi, bà cụ mất một phần cơm tháng.
Đến giờ nầy tôi vẫn không nhớ ai đã giới thiệu tôi đến ở trọ nhà chị Huệ. Nhà
chị Huệ ở trên đường Cao Thắng, nằm khuất trong một cái hẻm cạn. Chị Huệ ở
chung với chị Điềm. Chị Huệ đi làm, chị Điềm lo phần cơm nước. Chị Huệ là huấn
luyện viên thể thao. Người chị cao lớn, nét mặt hơi lai đầm. Chị Huệ ăn nói từ
tốn nên tôi có cảm tình ngay khi mới gặp. Chị Điềm người gầy gò, nước da ngâm
đen, răng hô, mắt ốc nhồi, thêm cái giọng Trung rất nặng của chị làm tôi hơi
thiếu thiện cảm. Nhưng tôi không còn chọn lựa nào khác, tôi đang cần gấp một chỗ
ở thật yên tỉnh để học. Tôi nói điều kiện ở trọ của tôi, giống y như khi tôi ở
chỗ anh con trai của bà thím tôi, nghĩa là hàng tháng tôi trả một số tiền nhất
định bao gồm tiền ăn, ở và giặt quần áo. Chị Huệ đưa mắt nhìn chị Điềm, chị Điềm
khẽ gật đầu. Bấy giờ chị Huệ vui vẻ nói với tôi:
– Hai chị nhận em đến ở trọ. Chừng nào em muốn dọn đến?
– Ngay chiều hôm nay nếu được. Đồ đạc của em chỉ có một
cái vali nhỏ đựng quần áo, còn lại là sách vở và một cây đèn
bàn. Em chở bằng một chuyến xe xích lô là xong.
Chị Huệ lại đưa mắt nhìn chị Điềm. Chị Điềm trả lời:
– Cậu dọn đến ngay thì cũng được, chỉ hơi phiền là tôi chưa
kịp chuẩn bị phần cơm tối cho cậu.
Tôi đáp nhanh:
– Em sẽ đi ăn mì, hai chị khỏi lo.
Chị Huệ nói:
– Em đến ở, hai chị coi em như em trong nhà, hai chị ăn gì
em ăn nấy và có gì em không vừa ý thì em cứ nói.
Chị Điềm nói thêm:
– Nhà nầy không quen không khí ồn ào. Vậy xin cậu để ý một
chút vấn đề bạn bè đến chơi, không nên đông và không nên thường xuyên quá.
– Dạ em không có bạn trai lẫn bạn gái. Hiện giờ em chỉ lo học
thôi.
Cả chị Điềm lẫn chị Huệ có vẻ bằng lòng câu trả lời của tôi. Chị Huệ chỉ cho
tôi thấy chiếc ngựa gõ màu nâu nhạt sít sao cho một người nằm, được kê ngay sau
cái bàn ăn.
– Đây sẽ là chỗ ngủ của em, bàn ăn cũng sẽ là bàn học của
em. Em muốn dùng đèn trần hay đèn bàn của em để học cũng được. Cái giường ở
phòng giữa là chỗ ngủ của chị. Phía sau là nhà bếp, nhà cầu và nhà tắm. Chị Điềm
ở trên gác. Nhà không có radio, không có máy hát nên sẽ rất yên tỉnh
cho em học.
Chị Điềm nấu ăn theo lối người ở quê nên món nào cũng mặn.
Tôi lại không quen ăn mặn nhưng chưa biết nói cách nào để chị Điềm cho thêm đường
hay bớt muối mà không chạm tự ái của chị. Cuối cùng tôi nghĩ ra cách đang ăn
tôi bỏ đũa đứng dậy đi pha một ly nước lạnh uống hai ba hơi rồi trở lại bàn ăn
ngồi ăn tiếp. Tôi uống nước giữa bửa ăn độ vài lần thì một hôm chị Huệ ghé tai
tôi hỏi nhỏ:
– Chị Điềm nêm nếm hơi mặn phải không Duy?
Tôi trả lời nước đôi:
– Cũng hơi mặn nhưng tại em quen ăn lạt.
Quả nhiên về sau, các món ăn bớt mặn nhưng chị Điềm thì lại bớt ra nói chuyện với
tôi những khi chị Huệ không có nhà.
Sau bốn tháng ở trọ, tôi biết thêm về thân thế của chị Điềm và chị Huệ. Chị Điềm
là chị họ của chị Huệ, ba mươi tám tuổi, có chồng nhưng, theo lời chị Huệ, bị
chồng thôi vì không có con. Chị Huệ, ba mươi tuổi, cũng chưa chồng, nhưng chị
có một người bạn trai là anh Phú. Anh Phú thỉnh thoảng ghé nhà thăm chị Huệ. Mỗi
lần anh Phú đến thăm, tôi thấy chị Huệ vừa vui mừng vừa lúng túng như một đứa
trẻ bất ngờ được quà. Có lần anh Phú mời chị Huệ đi ăn kem, chị Huệ cố lôi cho
được tôi đi theo cùng. Tôi từ chối hai ba lần vì tôi cố ý để hai anh chị có dịp
riêng tư với nhau, nhưng chị Huệ, chị lại nói có tôi chị sẽ tự nhiên hơn với
anh Phú. Tôi đóng vai trò trái độn khá thành công, ăn nhiều, cười nhiều, nói ít
nhưng nói đúng lúc để phá tan cái không khí bỗng nhiên yên lặng giữa hai người.
Theo lời chị Điềm, chị Huệ rất thương anh Phú nhưng anh Phú không chịu tiến tới,
cứ cư xử với chị Huệ như là bạn. Chị Huệ rất khổ tâm nhưng không dám nói ra. Chị
Điềm nói có lần chị đã xa gần nhắc anh Phú tiến tới. Sau lần nhắc đó, anh Phú
biến mất gần một năm. Chị Huệ khóc sưng cả mắt. Rồi bỗng nhiên anh Phú lù lù trở
lại thăm chị Huệ vui vẻ như không hề có chuyện gì xảy ra. Chị Huệ mừng quá dặn
chị Điềm đừng nhắc nhở gì với anh Phú nữa. Anh Phú trở lại thăm chị Huệ sau khi
tôi đến ở trọ được một tháng. Hình như anh Phú có vẻ thoải mái hơn với sự có mặt
của một cậu con trai trong nhà là tôi. Bằng chứng là từ khi có tôi ở trọ, anh
ghé nhà thăm chị Huệ thường xuyên hơn. Phải công tâm mà nói, chị Huệ có phần
nào không xứng với anh Phú. Anh Phú cao lớn như người tây phương, rất đẹp trai.
Tôi không rõ anh Phú làm nghề gì, chỉ nghe chị Huệ nói anh ở trong ngành thương
mãi. Câu hỏi tôi dành cho riêng tôi là anh Phú nếu không yêu chị Huệ, không muốn
tiến tới hôn nhân, cũng không muốn lợi dụng tình cảm của chị Huệ, tại sao lại vẫn
tiếp tục giữ liên hệ với một người mà anh thừa biết không muốn coi anh đơn thuần
là bạn. Tôi tìm ra một lý do rất ngô nghê nhưng tôi cứ tin đúng là anh Phú cao
lớn quá, không có người đàn bà nào cân xứng về vóc dáng để đi chung với anh
ngoài chị Huệ.
Sáu tháng trọ trôi qua. Một chiều tôi đi lấy bài giảng về
thì thấy trên bàn ăn đặt sẵn bốn cái chén và bốn đôi đũa. Tôi ngạc nhiên vì biết
chắc cái chén và đôi đũa thứ tư không phải dành cho anh Phú. Chị Điềm bao giờ
cũng ăn cơm trước, hôm nào chị Huệ mời anh Phú đến dùng cơm tối. Nghe tiếng
chân tôi ở ngoài, chị Huệ bước ra vui vẻ nói:
– Cả nhà chờ em về ăn cơm. Hôm nay có khách ở Huế vào thăm
Sàigòn.
– Dạ thưa ai vậy chị?
– Xuyến, em ruột của chị.
– Dạ.
Tôi dạ mà không hiểu mình dạ với ý nghĩa gì. Vừa lúc từ trong phòng chị Huệ một
người đàn bà nhỏ nhắn bước ra, nhìn tôi cười chào rồi quay qua hỏi chị Huệ:
– Anh sinh viên mà chị nói trong thư đây phải không?
– Đích thị chàng!
Chị Xuyến đưa cao hai bàn tay lên vỗ nho nhỏ:
– Ông bác sĩ tương lai đây! Hoan hô!
Tôi cảm thấy xấu hổ vội vàng cãi chính:
– Thưa chị, em mới học năm sinh lý hóa thôi. Đường còn dài lắm
chưa chắc đã học nổi đâu.
Chị Điềm bưng nồi cơm ra, hối chị Huệ, chị Xuyến vào bếp mang hết thức ăn ra một
lượt. Mâm cơm tối hôm đó, ngoài các món ăn thường lệ như canh măng, cá kho, giá
xào, được tăng cường thêm một đĩa đồ ăn Huế của chị Xuyến gồm có tré, nem chua
và chả bò. Món mà cả ba chị dồn cho tôi ăn nhiều nhất là nem chua. Không ngờ lại
là món tôi thích nhất nên tôi ăn không một chút khách sáo. Chị Xuyến đi vào
trong bếp lột mấy củ tỏi sống mang ra:
– Ăn nem chua phải có tỏi sống mới ngon.
Rồi chị cười nói tiếp:
– Nhưng ăn xong phải súc miệng đánh răng cho kỹ đó nghe.
Chị Xuyến nói trỗng nhưng hình như ai cũng hiểu là chị nói cho tôi nghe.
Tôi cũng cười trả lời:
– Em đánh răng kỹ lắm, ngày hai lần.
Chị Xuyến nói chuyện cởi mở tự nhiên làm tôi thấy rất vui vì
có thêm một người chị dễ mến. Ăn cơm xong, chị Xuyến mang ra một đĩa bánh đậu
xanh trong khi chị Điềm đi pha trà. Chị Xuyến nói với tôi:
– Trà Huế phải pha đậm uống mới ngon. Nhưng đậm thì mất ngủ.
Duy có sợ mất ngủ không?
– Tối nào em cũng phải uống một tách cà phê đen đặc mới thức
nổi tới một giờ sáng để học.
– Dữ vậy?
– Ba năm đầu khó lắm chị, lớ xớ là bị loại liền.
Tôi sực nhớ nãy giờ tôi toàn nói chuyện với chị Xuyến mà quên mất chị Huệ. Chị
vẫn ngồi im đó nghe chúng tôi chuyện vảng, không có vẻ gì ngạc nhiên sao hai
người mới gặp mà có vẻ tâm đắc. Tôi hỏi về chị Xuyến qua chị Huệ:
– Chị Xuyến vào ở Sàigòn lâu không chị?
– Chừng vài tháng. Nhưng nếu kiếm được việc làm thì có thể ở
luôn trong nầy.
Tôi muốn biết chị Xuyến trước làm nghề gì nhưng thấy chưa tiện
hỏi. Chị Xuyến tự nhiên khai:
– Trước chị là giáo viên trường tiểu học công lập ở Huế. Chị
lập gia đình và sau đó nghỉ dạy vì anh Phước chồng chị ở trong quân đội phải đổi
vào Tuy Hòa.
Ở Tuy Hòa được hơn năm thì anh Phước mất, chị trở về lại Huế sống với ông bà cụ
cho đến nay.
Tôi nghĩ thầm thế là nhà nầy có thêm một người đàn bà cô
đơn. Chị Điềm mang trà ra rót cho mọi người uống rồi đi ngủ. Chị Xuyến cũng kêu
mệt lên gác ngủ sớm. Chỉ còn tôi và chị Huệ. Chị Huệ như có vẻ nấn ná ở lại để
nói với tôi một điều gì. Khi trên gác không còn nghe tiếng động, chị Huệ mới
tâm sự với tôi về chị Xuyến:
– Trung Úy Phước, chồng của chị Xuyến bị phục kích chết ở
Tuy Hòa. Hai người chưa có con với nhau. Chị gọi chị Xuyến vào vì có ý định giới
thiệu một người quen làm cùng sở với chị cho chị Xuyến, nhưng không biết chị
Xuyến có chịu không? Chị Xuyến coi vậy mà khó tánh lắm. Để hôm nào chị mời anh
bạn cùng sở lại nhà ăn cơm, em xem coi có được không nghe?
– Dạ.
Bây giờ thì tôi hiểu tiếng dạ của tôi rồi. Nghĩa là khi tôi
không biết trả lời sao thì tôi dạ.
Chị Xuyến coi bộ không chịu anh Vỷ, người làm cùng sở với chị Huệ. Sau bữa ăn đầu
tiên tại nhà do chị Huệ mời, anh Vỷ có trở lại một lần thứ hai vào xế trưa một
ngày chủ nhật. Tôi lấy cớ đi xi nê để nhường cái bàn học của tôi cho chị Xuyến
dùng tiếp khách. Sau lần đó, không thấy anh Vỷ trở lại nhà nữa.
Chị Huệ không nói gì nhưng có vẻ buồn buồn. Một hôm tôi đánh bạo hỏi chị Xuyến:
– Sao em không thấy anh Vỷ lại chơi nữa?
Chị Xuyến trả lời giọng thản nhiên:
-Chị thấy không hợp.
Thật tình tôi cũng thấy không được. Cái nhìn của anh Vỷ nó
gian gian làm sao. Tôi không kìm được một câu bình phẩm:
– Anh ấy ăn nói hơi khách sáo.
– Ừ, em nói đúng. Người như rứa khó đoán được lòng dạ họ lắm.
Trong ba người đàn bà, chị Xuyến tuy gặp sau lại là người hợp với tôi nhất. Có
lẽ nhờ tuổi tác không quá cách biệt giữa tôi và chị Xuyến. Tôi mười chín, chị
Xuyến hai mươi sáu. Chị Xuyến lấy chồng năm hai mươi tuổi và trở thành góa phụ
vào năm hai mươi bốn. Nhưng chị lúc nào cũng có vẻ yêu đời. Mỗi lần tôi nói
chuyện gì vui, chị cười rũ rượi, cả thân hình lẫn mái tóc chị rung theo tiếng
cười. Chị Xuyến không đẹp cũng không xấu. Miệng chị hơi rộng so với khuôn mặt ;
vài hột mụn lấm tấm trên trán, trên má chị. Nhưng chị Xuyến có đôi mắt đen to với
hai hàng mi dài và cong. Khi chị trìu mến nhìn ai, người được nhìn nghe lòng
mình như chùng xuống. Tôi là người được hưởng cái cảm giác êm dịu đó không biết
bao nhiêu lần.
Quá ba phần tư niên học, bài vở càng ngày càng nhiều, tôi
càng phải thức khuya đều đều để học. Mỗi đêm trước khi đi ngủ, chị Xuyến mang
ra bàn cho tôi một tách cà phê đen. Tôi không nhớ rõ chị Xuyến tự lãnh trách
nhiệm pha cà phê cho tôi mỗi tối từ lúc nào. Chỉ nhớ ban đầu tôi chống đối vì sợ
làm phiền chị, nhưng về sau tôi lại lo lắng nếu có tối nào vì lý do nào đó, chị
Xuyến không pha cà phê cho tôi nữa, đêm đó chắc tôi sẽ không học, không ngủ được.
Một buổi chiều chỉ có một mình tôi ở nhà. Tôi tính ngồi học cho đến năm giờ,
sau đó sẽ ra giảng đường lấy bài giảng. Khoảng ba giờ chiều chị Xuyến về. Đi
ngang qua chỗ tôi ngồi học, chị dừng lại, lục trong xách lấy ra một trái ổi xá
lị thật to để lên bàn rồi nói với tôi:
– Mua cho em trái ổi xá lị. Trông thì to nhưng đầu mùa không
biết có ngọt không.
Chị Xuyến đi vào trong, tôi nghe tiếng chân chị đi lên gác,
tiếng chân xuống gác rồi tiếng chị nói vọng ra:
– Nóng quá, chị đi tắm. Tắm xong chị sẽ gọt ổi cho Duy.
Có tiếng khoá cửa phòng bên trong. Chưa đầy một phút tôi bỗng nghe chị Xuyến
hét lên một tiếng kinh hoàng. Tôi rời bàn học hấp tấp chạy vào thì vừa lúc chị
Xuyến bung cửa chạy ra. Thấy tôi chị đứng lại, hai cánh tay chéo trước ngực,
người run cầm cập, mặt tái xanh. Phản ứng của tôi là bảo vệ chị Xuyến dù chưa
hiểu chuyện gì xảy ra. Tôi choàng tay ôm vai chị để chị yên tâm có người bên cạnh.
Tôi hỏi đoán:
– Có gì lạ trong bếp hay trong buồng tắm phải không chị?
Giọng chị Xuyến run run:
– Có… có… xác con cắc kè!
Thôi chết tôi rồi! Đúng là con cắc kè tôi bắt được hôm qua. Tôi đã giết rồi
căng nó trên miếng gỗ để thực tập mổ xẻ. Khi nghe tiếng mấy chị về, tôi mang nó
dấu dưới chân bể nước tắm, lấy một nắp cạc tông che lên trên. Không ngờ chị Xuyến
vào tắm lượm cái nắp cạc tông định vất vào thùng rác. Đến phiên tôi lính quýnh:
– Em… em… xin lỗi chị, em sơ ý làm chị sợ. Đáng lẽ em phải
mang xác con cắc kè đi chôn từ hôm qua.
Chị Xuyến vẫn còn đứng thu người trong cánh tay tôi. Nghe tôi nói, chị mới hoàn
hồn ngước mắt nhìn tôi trách móc:
– Dễ sợ quá ! Răng Duy ác rứa?
Tôi ráng phân trần:
– Hôm thực tập mổ xác con cắc kè, em vắng mặt. Em phải kiếm
cách mổ bù lại. Em sợ hôm thi thực tập bốc thăm trúng nó, không biết cách mổ, sẽ
rớt môn nầy.
Không rõ chị Điềm, chị Huệ có để ý gì đến sự chăm sóc đặc biệt chị Xuyến dành
cho tôi không? Chị Xuyến thì cứ tỉnh bơ lo lắng cho tôi như người chị ruột lo lắng
cho một đứa em trai. Một hôm trời mưa lớn, đường nhựa ngập nước, tôi bị té xe.
Chiếc áo sơ mi tay dài của tôi bị rách toét một đường ở bả vai phải. Chiếc áo
màu hoa cà nầy là chiếc áo cưng của tôi nên tôi tiếc không muốn vứt. Người giặt
quần áo cho tôi là chị Điềm nhưng tôi không muốn nhờ. Tôi tính hôm nào mang nó
ra tiệm may thuê khâu lại chỗ rách. Tôi chưa kịp mang áo ra tiệm thì chị Xuyến
đã làm công việc đó. Chị may rất khéo, nhìn từ xa không thấy vết may. Lúc đưa
áo cho tôi, chị Xuyến nói:
– Cái áo nầy đẹp và còn tốt vứt đi uổng. Chị khâu lại cho
em, để mặc trong nhà hay ban đêm.
Tôi cầm áo tay run run vì cảm động, không thốt ra được một lời cám ơn chị Xuyến.
Tôi không may, mồ côi mẹ sớm nên trong đời luôn luôn thiếu thốn tình thương của
một bà mẹ, cho nên tôi rất dễ xúc động trước mọi cử chỉ chăm sóc của bất cứ người
đàn bà nào.
Mấy ngày sau, một buổi sáng chị Điềm nói với tôi:
– Độ rày tôi không được khỏe, chắc là không kham nổi việc giặt
quần áo cho cậu. Vậy cậu coi có thể nhờ ai khác hay bỏ tiệm giặt ủi.
Chị Điềm hơi gằn giọng ở mấy chữ “nhờ ai khác.” Tôi nhận ra ngay vẻ gay gắt của
chị Điềm mà tôi cho là ganh tị với chị Xuyến. Trong nhà, chị Điềm là người duy
nhất gọi tôi bằng cậu và xưng tôi với tôi. Tôi cũng cứng cỏi trả lời chị Điềm:
– Dạ không sao, quần áo em bỏ tiệm giặt ủi, đồ lót của em,
em tự giặt lấy. Thi cuối năm xong em sẽ tính lại.
Tôi cũng gằn mấy chữ “sẽ tính lại” để cho chị Điềm hiểu rằng
chưa chắc sang năm học tới, tôi còn ở trọ đây. Không biết chị Điềm suy tính lại
thế nào mà sau đó quần áo tôi thay ra vẫn được giặt ủi tử tế.
Một buổi sáng chủ nhật, chị Huệ đi phố đến trưa về, cho tôi hay khoảng hai giờ
chiều sẽ có hai cô học trò cũ của chị đến thăm. Hai cô học trò cũ của chị Huệ,
một cô tên Sương, một cô tên Mi. Hai cô đang nội trú trong trường Sơ Régina
Pacis. Sáng hôm ấy, chị Huệ đi phố tình cờ hai cô gặp và nhận ra chị là thầy
cũ. Sương nhỏ thua tôi một tuổi và Mi nhỏ thua tôi hai tuổi. Sương ăn nói nhanh
nhẩu nhưng nhan sắc lùi xùi trong khi Mi đẹp mủm mỉm lại rụt rè ít nói. Sau đó,
chủ nhật nào hai cô cũng ghé nhà từ hai giờ đến bốn giờ chiều. Sau bốn giờ, hai
cô phải trở vào trường. Sau vài lần ghé nhà, chị Huệ thấy rõ hai cô ghé thăm thầy
cũ thì ít mà để thăm tôi thì nhiều. Một hôm chị cười cười nói với tôi:
– Hai cô học trò của chị đến thăm ai khác chứ không phải đến
thăm thầy cũ nữa đâu.
Tôi cười:
– Có người đến nói chuyện cũng vui. Học bài nhiều quá nhức đầu
lắm chị ạ.
Chị Xuyến góp ý:
– Chị thấy Mi được lắm. Mà cô ấy cũng có vẻ có cảm tình với
em.
Thật tình Mi chưa gây một chút băn khoăn nào trong đầu tôi cả.
Đầu tôi đang nặng trịch bài vở, cho nên khi nghe chị Xuyến nói ráp vô, tôi liền
trả lời dang ra:
– Mi đẹp thật nhưng ít nói, ít cười quá! Đương nhiên em
thích cô nào đẹp nhưng ăn nói phải cởi mở một chút.
– Duy coi bộ khó tính dữ a. Đừng kén quá mà ế đó nghe em.
Chị Xuyến cười rung rung mái tóc. Tự nhiên tôi nghĩ vẩn vơ, giá Mi có giọng cười
hồn nhiên như chị Xuyến chắc tôi sẽ thích ngay. Lần luợt những chủ nhật kế tiếp,
khi Mi và Sương đến chơi, nhà chỉ có một mình tôi. Hình như ba chị có ý sắp xếp
để tôi được tự do trò chuyện với hai cô. Tôi không hiểu tại sao, nhất là sự đồng
tình của chị Điềm, người đã ra điều kiện khắt khe với tôi về chuyện tiếp bạn
bè, hơn nữa lại là bạn gái. Thấy tình hình thuận lợi, Mi và Sương mang cả thức
ăn nước uống và máy hát đến. Sương để nhạc và dạn dĩ lôi tôi đứng dậy để nàng dạy
tôi khiêu vũ. Khi tôi bước quen một vài bước rumba, Sương bắt tôi
nhảy với Mi. Tôi thấy tình hình nguy ngập khi chỉ còn non hai tháng nữa là đến
kỳ thi cuối năm. Cứ cái đà chiều chủ nhật nào cũng ăn uống, nghe nhạc, khiêu
vũ, thêm vào đó những va chạm nho nhỏ vào người Mi khi nhảy với nàng bắt đầu
nhen nhúm trong tôi vài tư tưởng bâng quơ về đêm thì việc học thi của tôi chắc
sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng. Tôi liền trút nỗi âu lo của mình với chị Huệ:
– Gặp Sương và Mi thì rất vui nhưng em lo vì vui quá em sẽ
không học được.
Chị Huệ lộ vẻ ngạc nhiên rồi hỏi:
– Em có muốn chị nói với hai cô đừng tới nữa không?
– Vâng, ít ra từ đây cho đến khi em thi xong.
Chủ nhật sau, tôi rời nhà trước giờ hai cô đến, và chị Huệ ở
nhà tiếp hai người. Từ đó cho đến khi tôi rời nhà chị Huệ, Sương và Mi không đến
nữa.
Càng gần đến ngày thi, cà phê chị Xuyến pha mỗi tối cho tôi tăng thủy lượng. Từ
cái tách cà phê nhảy sang cái ly uống nước, thế mà tôi vẫn chỉ ráng đến được
hai giờ sáng là hai mi mắt sụp xuống, không có cách nào cưỡng lại cơn buồn ngủ.
Một tuần trước ngày tôi thi là sinh nhật chị Xuyến. Tôi mua tặng chị chiếc khăn
quàng cổ màu hồng tím và kín đáo đưa món quà cho chị. Chị Xuyến cầm quà nhìn
tôi chớp mắt hai ba cái. Tôi nghĩ chị rất cảm động. Chị nói nhỏ với tôi:
– Chị cám ơn Duy. Chiều mai hai giờ chị đãi em đi xi nê. Rạp
Lê Lợi chiếu phim “Ivanhoe”, Robert và Liz Taylor đóng, hay lắm. Đi giải
trí vài giờ cho nhẹ cái đầu đi. Em đến đó trước, chờ chị.
– Dạ.
Tôi đứng trước rạp Lê Lợi chờ chừng mười phút thì chị Xuyến tới bằng chiếc vélo
Solex của chị. Chị mang cặp kính đen to và quàng chiếc khăn tôi vừa tặng
chị. Chị gởi xe, vào mua vé và chúng tôi ngồi suốt hai tiếng đồng hồ im lặng
bên nhau theo dõi truyện phim. Trên đường về, tôi lái chiếc scooter chạy
chậm chậm theo chiếc vélo Solex của chị Xuyến. Ngang qua rạp
Thanh Bình, thấy chiếu phim ‘’Les frères Karamazov‘’ ngày cuối,
tự nhiên tôi nổi hứng muốn vào xem. Tôi rủ chị Xuyến:
– Đang còn sớm, mình vào xem phim nầy đi. Hôm nay ngày chót.
Chị Xuyến ngần ngừ:
– Chị nghe nói phim nầy dài lắm.
– Thì mình xem đến gần bảy giờ tối mình về, vừa giờ cơm. Em
thích cô đào Maria Shell lắm. Cô có nụ cười giống chị.
Chị Xuyến sung sướng phủ nhận sự so sánh của tôi.
– Thôi đi Duy, chị làm răng bằng Maria Shell.
Tôi dành mua vé, nhất định không chịu để chị Xuyến trả tiền.
Khi xé vé, người soát vé cho biết phim chính bắt đầu được mười phút. Tôi cầm
tay chị Xuyến dò dẫm đi trong bóng tối, tìm hàng ghế và số ghế ngồi. Ngồi xuống
ghế một lúc tôi mới hay bàn tay chị Xuyến vẫn còn nằm yên trong lòng bàn tay
tôi. Tôi hồi hộp bóp mạnh bàn tay chị. Tôi nghe sức bóp nóng hổi dội lại
từ bàn tay chị Xuyến. Vừa lúc ấy trên màn ảnh, tiếng cô đào Maria Shell cười
ròn rã. Bất giác tôi quay mặt nhìn chị Xuyến vừa lúc chị cũng nhìn sang tôi. Bốn
mắt chúng tôi gặp nhau trong bóng tối. Hai bàn tay cùng lúc bóp mạnh nhau.
Người tôi bất thình lình lên cơn sốt. Nhưng rồi tôi là người bỏ cuộc trước
tiên. Tôi quay mặt nhìn lên màn ảnh nhưng hình như tôi không còn thấy gì nữa cả.
Hình như tôi quên hết thời gian. Cho đến khi chị Xuyến lay mạnh tay tôi,
nghiêng đầu thì thầm vào tai tôi:
– Về thôi Duy, gần tám giờ, trễ quá rồi.
Chị Xuyến đứng lên cầm tay tôi, kéo tôi ra khỏi hàng ghế ngồi.
Lấy xe ra, chị Xuyến dặn tôi:
– Để chị về trước. Chừng hai mươi phút nữa Duy hẳn về.
Tôi gật đầu đồng ý. Chờ chị Xuyến đi khuất, tôi đi bộ ra khu
chợ Thanh Bình kêu một ly nước mía uống. Chờ đúng hai mươi phút, tôi lấy xe
phóng về nhà.
Bước vào nhà tôi thấy trên bàn có mâm cơm nhưng chỉ có một cái chén và một đôi
đũa. Tôi đoán ngay có sự chẳng lành. Tôi cố gắng làm ra vẻ tự nhiên như không
hay biết chuyện gì. Tôi đi vào phòng trong, thấy chị Huệ đang ngồi đọc báo. Tôi
hỏi một câu rất thừa:
– Mấy chị ăn cơm chưa?
Chị Huệ mắt vẫn dán vào tờ báo, trả lời tôi:
– Duy ăn đi. Cả nhà ăn rồi.
Tôi ăn vội vàng rồi tự động dọn chén bát ra sau bếp. Tôi ngồi
học cho đến mười hai giờ đêm rồi đi ngủ. Tối hôm đó không thấy chị Xuyến pha cà
phê cho tôi.
Tiếng cãi vã ồn ào trên gác làm tôi tỉnh ngủ vào khoảng bốn giờ sáng. Tôi nghe
tiếng chị Điềm đay nghiến chị Xuyến, tiếng chị Xuyến phân trần rồi tiếng chị
Xuyến khóc nức nở. Đã bao nhiêu năm qua, tôi vẫn còn nhớ rõ mồn một những lời
chị Xuyến và chị Điềm nói lúc gần sáng hôm đó:
– Em đãi Duy đi xi nê. Xem xong về rạp Thanh Bình, Duy thấy
chiếu ngày cuối một phim hay nên muốn vào xem. Phim hơi dài nên về trễ một
chút, chứ có chi mô mà chị làm ầm cả lên!
– Cậu Duy đòi hay là mình đòi? Người ta là con trai mới lớn,
biết chi. Chỉ có mình dụ dỗ trai tơ thì có.
Tiếng khóc tức tưởi của chị Xuyến khiến tôi muốn hét to lên cho chị Điềm nghe rằng
tôi mới là thủ phạm, tôi mới là người đáng trách. Chị Xuyến vô tội! Nhưng rồi
tôi chỉ nằm im nghe nước mắt mình ràn rụa trên má.
Sáng hôm sau, chờ tôi đánh răng rửa mặt xong, chị Huệ gọi
tôi ra nói chuyện. Ngồi đối diện với tôi nhưng mặt chị nhìn đi nơi khác.
– Chị Điềm và chị biết hôm qua Xuyến và em đi xi nê với
nhau. Cho dù không có ý gì đi nữa, hai chị thấy như thế cũng không được. Người
ta biết rất tai tiếng. Hai chị đã quyết định gởi chị Xuyến về lại Huế và yêu cầu
Duy dọn đi nơi khác, càng sớm càng tốt.
Tôi vừa hối hận vừa tức giận. Hối hận vì đã làm chị Xuyến mang họa, tức giận vì
bản án dành cho chúng tôi quá khắt khe. Trong một thoáng, tôi cho chị Điềm và
chị Huệ ganh tức với chị Xuyến. Họ không có đàn ông, không kiếm ra đàn ông,
trong khi chị Xuyến lại chiếm được cảm tình của một thằng con trai mới lớn là
tôi.
Tôi nhìn thẳng mặt chị Huệ, trả lời:
– Em sẽ đi kiếm chỗ trọ khác ngay trong ngày hôm nay.
Tôi phóng xe ra sạp báo mua một tờ kiếm mục tin vặt tìm chỗ rao nấu cơm tháng
cho sinh viên. Tôi tìm thấy một nơi nằm trên đường Cô Bắc, hiện có bảy sinh
viên đang ở trọ, còn hai chỗ trống trên gác. Tôi đóng tiền ăn ngay cho ngày hôm
đó rồi thuê một chiếc xích lô trở về nhà chị Huệ dọn hết đồ đạc ra đi không một
lời từ giã.
Tôi khá vừa lòng chỗ ở mới của tôi. Tôi có một cái giường ngủ bằng sắt có lò xo
và nệm kiểu nhà binh, một cái bàn nhỏ hình chữ nhật để ngồi học. Mỗi người có
phần ăn riêng. Nhưng căn gác lợp mái tôn nên rất nóng. Ngày cũng như đêm, lúc
nào cũng chỉ một cái quần xà lỏn, mình trần mới ngồi học được. Căn gác có ba cửa
sổ, một cái nhìn ra một nghĩa địa cũ hoang phế, một cái nhìn ra cây trứng cá và
một cái nhìn lên thấy cây bàng. Chỉ còn mấy ngày nữa tôi thi mà thể xác tôi rã
rượi, đầu óc tôi trống rỗng, không nhớ không tập trung nổi vào bài vở. Sau một
đêm trằn trọc, tôi quyết định bỏ thi kỳ đầu và sáng hôm sau đi khai bệnh lấy chứng
chỉ của bác sĩ nộp để xin thi kỳ hai.
Giải quyết xong chuyện thi cử, tôi nghĩ đến chị Xuyến. Tôi vẫn nuôi một chút hy
vọng mong manh là chị Xuyến chống lại quyết định gởi trả chị về Huế. Tôi sực nhớ
tới Mi. Tôi tìm đến trường Régina Pacis xưng là bà con với Mi
để xin gặp nàng. Mi có vẻ mừng rỡ khi gặp lại tôi. Tôi bịa ra một câu chuyện để
giải thích với Mi việc tôi đổi chỗ trọ. Tôi nói có chuyện lộn xộn giữa tôi và
chị Điềm, chị Xuyến bênh tôi nên gây gỗ với chị Điềm. Chị Xuyến giận đòi bỏ về
Huế. Tôi nhờ Mi kiểm chứng xem chị Xuyến có về Huế thật không? Tôi không đả động
gì đến thái độ của chị Huệ. Tôi cho Mi biết chỗ trọ mới của tôi. Một tuần sau,
Mi đến thăm, cho tôi hay chị Xuyến đã về Huế được hai tháng. Nhẩm tính, tôi
đoán chị Xuyến rời Sàigòn chừng vài ngày sau khi tôi dọn đi.
Trời vào cuối thu. Ngồi học trên gác có hôm vào buổi chiều
thoáng nghe lành lạnh. Nhìn lên cây bàng thấy lá đã nhuốm vàng và bắt đầu lác
đác rơi. Tôi đi lục va li kiếm chiếc áo sơ mi mặc thêm ngoài chiếc mai ô cho ấm.
Tôi lấy đúng chiếc áo màu hoa cà. Nhìn chỗ rách ở vai được khâu lại, tôi nhớ chị
Xuyến. Nỗi nhớ bỗng nhiên cồn cào vô tả. Tôi dẹp bài vở qua một bên, lấy giấy
bút ra làm thơ. Theo thời gian, mộng làm thi sĩ của tôi tàn dần, nhưng tôi còn
được một bài thơ ghi dấu một mối tình ngắn ngủi nhưng lại in sâu vào trí nhớ của
tôi mấy chục năm trời.
Bao giờ em gởi chị bài thơ
Chép của con tim hết mấy giờ)
Thương nhớ run run hàng chữ nhỏ
Tâm tình theo mấy nét đơn sơ?
Chị ơi! Nắng ngã qua lòng em
Em lấy gì đây đỡ nắng lên
Cho lá khỏi vàng hoa khỏi rủ
Cho chiều thu nhạt bớt vô duyên?
Còn có đêm nào như đêm qua
Sương khuya lạnh cả ánh trăng nhà
Em ngồi nhớ chị tay khâu áo
Đôi mắt sầu lên dĩ vãng xa?
Ai đi tìm kiếm lấy trong mơ
Đem trả cho em buổi chuyện trò?
Em nhớ chị cười rung mái tóc
Nụ cười hôm ấy đẹp như thơ!
Em vẫn hay buồn đứng lặng im
Khi sương chiều xuống, nắng qua thềm
Thẫn thờ trông cánh chim xa vắng
Em nhớ chị nhiều nên ngóng tin
Từ bước phong sương với cuộc đời
Mấy lần nghe áo rách đôi vai
Chị về bên chốn xa xôi ấy
Không biết giờ đây khâu áo ai?
Mỗi lần nhớ chị Xuyến, đọc lại bài thơ hay tình cờ đọc lại bài thơ nhớ chị Xuyến,
tôi lại có dịp thả hồn trôi về dĩ vãng. Trong bài thơ, có rất nhiều dấu hỏi. Những
câu hỏi chưa bao giờ có câu trả lời. Bài thơ tôi làm, chưa bao giờ chị Xuyến được
đọc. Nhưng tôi cho điều đó không quan trọng vì tôi biết dù ở phương trời nào chị
Xuyến cũng tin ở phương trời nầy tôi vẫn nghĩ về chị y như chị nghĩ về tôi.
Cuộc sống tiếp theo của tôi, sau cơn phong ba đầu đời ấy là
một chuỗi ngày hạnh phúc không như ý. Không như ý vì tôi không có được một người
bạn đời mong ước như tôi từng tâm sự với chị Xuyến, nghĩa là nàng phải vừa đẹp
vừa ăn nói cởi mở. Không biết chị Xuyến có hay khi tôi lập gia đình, người tôi
cưới làm vợ lại là một trong hai cô học trò cũ của chị Huệ trước kia?
Trang Châu