Lớn lên chút nữa, thời trung học, tôi vào nội trú một trường
trung học tư thục công giáo ở Huế. Ở đó, sau khi ăn cơm tối, mọi người được đi
dạo ngoài sân chừng 45 phút trước khi vào nhà thờ đọc kinh tối rồi đi ngủ. Trừ
các anh, từ các lớp 4ème lên đến 1ère*, được veillée học cho đến 9 giờ tối mới
đi ngủ. Thích thú nhất của tôi là hôm nào được ở trong nhóm của anh Trường, đi
lui đi tới trong sân, để nghe anh ngâm thơ. Anh Trường, người Quãng Đà, anh
ngâm thơ theo giọng “bình trị thiên” nghe rất hấp dẫn. Hào hứng và hồi hộp là
nghe anh ngâm những bài thơ của “phía bên kia”, không biết từ đâu mà anh có.
Tôi còn nhớ ba bài, có bài thì khúc nhớ khúc quên, có bài, cho đến hôm nay, tôi
còn nhớ gần nguyên bài.
Bài thứ nhất nói về một anh du kích về hoạt động bị Tây phúc
kích bắn chết. Bạn anh làm thơ khóc anh: “Hoài mi ơi, tau biết mi vốn
tính khinh khi/ Coi mạng sống như đồ chơi con trẻ/ Tau nhớ mãi dáng người mi mạnh
mẽ/ Bước mi đi chắc ních như trâu tơ/ Hồn mi trong trắng như một bài thơ/ Của một
gã học sinh mười tám tuổi/…/Cổ tau nóng tau liền đi uống nước/ Mà không sao
quên được hởi Hoài ơi/ Đốt đèn lên tau ngồi lặng một hồi/ Rồi tau viết bài thơ
ni một mạch/ Mi với tau thôi từ đây xa cách/ Mi chết đi tau còn sống ở trên đời/
Bạn văn chương tau còn thiếu chi người/ Tau nói rứa mà lòng tau đầy ứa lệ…”.
Bài thơ thứ hai là bài thơ gởi trách nhạc sĩ Phạm Duy khi
ông rời bỏ kháng chiến để về Thành: “Chúng tôi biết bên kia có người
anh thương/ Có mái nhà anh bên đường phố nhỏ/ Rủ cành hoa ti gôn/ Nhưng nếu chỉ
là có thế/ Anh bỏ mà đi sao đành/ Ở bên ni phía mình/ Chia nhau miếng cơm độn bắp/
Nhường nhau manh áo trời đông/…/ Anh về chi bên nớ/ Buổi truy hoan tiếng cười
nghiêng ngửa/ Bọn lính Lê Dương với bầy gái chứa/ Còn ai nghe giọng hát của
anh.”
Bài thơ thứ ba là bài tôi được nghe nhiều nhất vì được yêu cầu
ngâm đi ngâm lại nhiều lần. Bài thơ nói về cuộc sống của những người đi kháng
chiến: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ/ Gặp nhau hồi chưa biết chữ/ Quen
nhau từ thưở một hai/ Súng bắn chưa quen/ Quận sự vài bài/ Lòng vẫn vui cười
kháng chiến/…/ Chúng tôi đi/ Nắng mưa sờn mép ba lô/ Tháng năm bạn cùng thôn
xóm/ Ngủ lại lưng đèo/ Nằm trên dốc nắng/ Tôi nhớ bờ tre gió lộng/ Làng xuôi
xóm ngược mái rạ như nhau/ Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau/…/ Đằng nớ vợ
chưa đằng nớ?/ Tớ còn chờ Độc Lập/ Cả lũ cười vang bên ruộng bắp/ Nhìn o thôn nữ
cuối nương dâu…”.
Thuở đó tôi cũng như cả nhóm rất thích thú được nghe những từ
rất bình dân, rất Huế xâm nhập vào thơ như mi, tau, o, rứa, nớ. Nghe nó gần gủi,
thân mật làm sao!
Lớn lên tí nữa, học lớp 4ème, tôi được veillée học đêm cho đến
9 giờ tối. Đó cũng là thời điểm một vị linh mục, giáo sư việt văn, dạy về các
thể thơ việt nam. Dạy xong, cha cho cả lớp làm thơ. Đề tài tự do, thể thơ tự
do. Đây là bước đi đầu tiên trên con đường thơ của tôi. Tôi mồ côi mẹ năm lên
9. Và bài thơ đầu tiên trong đời tôi làm dành cho mẹ tôi với cái tựa Thăm Mộ Mẹ: “Tôi
đứng nhìn xem nấm mộ tàn/ Im lìm an giấc dưới trời lam/ Trên đầu bia đá rêu
xanh phủ/ Cỏ úa lan tràn nẩy dọc ngang/ Lúc ấy hồn tôi cố tưởng mơ/ Bóng người
từ mẫu tận mây mờ/ Với bàn tay trắng êm êm mát/ Ôm ẵm người tôi lúc trẻ thơ/
Nhưng hết hôm nay hết cả rồi/ Còn đâu hình bóng quý yêu tôi/ Với bàn tay trắng
êm êm mát/ Vỏn vẹn còn trơ nắm mộ tồi”. Bài thơ được vị linh mục giáo sư chấm
hay nhất lớp. Tôi nổi tiếng ngay trong lớp và tiếng tăm còn được vang lên tới
các lớp trên. Năm đó tôi vinh dự được anh lớp 1ère, chủ bút tờ bích báo của học
sinh nội trú trường Thiên Hữu giao cho trách nhiệm viết Sớ Táo Quân. Bích báo của
học sinh nội trú một năm ra 2 số: số Tết và số Hè. Trong buổi sinh hoạt nghe đọc
bích báo, tôi được gọi lên đọc bài Sớ Táo Quân của mình. Bài sớ thành công lớn
vì có những báo cáo châm chọc, vui nhộn nhưng tôi chỉ nhớ có một đoạn, đoạn tôi
nói tới thầy thư ký. Ông này phụ trách việc bán giấy bút cho học sinh nội trú.
Ông phải ghi tên từng người mua cùng số tiền mua để trường đòi lại phụ huynh học
sinh. Mỗi lần có bán như thế, văn phòng ông ồn ào, hỗn độn như cái chợ. Thầy ký
người vừa lùn vừa mập, mặt tròn như mặt trăng, lại nóng tính hay la mắng nên lũ
ranh chúng tôi ghét, gọi ông là quan Phi La Tồ (Pilate), tên viên tướng La Mã,
người sai đem nước cho y rửa tay để chứng tỏ mình không muốn dính tới việc dân
DoThái đòi đóng đinh Chúa Giêsu. “Những ngày có bán/ Sách vở, giấy
manh/ Chúng lấn nhau tranh/ Để vào mua trước/ Đứa mua không được/ Đập phá đùng
đùng/ Thầy ký nổi xung/ Đánh cho một trận/ Chúng liền nổi giận/ Đi vẽ khắp nơi/
Cái mặt thầy tôi/ Dưới đề Pilate!”
Nhưng tôi không có bạn văn chương, không có nhóm văn nghệ
hay thi văn đoàn để gia nhập nên cứ lẻ loi mơ mộng, làm thơ một mình. Tuy
nhiên, từ lớp 3ème lên đến lớp terminale*, tôi có cơ hội hấp thụ nền văn chương
Pháp. Tôi thích thơ Lamartine, Musset, Verlaine thời học sinh, thích Prévert thời
sinh viên nhưng khi viết lách tôi lại thấm nhuần lời khuyên dặn của Jean Boileau,
một tác giả cùng thời với 2 kịch tác gia nổi tiếng Pierre Corneille và Jean
Racine của thế kỷ 17. Trong cuốn L’Art Poétique, Boileau viết: “Ce que
l’on concoit bien s’énonce clairement/ Et les mots pour le dire arrivent
aisément” (Những gì mình nhận thức kỹ được hiện ra rỏ ràng/ Và ngôn ngữ
để diễn tả sẽ đến một cách dễ dàng). Không biết có phải vì vậy hay nhờ vậy mà
ngôn ngữ trong thơ tôi rất giản dị. Nhưng đôi lúc tôi cũng thắc mắc, nếu tôi có
thêm chút vốn chữ Hán trong đầu, như vài người bạn cầm bút khác, không biết chữ
nghĩa trong thơ tôi có uyên bác hơn không hay có rối rắm đi không? Thêm một
tuyên ngôn tôi nhớ nằm lòng nữa là lời của Verlaine: “De la musique
avant toute chose” (Trước tất cả mọi thứ là âm nhạc). Với tôi, tiếng
Việt là một ngôn ngữ âm nhạc. Và tôi nghĩ để gọi là thơ, quan trọng, không phải
vần hay không vần, câu ngắn hay câu dài, mà là câu thơ ngoài ý mới, lạ phải có
nhạc điệu và nhịp ngắt.
Nhưng rồi đời quân ngũ, việc sinh kế, thêm vào đó thiếu môi
trường sinh hoạt văn nghệ, thơ chỉ còn xuất hiện như một thao thức bất chợt bắt
gặp từ một hoàn cảnh khắc nghiệt nào đó của cuộc sống. Như nỗi buồn khi nhận
thiệp cưới của người tình đầu đi lấy chồng hay cơn đau trước tin một thằng bạn
tử trận. Và kể từ khi truyện ngắn đầu tiên của tôi được chọn đăng trên tờ Văn Học,
thơ lùi dần trong cảm xúc để phần nào nhường chỗ cho văn.
Phải ghi nhận biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đã làm sống dậy
nhu cầu làm thơ trong tôi. Cho dù ra đi với hai bàn tay trắng, phải làm lại cuộc
đời từ con số không, một khoảnh khắc nào đó có thể quên đi lao nhọc của thể
xác, giữa chồng sách vở học thi, tôi lấy giấy bút ra làm thơ. Bao nhiêu mất
mát, buồn đau, tủi hận được trút vào thơ: “Tôi đứng trên boong tàu/
Chào quê hương lần cuối/ Nước mắt bỗng tuôn dâng/ Khi màu cờ hạ xuống.” (Lễ
hạ kỳ trên chiếc HQ 400 trước khi vào hải cảng Phi Luật Tân, ngày 13 tháng 5
năm 1975 ). “Nhân danh dân tộc anh/ Chán ghét chiến tranh/ Anh hy sinh
dân tộc tôi/ Ba mươi năm đỏ mắt/ Mong chờ hòa bình”. (Gởi người đồng minh
hôm qua).
Những tạp chí tiếng Việt thi nhau xuất hiện như những nhánh
sông tươi mát, mở lối cho những con cá viết lách ở hải ngoại có nước để vẫy
vùng. Nhưng đây cũng là thời điểm tôi rơi vào vòng vây hảm bởi sự tranh giành
cái chức Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (VBVNHN). Người ta viết trên báo:
VBVNHN không làm chính trị, Trang Châu hoạt động cho một đảng phái nên không thể
làm Chủ Tịch VBVNHN được. Một nhà văn mới nổi phán: Phải viết truyện ngắn hay
truyện dài mới được gọi là nhà văn, Trang Châu chỉ viết bút ký nên chưa thể gọi
là nhà văn. Chưa hết, ở mặt khác, có người lại chỉ gọi Trang Châu là nhà văn chứ
không bao giờ gọi Trang Châu là nhà thơ. Có lẽ để muốn mọi người phải hiểu chỉ
có một người đáng được gọi là nhà thơ thôi, người đó chính là tác giả bài viết.
May thay, những nhiễu nhương của thập niên 80, 90 rồi cũng qua đi. Bây giờ thì
tôi thường được ưu ái gọi nhà văn nhà thơ Trang Châu. Nhưng điều làm tôi khổ sở
hơn hết, khi ngoài nhà văn nhà thơ, còn có thêm hai chữ bác sĩ! Bác sĩ nhà văn
nhà thơ Trang Châu! Tôi có cảm tưởng hai chữ bác sĩ đưa vào cho nặng ký thêm
cái tên tác giả cùng nội dung bài viết. Người thêm cái tít bác sĩ vào, nghĩ để
làm tôi vui lòng, quên rằng người không ưa tôi, có thể nói thơ văn tôi chẳng ra
gì nên cần phải có cái tít bác sĩ để vớt vát. Thiệt tình cái tít bác sĩ không
làm thơ tôi, văn tôi hay hơn mà có khi còn trở thành cái cớ để bị mỉa mai là
khoe khoang không đúng chỗ. Tôi còn nhớ một kỷ niệm: Vào giữa khoảng thập niên
90, sau khi tờ Văn Học của nhà văn Nguyễn Mộng Giác cho đăng một loạt truyện ngắn
của tôi, một nhà văn nữ viết cho tôi: “Mọi người ở Văn Học nay coi anh như người
nhà rồi đó.” Được xác nhận như “người nhà” có nghĩa là tôi vừa được xếp vào
“dòng chính” của những người cầm bút ở hải ngoại. Thời tiền chiến, cũng có một
bác sĩ làm thơ nổi tiếng với bài thơ “Tôi biết em đi chẳng trở về”, bác sĩ Thái
Can. Không biết, với cái tít bác sĩ ghép vào với nhà thơ thời đó, có khiến ông
vất vả như tôi bây giờ không?
Montréal, nơi tôi ở, trong những thập niên 80, 90 và 2000,
là thành phố có nhiều sinh hoạt ra mắt sách nhất so với những thành phố khác ở
Canada. Montréal có nhiều người viết mà lại không có người làm báo, nhất là báo
văn học, cho nên người viết ở đây phải cọng tác với những nơi có báo. Do đó họ
quen biết nhiều người cầm bút khắp nơi và người khắp nơi cũng chọn Montréal,
trước để ra mắt tác phẩm mình, sau là gặp bạn bè. Thường thường ra mắt sách ở
Montréal đa số thành công vì người Việt định cư ở đây rất sốt sắng tham gia
sinh hoạt này. Cho nên Montréal được thương tặng cho cái tên: Thành phố văn
hóa. Tôi được nhờ làm người giới thiệu sách, đặc biệt là giới thiệu thơ, ngày một
nhiều. Có gì đâu, tôi được chiếu cố vì bài giới thiệu nào của tôi, dài nhất
cũng không quá 20 phút, nên không làm mệt người nghe. Cái đòi hỏi phải cô đọng
khi làm thơ giúp tôi có được lối giới thiệu “ngắn gọn, chính xác và đầy đủ” dựa
theo câu tiếng Tây “précis, concis et tout dit”. Tôi luôn quan niệm giới thiệu
sách chứ không phải phê bình sách, cho nên chỉ tìm cái ưu để giới thiệu thôi.
Tôi tin một tác phẩm, khi đã được tác giả quyết định in thành sách để phổ biến,
dù không là một tuyệt tác, cũng có vài điểm, vài đoạn hay ít ra vài câu mình có
thể trích ra, để làm đẹp cho tác phẩm và tạo cảm tình của cử tọa đối với tác giả.
Có điều phải cân nhắc lời khen sao cho hữu lý, không nên “áo thụng vái nhau” một
cách quá lố. Đừng bao giờ quên rằng, trong hàng khán giả đang ngồi nghe mình
nói, lúc nào cũng có kẻ kiến thức hơn mình, sâu sắc hơn mình. Nhiều người thích
cách nói của tôi khi giới thiệu. Có gì đâu, chỉ cần chịu khó tập cách nói. Bài
giới thiệu nào ngắn, dưới 10 phút, tôi học thuộc lòng. Bài dài 20 phút tôi học
thuộc lòng đoạn cuối, khi nói đoạn này, tôi nhìn thẳng vào khán giả và luôn nhớ
lúc nào phải lên giọng hay xuống giọng.
Khoảng thời gian cuối 1963 đến cuối 1965 là thời điểm tôi muốn
kiếm cho mình một lối đi trong thơ vì tôi đang có một môi trường thuận lợi cho
ngòi bút mình tung hoành, khai phá. Đó là thời gian tôi nằm trong ban điều hành
tờ nguyệt san Tình Thương, một tờ báo của sinh viên y khoa lúc bấy giờ. Mặc cho
các bạn khác sôi nổi về những vấn đề thời cuộc, tôi chăm chú tìm kiếm lối đi
trong thơ, nhất là thơ tình. Đối tượng của tôi bây giờ là sinh viên đại học và
nữ sinh các trường Trưng Vương, Gia Long. Trong số các nhà thơ đang nổi tiếng ở
miền Nam lúc bây giờ tôi thích Nguyên Sa. Thơ ông phong cách rất Tây, ý mới,
hình ảnh mới, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ lại bình dị nhưng đầy bất ngờ, làm dễ thấm
mà khó quên một khi đi vào trí nhớ. Tôi muốn đi theo con đường Nguyên Sa. Theo
Nguyên Sa nhưng làm sao để mình vẫn là mình. Môt bài thơ khá táo bạo về nội
dung được ra đời trong chiều hướng đó. Bài thơ có tên Băn Khoăn: “Hai
người đàn bà yêu tôi/ Một cô nữ sinh/ Và một người thiếu phụ/ Với cô nữ sinh/
Tôi không còn trẻ nữa/ Với người thiếu phụ/ Tôi là gã trai tơ”. Yêu cô nữ
sinh: “Vì sợ những chiều buồn/ Không có người em để nhớ”. Yêu người
thiếu phụ: “Để có lúc si tình/ Mà cũng có giờ trìu mến”. Để rồi: “Trong
hạnh phúc vô biên/ Chợt thấy mình tội lỗi”. Đó là giai đoạn bốc phá của tuổi
hai mươi tìm kiếm lối đi. Đi sau lưng Nguyên Sa nhưng cố tránh sao đừng dẫm vào
dấu chân Nguyên Sa. “Tôi không đi con đường chưa ai đi/ Tôi chọn con đường
nhiều người đã chọn/ Mà chưa tới.” Cái chưa tới đó cho đến hôm nay tôi
đã đạt tới chưa? Câu trả lời thuộc độc giả. Một nhà thơ Pháp có ảnh hưởng trên
thơ tôi, đó là Jacques Prévert, với những bài thơ dí dõm mà không kém chua cay
của ông. Hình như tôi đã bắt chước ông khi viết: “Để thay đổi không khí
cho tình yêu/ Em nên đi lấy chồng/ Và nhớ đến anh trong những giờ hạnh phúc/…/Nếu
anh không được phép nhìn/ Một người đàn bà nào khác hơn em/ Làm sao anh thấy em
là người đẹp nhất?”
Tôi không chỉ làm thơ mà còn đọc rất nhiều thơ. Một phần vì
vai trò giới thiệu sách phải đọc , một phần vì thích tìm tòi cái hay, cái mới.
Và tôi được tiếp cận với sự xuất hiện của thơ Tân Hình Thức, thơ Hậu Hiện Đại.
Tôi đọc hết, dù lúc ban đầu khá bở ngở với lối vắt dòng, lối sắp chữ. Tôi đọc để
tìm hiểu cặn kẽ ý của tác giả. Đọc thơ ai, dù là thể loại nào, tôi cũng trải
qua ba giai đoạn: hiểu, cảm và hòa điệu. Nếu đọc đến lần thứ hai mà vẫn không
hiểu tác giả nói gì tôi dừng lại đó không tỏ bày ý kiến. Nếu không hiểu, nhưng
qua những giải bày tâm tư, dù quanh co, mơ hồ, mình vẫn cảm nhận được chất thơ
trong đó, tôi vẫn hoan hỉ thưởng thức. Những bài thơ ngoài hiểu, cảm mình còn
thấy một phần mình trong ấy thì tôi kết đó là một bài thơ hay.
Đọc những bài Tựa hay bài Bạt của những tập thơ, bao giờ tôi
cũng ưu tiên đọc những câu thơ trích của người viết giới thiệu. Rồi tự mình thẩm
định giá trị của những câu trích. Sau đó tôi mới đọc lời bình của người viết.
Cách đọc đó giúp tôi biết thêm vài điều thích thú: Có khi tôi thấy họ khám phá
ra những cái hay mà tôi không thấy; có khi tôi thấy họ cũng thấy như tôi thấy;
nhưng đôi khi tôi gặp những tung hô hơi quá đà, đôi khi có vẻ như người viết
dùng thơ bạn để khoa trương hiểu biết của mình.
Đọc thơ ai, điều thích thú nhất là bắt gặp trong câu thơ, một
chữ hay hai ba chữ làm nổi bật, làm sáng toả câu thơ lên, thứ chữ mà một ông bạn
văn của tôi, rất giỏi chữ Hán, gọi là nhãn tự. Tôi từng sửng sờ trước câu thơ của
Nguyên Sa: “ Hôm nay Nga buồn như con chó ốm”. Ai đã nhìn thấy con
chó, nhất là một con chó con, ốm như thế nào thì sẽ thấy cô Nga của Nguyên Sa dễ
thương như thế đó. Những thứ nhãn tự tiếp theo như chữ khíu trong thơ Du Tử
Lê: “Nhớ em kim chỉ khíu tình”. Chữ khíu đọc lên nghe khắng khít
tình nghĩa vô cùng. Như hai chữ truyền nhiễm trong thơ Tô Thùy Yên: “Ta
dậy khi gà truyền nhiễm gáy”. Tiếng gà gáy lúc rạng đông có tác dụng lây
lan của một căn bệnh . Có những câu thơ kép, khi trích ra, tự nó đủ tiêu biểu
cho cả một bài thơ: “Giấy bút tôi ai cướp giật đi/ Tôi sẽ dùng dao viết
văn lên đá.”. Thơ Phùng Quán. Chữ dao âm thanh nhẹ, dẽo nhưng ý sắc vô
cùng.
Tôi thích làm thơ hơn viết văn dù văn có giúp tôi có chút
danh qua cuốn Y Sĩ Tiền Tuyến. Tôi thích làm thơ tình hơn tất cả. Thơ tình giúp
mình không có tuổi. Ở bất cứ thời điểm nào mình cũng trẻ, cũng đam mê, cũng táo
bạo. Nhưng thơ tình của tôi có vẽ như hơi lý trí, bởi cái tật hay lý luận. Có
thể tôi chịu ảnh hưởng quá nặng những lời khuyên của Boileau: “Avant
donc que d’écrire/ Apprenez à penser” (Trước khi viết/ hãy học cách
suy nghĩ đã/). Có lẽ vì thế cho nên tôi chỉ ngồi vào bàn viết khi một đề tài
nào đã chín muồi trong đầu. Viết truyện ngắn cũng thế, chỉ khi nào có được một
kết thúc ưng ý trong đầu tôi mới khởi sự viết. Cũng như tôi thấy trước phải sử
dụng thể thơ nào cho đề tài nào. Chẳng biết như thế là hay hay dở.
Đi trên con đường thơ cũng đã một quãng khá dài. Tôi đang
mang hoàng hôn vào cuộc đời. Thế mà: “Còn sống, còn mong, còn khổ/Anh
còn làm thơ yêu/ Ở ngôi thứ nhất/ Ngôi thứ nhất cho mỗi người”. Có lẽ rồi
cuối cùng tôi cũng mong được như nhà thơ Đỗ Quý Toàn, trong lời đề tựa cho tập
thơ của tôi, đã, giùm tôi: “Ao ước mỗi chúng ta sẽ tìm thấy trong thơ
Trang Châu một mảnh hồn mình ở một nơi nào đó, vào một lúc nào đó. Nếu có những
tình nhân trên trái đất chép những câu thơ này để gởi tặng nhau thì thi sĩ còn
ước ao gì hơn nữa.”
*4ème, 3ème, 2ème, 1ère, terminale của trường Tây tương
đương với đệ ngũ, đệ tứ, đệ tam, đệ nhị (tú tài I) và đệ nhất (tú tài II) trường
Việt, thời Việt Nam Cộng Hoà.