“Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Nguyễn Du
Trong số người gần gũi với Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh những năm
mưu phục lại cơ đồ nhà Nguyễn có một hào kiệt mà không sử sách nào nhắc đến.
Người đó là Ðặng Phú Lân.
Lân quê ở Hưng Hóa, cha là Ðặng Phú Bình, trước là thuộc tướng của Trịnh Bồng.
Bình tính ngang tàng, võ công thâm hậu, thấy chúa Trịnh hèn mà cách xử thế keo
kiệt, không xứng đáng với bậc vương giả nên bỏ Trịnh Bồng vào Ðàng Trong. Khi
Tây Sơn nổi lên, Bình theo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Nhạc không tin Bình, cho Bình là
dân Bắc Hà trí xảo, không trung tín. Nhạc chỉ cho Bình làm một chức quan võ nhỏ
ở vùng sơn cước mãi tây Bình Thuận. Bình bất đắc chí, suốt ngày uống rượu, nhiều
khi say quá, cứ trông về phía trời Bắc mà khóc hu hu. Lân can thế nào cũng
không được. Về sau Bình ngã nước, râu tóc rụng hết, gầy tọp đi, da vàng như nghệ,
chỉ nằm chờ chết. Bình có một thanh kiếm gia truyền, sắc như nước, sống kiếm đổ
chì, sức chém khủng khiếp. Trước khi chết, Bình trao thanh kiếm lại cho Lân, bảo
rằng: “Con ơi, nước đang có loạn. Tây Sơn bây giờ đang lên như thế chẻ tre.
Nhưng ta thấy sức chơi của bọn người này bất quá chỉ như trọc phú nhà giàu,
gÁnh vác giang sơn sao được? Ta đồ rằng mệnh Tây Sơn có hạn. Hiện Gia Ðịnh có
Nguyễn Phúc Ánh là nòi vương giả, con gắng vào đấy tìm xem”. Lân khóc, mắt chảy
có máu. Bình giãy mấy cái, mồ hôi toát đầm đìa, người cứ lạnh dần rồi chết. Lân
lấy kiếm đào huyệt chôn cha; tìm đường vào Gia Ðịnh theo Nguyễn Phúc Ánh. Lúc bấy
giờ Lân mới hai mươi tám tuổi.
Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Ðịnh tìm cách lật đổ Tây Sơn, khi này thế đã mạnh. Ánh là
người đa mưu túc kế, tính kiên trì, không tin ai, dùng người lấy chữ “hiệp”, chữ
“lễ” làm trọng, không coi “nhân”, “nghĩa”, “trí”, “tín” ra gì. Thỉnh thoảng,
Ánh vào trong đất Thuận Quảng, xuất quỷ nhập thần. Người Ðàng Trong sợ Ánh hơn
là thích Ánh. Ánh đi đến đâu nghe nói cũng có mây đen cuồn cuộn bay đằng trước,
dân cư thấy có mưa là biết Ánh vừa đi qua.
Lân gặp Ánh. Ánh thấy Lân khôi ngô, ăn nói khoan hòa mà thủ đoạn táo bạo thì
thích lắm, cho ở luôn bên mình. Một lần thuyền Ánh qua cửa Tiền Giang, có bốn
người đi theo, trong đó có Lân. Bấy giờ có con cá sấu rất to cứ bơi theo, đuổi
thế nào cũng không được. Mọi người lo sợ, thấy phải có người nhảy xuống làm mồi
cho cá sấu thì mới thoát.
Ánh hỏi: “Ai vì nước Việt mà chết?”
Ba người kia tình nguyện chết, chỉ có Lân ngồi im. Ánh trừng mắt hỏi Lân: “Trượng
phu quý mạng sống thế à?”
Lân chắp tay: “Chúa công đừng giận. Nước Việt thì không ai hại được. Còn thoát
hàm cá sấu, cần gì phí một mạng người!”
Nói rồi nhặt hòn đá ở mạn thuyền ném con vịt giời bay qua. Vịt giời rơi xuống
nước, cá sấu thấy vậy vội bỏ thuyền lao đến chỗ vịt giời. Ánh cười ha hả bảo rằng:
“Thế này thì nghiệp ta thế nào Trời cũng cho thành”.
Ánh đi đâu cũng cho Lân đi theo, cũng nhiều khi Ánh xem ý Lân để liệu xử thế với
người, lần nào cũng trúng. Có lần, lúc này thế Ánh như diều gặp gió, trước Tết
Nguyên đán, các tướng lĩnh, các nhà hào phú quanh vùng, cả dân chúng Gia Ðịnh nữa
cũng mang lễ vật đến mừng, Ánh cho Lân ra nhận lễ vật. Lân ra nhận, cho ráo vào
cả một kho. Khách đến chúc mừng Ánh, chỉ đi chân tay không mà vào. Bọn Lê Văn
Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Võ TÁnh thấy lễ vật của mình cũng bị xếp cùng với lễ vật
những người khác thì căm tức. Bọn này phàn nàn với Ánh, ý trách Ánh để tả hữu
coi thường mình. Ánh cười bảo rằng: “Lân là người có văn, có võ, lại cương trực,
trung thành với chủ, cứ để hắn khu xử. Hắn có cách khu xử của hắn. Những người
gần ta không phải kẻ tầm thường đâu”.
Sáng mồng một, lập đàn tế thần, Ánh cho Lân đứng ra chia lộc thÁnh. Lân chia phần
đều ai cũng như ai, mọi người rất hớn hở. Sau việc này, Ánh hỏi Lân, Lân đáp:
“Nghiệp chúa công chưa thành, thế mà đã có kẻ dâng lễ vật nhiều, dâng lễ vật
ít. Biết lễ vật của từng người, chúa công sau này dùng họ khó.” Ánh bảo: “Phải!”
Lân lại nói: “Việc chia phần đều nhau là để ai cũng thấy mình phải cố gắng”.
Ánh bảo: “Cũng phải”. Ngồi một lúc Ánh nói: “Chỉ e ngươi căn cơ quá chăng?” Lân
đáp: “Ðầy tớ không căn cơ có hại cho chủ”. Ánh bảo: “Ngươi là dân Bắc Hà; Ngươi
không hiểu dân Ðàng Trong như ta được. Ngươi tưởng làm thế là chu toàn, nhưng bậc
vương giả thích sự tiện lợi hơn cả”. Lân bảo: “Chúa công nói phải, căn cơ chỉ hợp
với bần tiện, nhưng đất của Chúa công bây giờ nhiều hơn đất của Tây Sơn hay của
Tây Sơn nhiều hơn?” Ánh cau mày đáp: “Ta chỉ vỏn vẹn có ba thước đất chôn thây
thôi”. Lân bảo: “Không phải thế. Chúa công được lòng trời đất, chỉ cần Chúa
công thành tâm”. Ánh ngồi im, lát sau lại hỏi: “Nhạc không nói làm gì. Lữ không
nói làm gì. Huệ có cách gì mà giỏi giang thế?” Lân đáp: “Huệ giỏi dùng người
tài nhưng không giỏi dùng người thường. Chúa công khác Huệ”. Ánh ngồi im không
nói năng gì.
Khi Nguyễn Huệ chết, con trai là Nguyễn Quang Toản lên ngôi, Tây Sơn năm bè bảy
mối. Ánh mừng lắm sai mở tiệc mừng. Lân đứng ra can: “Chúa công đừng làm thế,
dân chúng nhìn vào không cho ta là người đại lượng”. Ánh bảo: “Huệ coi ta là quốc
thù, hịch truyền khắp nơi, lời lẽ bẩn thỉu lắm. Ta với Huệ không đội trời
chung. Nó chết ta cười cũng không được ư?” Lân đáp: “Huệ không có tội gì, chỉ
là một người tài, bị trời hành, cũng như Chúa công vậy. Nhưng lực lượng của Huệ
không được hưởng phúc lâu dài, thế là Huệ dăm bảy đường thiệt. Ta lấy lộc của kẻ
được hưởng phúc trời mà cư xử, trời thấy ta phải, người cũng thấy ta phải”. Ánh
nghe Lân nhưng nghiến răng nói: “Khi nào ta thành nghiệp lớn, ta phanh thây nó,
ta chôn ba họ nó”. Lân bảo: “Chẳng lâu đâu, Chúa công cứ nhịn cười, lúc ấy cười
một thể”. Quả nhiên sau này khi Ánh chiếm Thăng Long, thống nhất giang sơn, Ánh
trả thù Tây Sơn rất thảm khốc.
Khi Ánh chiếm Phú Xuân, cướp được một ca nữ xinh đẹp lạ lùng, tên là Ngô Thị
Vinh Hoa, vừa tròn mười tám tuổi. Vinh Hoa hát hay, đàn giỏi, điệu bộ rất duyên
dáng. Một đêm, Ánh hứng khởi, sai Lân đưa Vinh Hoa vào bày tiệc, ngồi nghe hát.
Lân bảo: “Hát bài Triều Thiên Tử“. Vinh Hoa ôm đàn hát:
Kìa xanh xanh
Mấy nụ non
Mấy lá non
Nhờ mưa xuân mang sữa cho
Nhờ gió xuân mang khí thở cho
Nhờ đất mang lương thực cho
Chẳng chịu cho ai hái
Càng lớn, nhan sắc càng mỹ miều
Càng lớn, phẩm hạnh càng thanh sạch
Càng lớn, càng cả thẹn
Thơ nào tả được vẻ đẹp này
Bút nào vẽ được ý tứ này
Ai tương tư mà chau mày
Ngủ thì thôi, tỉnh lại nhớ
Ấy là trời cho
Vẻ đẹp hoàn hảo
Vẻ đẹp thiên kim.
Ánh vỗ tay reo: “Hát hay quá”. Lân lại bảo:” Hát bài Tình Sông Núi“. Vinh Hoa ôm
đàn hát:
Kìa núi cao cao
Kìa sông xanh xanh
Núi do đâu mà ra
Sông do đâu mà ra
Tráng sĩ xa nhà
Lặn lội trên đường
Nơi cố hương
Mẹ già bạc đầu
Gái quý đêm nằm trằn trọc
Lấy gì trả nghĩa tình
Uống chén rượu sầu
Mời núi cao một chén
Lạy thiên tử ba lạy
Chẳng quên tình sông núi
Chỉ thương tình mẹ già với người đẹp phương xa.
Ánh cau mày: “Hát hay nhưng buồn quá”. Vinh Hoa quì xuống lạy: “Tiện thiếp làm
rầu lòng người trời”. Lân đỡ dậy, bảo rằng: “Người chớ lo, Chúa công lòng rộng,
những thứ tình cảm sướt mướt của bọn người thường không hợp với Chúa công đâu”.
Nói xong, Lân sụp xuống lạy Ánh: “Ngày mai Chúa công ra trận vui thú ít thôi, cần
nghỉ ngơi”. Ánh thở dài đứng lên: “Cũng phải ngươi ép ta, đến nay là chín năm rồi,
ta còn nhớ. Từ khi ngươi cắp gươm hầu ta, ăn ngủ cũng phải tính giờ. Xưa kia ta
đâu phải vậy?” Lân đáp: “Chúa công chịu mệnh trời, gÁnh nặng hơn người”. Ánh bảo:
“Ta chỉ thích như người thường thôi!” Tuy nói thế nhưng cũng rũ áo vào trướng.
Vinh Hoa ôm đàn lui ra. Hôm sau, Ánh bảo Lân: “Ta đi mà cứ văng vẳng tiếng hát
ca nữ bên tai, tiếng gió thổi, tiếng gươm dao không át được”. Lân bảo: “Chúa
công còn nhiều cơ hội nghe hát, nhưng cơ hội diệt Tây Sơn chỉ có một”.
Ánh họp các tướng, bàn kế hoạch đánh ra Thăng Long. Lê Văn Duyệt tâu: “Bắc Hà
có nhiều danh sĩ tài giỏi. Sao cho cờ của ta đến đâu, bọn khốn nạn này mà theo
thì dân chúng cũng phải theo thôi”. Ánh bảo: “Không được. Ta ủy mệnh trời, cần
gì mua chuộc ai? Ta đến đâu, đào hố đến đấy, chôn chúng nó xuống, dân chúng
không theo không được”. Quan tướng ai cũng thấy phải, ngồi yên lặng cả.
Ðêm ấy Ánh thao thức không ngủ được, gọi Lân đến bảo múa kiếm cho xem. Lân cầm
thanh kiếm gia truyền, múa loang loáng, nghe như có gió thổi bốn bề. Ánh nhìn
toát cả mồ hôi, đoạn bảo đưa kiếm cho xem. Ánh cầm thanh kiếm hai tay, phát đứt
một cây hoa dại vòng gốc như cột nhà mà chỉ bằng một nhát. Nhựa cây phun ra như
máu trắng. Ánh hỏi: “Kiếm của ngươi sao sắc bén vậy?” Lân bảo: “Ðây là kiếm thần,
không rõ xuất xứ, tổ phụ truyền lại”. Ánh hỏi: “Sao bây giờ ta mới thấy nó?”
Lân bảo: “Trước Chúa công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới nhìn rõ kiếm.
Thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó”. Ánh cầm thanh kiếm không muốn rời tay.
Ánh hỏi: “Trưa nay khi nói việc ta muốn chôn danh sĩ Bắc Hà, sao ngươi tái mặt?”
Lân tâu: “Lân là người Bắc Hà nên tủi phận mình sợ cho mình”. Ánh bảo: “Ta chỉ
ghét bọn chữ nghĩa thôi, còn ngươi là con nhà võ thì sợ gì. Chữ nghĩa chúng nó
thối lắm, ngụy biện xảo trá tinh vi. Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm
o, như dòi chồn hèn mọn cả”. Lân bảo: “Ða số như thế, chôn cũng đáng. Chỉ có
đôi người khá, chúa công được họ thì thêm sang cho chúa công”. Ánh bảo: “Ta
không tin bọn nó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô
đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng nó mệt lắm”. Lân bảo: “Thế là chúa công
vẫn quen dùng người thường, ở bậc cao nhân còn gì còn chuyện vô đạo, hữu đạo?
Tâm ở sự thành, đâu phải ở lòng? Chúng không chịu hiểu là lỗi ở chúng. Ðã ai hiểu
việc chúa công dùng Bá Ða Lộc, dùng người ngoại quốc? Chúc công còn phải mang
tiếng ba trăm năm”. Ánh lo sợ nói: “Phải làm sao?” Lân bảo: “Chẳng làm sao được,
nhưng bên cạnh chúa công có vài người như Ngô Thì Nhậm thì không sao cả”.
Ánh bảo: “Ta muốn cho ngươi đi trước, chiêu mộ đôi ba người, thế là công to lắm”.
Lân sụp lạy: “Ðược thế còn gì bằng, Lân cũng không thẹn mặt với nơi sinh ra
mình”. Ánh bảo: “Ta giữ thanh kiếm này để khi ngươi quay về, có tin hay, ta có
cớ mà khen thêm. Còn không được việc, ta có linh khí mà trừng phạt”. Lân tái mặt
nhưng đành phải chịu.
ít bữa sau, Lân cãi trang, giắt theo ít vàng bạc, tìm đường ra Bắc Hà. Lúc này
Bắc Hà nhốn nháo lắm, triều đình Tây Sơn như trứng để đầu đẳng. Bọn tướng của
Tây Sơn tranh giành nhau, chẳng còn biết giữ gìn tiếng tăm nữa. Lân thân cô, thế
cô, lang thang đây đó, đi khắp nơi tìm người tài giỏi nhưng không thấy ai ưng
ý.
Một hôm, Lân vào nghỉ ở một quán trọ ven đường, thấy có một người cốt cách hiền
lành, dáng điệu bồn chồn đang ngồi uống nước chè suông. Hai người nói chuyện.
Lân ngạc nhiên thấy người này trong trẻo lạ thường, tâm hồn sạch như nước ở suối
ra. Lân cố mời rượu, người này chỉ uống một tí đã đỏ mặt. Con gái chủ quán rất
xinh đứng ra hầu rượu. Người trẻ tuổi bảo: “Khách ở nơi xa đến, mệt mỏi vì công
danh không đâu, chưa biết thế nào là đường đi lối lại, cô Cầm hát một bài cho
nghe đi”. Lân thoáng ngạc nhiên, rồi bình tâm lại, vật nài mãi, cô con gái chủ
quán bèn ôm đàn ra đưa cho người trẻ tuổi. Người trẻ tuổi gảy đàn, cốt cách rất
ư thanh lịch. Cô con gái chủ quán hát:
Kìa trăm năm
Tài mệnh là gì
Chỉ thấy đớn đau
Nhờ mưa mang sữa cho
Nhờ đất mang lương thực cho
Chẳng chịu cho ai hái
Ai hái cũng phí
Nhan sắc mỹ miều cũng qua thôi
Phẩm hạnh thanh sạch cũng nhạt thôi
Càng lớn càng cả thẹn
Cố tả được vẻ đẹp này
Gắng vẽ được ý tứ này
Ai tương tư cho rầu lòng
Ngủ thì thôi, tỉnh lại nhớ
Ấy là trời buộc
Cô quạnh vì nàng
Ta đi săn, đi câu
Vẻ đẹp hoàn hảo
Vẻ đẹp thiên kim
Bao giờ bốc mộ
Nhỏ cho một giọt nước mắt
Kìa trăm năm
Tài mệnh là gì
Chỉ thấy đớn đau
Lân nghe xong, thở dài trào máu ra từ ngũ khiếu. Lân kêu to: “Trời hỡi trời,
sao giống bài Triều Thiên Tử vậy?” Cô con gái chủ quán cười cười chỉ tay vào
người trẻ tuổi: “Bài này không có tên, do người này làm ra, chỉ để riêng cho Cầm
hát”. Lân thở dài nói: “Bài hát hay quá, thật Lân này chưa biết thế nào là đường
đi lối lại”. Nói rồi Lân cáo từ vào trong nằm nghỉ. Hôm sau Lân dậy sớm, bỏ đi
không chào chủ quán, cũng không hỏi người khách trẻ tuổi với cô Cầm, con gái chủ
quán.
Khi Lân đến được Thăng Long thì Nguyễn Ánh đã vào thành rồi. Quân Ánh đi như nước
lụt, Lân như cÁnh bèo bị sóng cuốn trôi. Thâm tâm Lân cũng chẳng biết nên vui
hay buồn, chỉ thấy trong lòng cảm động.
Lân gặp Ánh xin chịu tội vì không làm được việc. Ánh ngồi trên ngai vàng, tả hữu
gươm giáo sáng quắc hai bên. Lân tự trói mình, quì xuống sân rồng. Ánh bảo:
“Ngươi theo hầu ta thế là chín năm một trăm ngày. Chín năm không làm hỏng việc
gì, còn một trăm ngày thì hỏng việc, vô tích sự. Thế là trèo lên cây mà không
hái được quả, đáng tội chết”. Lân không nói năng gì, vươn cổ ra chịu chém. Nghe
nói Nguyễn Ánh đã sai đao phủ dùng thanh kiếm gia truyền của Lân để chém đầu
Lân. Khi chém đầu, máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau thì
bết lại.
Ðoạn kết
Tôi, người viết truyện này, gần đây lên Ðà Bắc, đến Tu Lý ở trong nhà một người
Mường. Chủ nhà tên là Quách Ngọc Minh có cho xem bài vị thờ tổ tiên. Tôi hết sức
ngạc nhiên khi ông Quách Ngọc Minh cho biết tổ tiên ông là người Kinh. Ông
Quách Ngọc Minh có nói tổ phụ ông tên là Ðặng Phú Lân, có vợ tên là Ngô Thị
Vinh Hoa vốn là một ca nữ. Lân và Hoa trốn vua lên Ðà Bắc, giả làm người Mường,
về sau lập trại, sinh con đẻ cái ở đây. Ông Quách Ngọc Minh có nói tổ phụ ông
sinh thời từng gặp Nguyễn Du, tác giả cuốn Ðoạn Trường Tân Thanh nổi tiếng. Tôi
còn được con gái ông Quách Ngọc Minh tên là Quách Thị Trinh hát cho nghe một
bài hát xưa, lời lẽ rất thanh tao về những chồi cây xanh.
Viết truyện ngắn này, tôi muốn để tặng gia đình ông Quách Ngọc Minh để cám ơn
thịnh tình của gia đình ông đối với riêng tôi. Tôi cũng xin cảm ơn một số nhà
nghiên cứu lịch sử và bạn bè quen biết đã giúp tôi sưu tầm chỉnh lý những tư liệu
cần thiết cho công việc viết văn, vốn rất nhọc nhằn, phức tạp, lại buồn tẻ nữa
– của tôi…
Nguyễn Huy Thiệp