Làm quen với mì Quảng
Trong những món ăn của Quảng Nam, tôi có duyên với cao lầu
và cao lầu gỗ ở Hội An rất sớm. Riêng món mì Quảng, thì cơ duyên đến hơi chậm,
chậm nhưng bền; bền cho tới nổi nay nó trở thành một món trong thực đơn gia
đình, ngang hàng bún bò Huế, bánh béo, bánh nậm . . dưới bàn tay đạo diễn của
bà xã, thuộc lọai Huế rặt và . . . bảo thủ.
Tôi nói chậm, là vì mãi đến mùa Hè năm 1970, khi đổi từ Sàigòn ra Đà Nẵng, làm chung sở với anh bạn chánh gốc Quảng Nam, được anh kêu tới nhà ăn mì Quảng do tay chị ấy làm và giới thiệu tỉ mỉ, bấy giờ mới ngộ ra rằng té ra trên đời này lại có món ăn dễ thương như rứa.
Ăn quen bén mùi, từ đó, hễ nghe ở đâu có mì Quảng ngon, cũng
lò dò tới thử cho biết. Phải thành thật mà nói, tại Hội An và Đà Nẵng, chưa chịu
quán nào cả, nhưng một khi đã nếm thử mì Quảng Túy Loan và mì Cây Trâm thì tâm
phục khẩu phục, danh bất hư truyền.
Thôi thì hãy bỏ tiệm Mì Cây Trâm qua môt bên, vì ở đó có mấy
chị em nhan sắc hơn người, ai đã vô ăn cũng thấy ngon mắt trước ngon miệng. Biết
đâu cái ngon mắt ấy đã làm trung tâm thần kinh trở thành lệch lạc, cái đầu lưỡi
mất tính nhạy cảm trung thực, khiến cho tô mì Quảng ở đó có thể vốn thuộc hạng
trung bình, bỗng trở thành hạng nhất, thậm chí, lên thượng hạng đặc biệt chăng?
Thế rồi một đồn mười, mười đồn trăm, đồn ngàn, nghe riết thành ấn tượng trong đầu,
chưa ăn đã thấy ngon. Vì thế, theo tôi, chỉ có mì Quảng ở Túy Loan mới là ngon
thứ thiệt, ngon vô tư, ngon đơn sơ, mộc mạc như gái quê không son không phấn,
không phụ tùng, không tân trang, mà vẫn dễ thương.
Bữa đó, đi về ngang Thanh Quít, thấy đã hơn 12 giờ trưa, tôi
bàn với anh tài xế: lát nữa tấp vô Hội An ăn cao lầu đi. Anh ta, vốn người
Thanh Khê, cười cười: ông khen mì Quảng ngon, vậy ông ăn mì Túy Loan chưa?
Chưa. Rứa thì lần này ăn thử cho biết. Túy Loan là quận lỵ của quận Hiếu Đức thời
đó. Tiếng là chợ quận nhưng vẫn là nét chợ miền quê. Không phải là tiệm mì mà
là quán mì. Có hai ba quán gì đó, anh tài xế ngó bộ cũng là tay thổ công thổ địa
nơi này, dẫn tôi vào ngay một quán mà anh chấm là số một, “sạch và ngon” . Tôi
hỏi : ở đây có mì chi? Heo?Bò?Gà? Hay tôm cua? Anh ta lại cười cười: ông cứ thử
bò cho biết; bò ở đây không giống bò Đà Nẵng đâu. Tôi hỏi tại sao, anh chỉ cười:
cứ thử, đừng nói, mất linh. Khi nhai miếng thịt bò trong miệng với một chút lắng
nghe từ cái răng, từ đầu lưỡi, mới thấy anh ta có lý. Lát thịt nhỏ bé và khiêm
tốn chứ không như lát thịt phồn vinh ở Mỹ, nhưng vừa thơm vừa ngọt vừa mềm,
thanh tao một cách đậm đà. Lại còn bánh tráng nữa. Dù là bẻ từng miếng rồi nhâm
nhi theo kiểu độc tấu đang khi chờ bà quán sửa sọan tô mì, hay bóp vụn ra trong
tô mì theo kiểu hợp tấu, thì cái bánh tráng Túy Loan vẫn có mùi vị thơm ngon
khác người ta. Làm tôi nhớ tới bánh tráng Sịa của Huế “miền”. Khi trả tiền, tôi
không quên vớt một chục bánh tráng về quảng cáo không công với bà xã.
Mì-Quảng-luận
Nghĩ cái đất nước Việt Nam mình cũng lạ. Từ Nam chí Bắc đều
sống nhờ hột gạo – ăn thiệt cũng gạo, ăn chơi cũng gạo -- ấy thế mà chỉ có nồi
cơm, nồi cháo là giống nhau, còn những món ăn chơi chế biến từ gạo lại không miền
nào giống miền nào. Này nhé, miền Bắc có phở, có bánh cuốn, bánh giò. Huế có
bún bò, bánh nậm, bánh bèo, bánh lá, bánh gói, bánh ướt. Quảng Nam có mì Quảng;
Miền Nam có hủ tiếu, bánh khọt v.v. Thậm chí, cũng cùng một nguyên tắc chế tạo
giống nhau – bột gạo xay ra, hòa nước, tráng lên khung vải căng trên nồi nước
sôi, hấp cho chín -- ấy thế mà thành ra bánh cuốn, bánh tráng (bánh đa) bánh ướt,
lá mì Quảng, bánh phở, hủ tiếu v.v., mỗi thứ một vẻ về hình thức cũng như nội
dung, không đem cái này thế cho cái kia đuợc. Bạn không tin thì thử lấy lá mì
Quảng đem làm bánh phở, xem ăn có được không; hoặc lấy bánh phở làm bún bò Huế
xem sao. Chắc chắn là không thể được. Chúng nó chửi nhau thậm tệ, ăn vào miệng,
nghe không ra Tàu cũng chẳng ra ta. Chúng khác nhau ở độ dày mỏng chăng? Chúng
khác nhau ở thành phần của bột chăng? Tôi nghĩ tới bàn tay và cái đầu của người
tráng bánh. Cái độ dày mỏng của lá bánh dường như đã in sẵn trong đầu, không cần
tới thước đo. Từ đó lệnh truyền tới bàn tay, điều khiển sao cho cái vá múc đúng
cân lượng, rồi cái bàn tay điệu nghệ kia sẽ chầy bột trên mặt vải bao nhiêu
vòng là vừa độ mỏng của cái bánh, và phải hấp bao lâu để thành ra bánh cuốn chứ
không phải bánh ướt; lá mì Quảng chứ không phải bánh tráng.v.v. Chính xác và
nghệ thuật, như người nghệ sĩ chơi đàn bầu. Cây đàn chỉ có một dây mà sinh hóa
biết bao cung điệu chỉ nhờ những ngón tay mộc mạc mà tài hoa. Tôi nói mộc mạc
vì đàn bầu là đàn của dân quê chứ không phải gốc nhạc cụ thính phòng của giới
sính cầm kỳ thi họa!!
Muốn có một tô mì Quảng, phải hội đủ sáu món: bánh, nước
nhưn, rau sống, đậu phụng rang, và báng tráng. Ở đây, không nói tới ớt trái và
chanh. Cả sáu thứ đó hòa hiệp lại thì mới ra mì Quảng, nhưng theo tôi, vai trò
chính vẫn là nước nhưn. Trong một lần “mì Quảng luận”, môt anh lớn tuổi, người
Quế Sơn, nói với tôi rằng , “ Mì Qủang của tụi tui cũng như cơm hến ngòai Huế của
mấy anh vậy. Đó là món ăn bình dân, ai làm cũng được, chẳng đòi hỏi chi nhiều.
Nguyên liệu thường là thứ có sẵn trong nhà, trong vườn. Cái thứ mì Quảng mà anh
ăn ở hàng, quán là thuộc lọai mì quí tộc, phải làm cho ngon để câu khách, còn ở
quê, người ta ăn dễ lắm, mà ngon không thua chi. Cần chi phải tôm , gà, bò,
heo. Vào mùa mưa lụt, việc đồng áng tạm ngưng; người ta đi kiếm con tôm, con
cá, con ếch, con cua dễ dàng. Những cá những tôm đó, đem về, lụộc ra; cá thì
ráy lấy thịt, rồi hiệp với tôm, ướp tiêu hành nước mắm cho thấm; xong rồi xào với
mỡ hay dầu phụng khử hành, khử nén, bỏ vô chút bột nghệ, vậy là anh có nồi nước
nhưn ngọt lừ, thơm phức, chan vô. Rau sống thì anh ra ngòai vườn, kiếm cái bắp
chuối sứ làm vốn, rồi quơ thêm một mớ rau cải con, ngò gai, rau thơm, vậy là
xong. Đậu phụng, bánh tráng nhà mô lại không có. Người xay bột, người tráng
bánh, chừng một buổi là có ngay một bữa mì vừa ngon miệng vừa no bụng.”
Những lời này không biết lọt vào bộ nhớ của tôi hồi nào
không hay và nó ngủ yên cho tới một ngày nọ có cơ hội là nó vùng dậy một cách đắc
chí.
Hồi đó, tuổi tù đã bước qua năm thứ năm. Ngày nào cũng làm đệ
tử bất đắc dĩ của ông Đạo Dừa, nghĩa là gần như chay tịnh với cơm ghế sắn không
đủ no và rau muối qua ngày; chuyện ăn được tô mì Quảng là chuyện thần tiên. Ấy
vậy mà khi thời cơ tới, được ăn mì Quảng trong tù do chính tay mình làm, mới
thiệt là chuyện “trạng”.
Mì Quảng “Short Form”
Cái gì mà “Short Form” ở đây? Số là ở Mỹ, đầu năm phải khai
thuế lợi tức. Ai lợi tức khiêm tốn thì dùng mẫu ngắn -- Short Form --, còn ai lợi
tức nhiều thì dùng mẫu dài – Long Form. Ở tù, làm chi có đủ gia vị như ngoài đời
mà đòi ăn mì Quảng Long Form!
Bữa đó, một tổ 15 người , trong đó có tôi, được cắt đi cắt
tranh ở hòn Om, một ngọn đồi khá cao nằm trong thung lũng Tiên Lãnh, Quảng Nam,
cách trại hơn nửa ngày đường. Thời gian công tác 15 ngày, ăn ở tại chỗ. Tranh cắt
rồi, phơi khô, bó lại, sẽ có một đội khác gánh về. Buổi sáng, khi cùng hai người
bạn đi nhận thực phẩm cho cả tổ ở nhà bếp, tôi thấy ngoài thùng mắm cái (mắm
nêm) và muối, còn có non 1/3 xị dầu phụng (dầu lạc). A, năm đó trại bắt đầu ép
mùa dầu phụng đầu tiên, hèn chi tù có chất béo. Cái chất nước vàng trong sóng
sánh trong chai xá xị kia bỗng đánh thức trong tôi cái ký ức “mi Quảng luận” của
anh bạn Quế Sơn năm xưa. Tôi bàn với tay tổ trưởng, “ Tôi đề nghị 1/3 xị dầu
này đừng ăn. Bàn với anh em để dành, mình sẽ kiếm cách làm một bữa mì Quảng, ăn
cho đã thèm” Anh ta hỏi lại , “Thiệt không đó? Giỡn hoài cha! Ở đây mà được no
bụng là quí rồi, còn bày đặt mì Quảng mì Huế!” Tôi nói muốn ăn thì phải có kế
hoạch, khi nào họp tổ, tôi sẽ trình bày.
Hai giờ chiều thì tới nơi. Sau khi xin được hai chủ nhà ở gần
nhau cho chúng tôi tạm trú, một tay công an dẫn tổ trưởng đi liên lạc với xã để
nắm vững khu vực cắt tranh, còn tay kia thì ở lại coi ngó chúng tôi đang lo ổn
định chỗ ở. Nhà chỉ có hai vợ chồng và ba đứa con nhỏ, đứa lớn nhất mới 7 tuổi.
Cạnh nhà bếp có cái nhà nhỏ để cối xay lúa và bộ chày đạp. Té ra vợ chồng này
có nghề hàng xáo, chuyên làm gạo để bán trong xã. Thấy trong nhà anh em chiếm hết,
hai anh bạn và tôi ra cái chồ để củi treo võng. Tuy cạnh chuồng heo nhưng lại
thoáng bốn bề. Khi tay tổ trưởng trở về thì xin phép họp tổ để phân chia công
tác. Chúng tôi ra cả ngoài hè nhà, dưới bóng mát của một cây mít lớn, ngồi bệt
xuống đất, họp. Tay công an bắc ghế ngồi giám sát. Thường thì việc chỉ định
“anh nuôi” (người nấu bếp) là gay cấn nhứt, nhưng may mắn có Cương tình nguyện.
Sau khi phổ biến “mục đích, yêu cầu”, kỹ luật . . . đủ thứ, đến phần ý kiến,
tay tổ trưởng đưa ra ý kiến “mì Quảng” của tôi.
Quả nhiên hai tiếng “mì Quảng” có năng lực hấp dẫn kịch liệt
nên ai cũng đồng ý ngay. Cuộc góp ý thiệt là sôi nổi:
-Muốn làm mì phải có gạo. Lấy gạo đâu mà làm?
-Tiêu chuẩn mỗi người một lon gạo và một ký sắn/ một ngày.
Mình nấu ăn chung, mỗi ngày, 15 người nhín một lon gạo. Vậy là có đủ 15 lon sau
15 ngày.
-Nói nghe thì dễ, nhưng một lon gạo nấu cơm ăn thì được, còn
làm mì, một lon/một người không no. Và mình cũng còn mời khách nữa chớ. Không lẽ
không mời cán bộ và chủ nhà. Mình vô ở nhà dân, mượn cối, mượn nồi, mượn dao thớt
của người ta, . . .
- Rồi, rồi, đồng ý. Nhưng lấy chi cho có thêm gạo đây?
- Sau giờ lao động, xin phép cán bộ cho tụi mình đi làm thuê
cho dân để cải thiện, đổi lấy sắn hay gạo. Có gạo thì để dành làm mì, có sắn
thì ăn thêm sắn sẽ dôi gạo ra.
- Cán bộ cho phép tụi tui cải thiện nghe cán bộ.
Không biết kế hoạch mì Quảng có tác động đến tay công an hay
không, nhưng nghe trả lời khá thuận lợi:
- Để tạo không khí vui vẻ cho các anh làm việc, tôi chấp thuận
trên nguyên tắc, nhưng các anh phải đảm bảo chỉ tiêu trại giao.
- Cán bộ đừng lo. Tụi tui bảo đảm mà.
- Nhưng ai biết tráng mì đây?
- Ê, đừng lo, có thằng Siêm, vợ hắn là chủ tiệm mì Quảng ở
Thạch Thang, phải không Siêm?
- Phải đó, tráng mì để tui. Làm sao cho có gạo, có nhưn là
được.
- A, lấy chi làm nhưn đây. Dầu thì có rồi, nhưng gà vịt đâu
mà nhưn với nhị?
Nghe hỏi thế, tôi ra quân ngay:
- Mấy ông khỏi lo. Tui nhắm rồi. Không có gà vịt thì mình phải
tính kiểu khác. Trước khi đi vô nhà này, mình phải bước qua một mương nước khá
rộng, lùm bụi tùm lum. Nhưn của tụi mình nằm dưới mương nước đó chớ đâu. Tui bảo
đảm với mấy ông, cái kiểu bùn như rứa mà không có cá trê, lươn với cá nhét thì
tui nhịn mì cho mấy ông ăn. Ngày chủ nhật, một nửa tổ sẽ be bờ tát cá, trong tổ
mình có ông thần bắt cá, lo chi nữa. Còn tui, tui tình nguyện làm rau sống, cho
mấy ông ăn chết bỏ.
Anh em nghe nói thì ồ, à, chịu lắm. Riêng anh chàng Nguyên,
vốn sính chữ nghĩa, cứ gật gù “ờ, ờ kế hoạch khả thi!” Thần bắt cá là Hà. Có một
lần đi làm về, khi kéo nhau xuống suối tắm, tôi đã thấy Hà chận bắt con cá đang
lội một cách tài tình, bàn tay như có nam châm. Người khám phá ra cái mương là
hắn chứ không phải tôi. Khi bước trên mấy khúc cây bắc qua con mương, tôi nghe
hắn nói nho nhỏ, “chà, có ăn đây” . Bắt được cái ý của hắn, nên tôi phải vội
nói ra để xí phần cái mương cho tổ chứ để một mình nó quậy thì hết ăn mì.
Tay tổ trưởng có nhiệm vụ đi bắt mối làm thuê. Nhà này cần
làm cỏ sắn; nhà kia cần vô chưn khoai lang. Nhà nọ cần đan hai cái thúng, lại
có nhà cần làm lại mấy bức phên v.v. vậy là chúng tôi thầu tuốt luốt. Mười mấy
đứa xúm nhau làm trong ba tiếng đồng hồ, có chi mà không xong. Trả công tùy hỉ,
và nói cho đúng, họ không ép, họ trả ít là vì họ nghèo. Nước sông, công tù, nề
hà chi! Hôm nào cũng ăn cơm tối mịt vì làm xong việc trại, còn phải tranh thủ làm
thêm kiếm gạo. Trong tổ, chỉ một mình anh Kỹ là giỏi nghề đan, vậy là mấy tay
không rành như tôi lãnh phần làm nan và đát. Đó là chưa kể ngày nào cũng có hai
người giúp chủ nhà xay lúa hoặc giã gạo bằng cối chày đạp, không công. Chừng mười
ngày thì nhà bếp báo cáo số gạo đã lên đến hơn hai lon/một người.
Cái ngày Chủ Nhật làm mì đúng là ngày trọng đại. Siêm có hai
phụ tá xay bột, đun củi và sai vặt. Tôi lo làm rau sống, Cương lo nấu ăn trưa
cho hai công an dẫn giải và cả tổ, còn tất cả 11 người đều túa ra ngoài mương.
Dưới sự chỉ huy của ông thần bắt cá, anh em be bờ hai đoạn, làm thành hai cái
đìa, rồi bắt đầu tát. Cái màn tát cá và bắt cá hấp dẫn cho tới nổi cả xóm ra
coi, và hai tay công an cũng ra chỉ chỏ điều động. Kết quả là một thùng thiếc đủ
thứ cá, trong đó chiến lợi phẩm lớn nhất là một con lươn dài cả thước, vàng hườm,
to bằng đầu cán cuốc.
Tôi chỉ đảo qua một lát xem tát cá, rồi phải đi lo việc của
mình. Lội quanh mấy nhà trong xóm, chỉ xin được có hai bắp chuối sứ. Tôi xin
thêm một cây chuối sứ con, to bằng bắp chân, chục trái khế chua, nhổ hơn chục
cây ngò gai mọc ở vỉa hè nhà nọ, quơ một mớ rau ngỗ điếc mọc hoang ở một đám ruộng
sũng nước, xin thêm một ít rau thơm, vậy là xong màn đi chợ. Mượn chủ nhà con
dao xắt chuối, mài thật bén, mượn thêm hai cái chậu làm bằng thiếc và một cái rổ
sảo to đựng chuối heo ăn, tôi đem đồ nghề ra gốc mít bắt đầu công việc. Trước hết
phải lo lặt rau và rửa rau cho sạch, xong đem ngâm nước cho tươi kẻo đến chiều
thì héo hết. Xong xắt khế chua vào chậu nước rồi mới xắt hai bắp chuối sứ, cái
chất chua của khế sẽ làm cho sợi bắp chuối giữ được cái vẻ sáng sủa nguyên thủy
chứ không xỉn màu thâm mặt vì mủ chuối. Tay Phong, phụ tá củi lửa cho Siêm, thấy
tôi làm, chạy tới đứng ngó, rồi nói:
- Anh là thứ “nông dân cày đường nhựa” *, nhưng ngó bộ anh
làm rau sống có bài bản dữ. Học khi nào vậy?
- Học Mệ Ngoại tui chứ ai.
- Anh là con trai, mệ ngoại anh dạy anh mấy thứ ni làm chi?
- Bà đâu có cầm tay cầm chưn mà vẽ. Thấy bà làm, tôi đứng
coi, nhập tâm hồi nào không hay, giờ tới lúc đem ra áp dụng.
- Này, ngó bộ anh đồng hóa tụi mình với heo hay sao mà có
cây chuối sứ ở đây?
- Ờ, giờ thì cũng tương tự. Anh nghĩ coi, tụi mình 15 đứa,
chưa kể khách, không lẽ hai bắp chuối này đủ cho mọi người ăn hay răng? Mì Quảng
mà thiếu rau sống thì không phải là mì Quảng nữa. Nên tôi phải lấy chuối sứ độn
vô. Anh đừng lo, không phải thứ của heo ăn đâu, đây là chuối thượng hạng, chiều
nay anh sẽ thấy một rổ rau sống vĩ đại, vừa ngon vừa đẹp mắt.
Tôi nói “trạng” được như vậy là nhớ hồi xưa, cái cách Mệ Ngoại
tôi làm dưa chuối. Cây chuối sứ con được rửa sạch, rồi bà lấy ra từng bẹ, tướt
đi lớp vỏ ngoài, xong úp các bẹ chuối với nhau, xắt thật mỏng, sau đó muối với
kiệu. Chừng ba bốn ngày thì ăn được, hương kiệu thơm nồng. Tôi không làm dưa,
nhưng tôi áp dụng lối đó để làm rau sống. Ba giờ chiều thì tôi đã có một rổ rau
sống đúng tiêu chuẩn như đã nói với Phong. Màu lục đậm nhạt khác nhau của các
loại rau và khế chua, cọng với màu nâu nhạt của bắp chuối, nổi nật trên nền trắng
của chuối sứ, thoang thoảng hương thơm, ngó khá bắt mắt. Khi tôi giở hai tàu lá
chuối bẻ gập làm nắp đậy để “trình làng” rổ rau vĩ đại, anh em khen” ngó được
quá!” Anh em lại càng xuýt xoa hơn khi Cảnh lôi trong túi ra cả một bụm ớt rài,
cái thứ ớt nhỏ con, mọc hoang trong rừng trong rẫy, mà cay xé miệng. Loại ớt
này, người Huế gọi là ớt Mọi, vì do người Thượng hái trong rừng, phơi khô, rồi
mang về thành phố bán.
Phải nói trong cái vụ làm mì này, không có Siêm là không
xong. Ngoài việc tráng bánh, xắt bánh, anh còn phải chỉ huy việc xay bột và
giúp Cường nấu nồi nước nhưn. Mước nhưn dở là hư sự hết. Ăn mì Quảng đã nhiều,
nhưng chỉ tới lúc đó tôi mới biết sợi mì thành hình như thế nào. Phải nói là
tôi xem Siêm xắt mì thích thú như xem người ta làm xiếc vậy. Những lá mì, trước
khi được chồng lên nhau, đều có thoa sơ một lớp dầu mỏng để khỏi dính. Chồng
ba, bốn lá mì với nhau, sáu ngón tay trên hai bàn tay của Siêm cầm nhẹ nhàng
hai đầu cái sống con dao phay, nhún bên này, nhún bên kia, lưỡi dao cứ thế mà
nhịp nhàng tiến tới, cắt ra thành những sợi mì với bề ngang non một phân, đều đặn
như cắt bằng máy. Ngó như chơi, thoải mái, mà hiệu quả.
Khỏi phải nói, buổi chiều hôm đó là một đại tiệc, không phải
cho cái thứ “phạm” như chúng tôi, mà cả đối với hai tay công an dẫn giải và vợ
chồng anh chủ nhà cùng ba đứa con nhỏ. Mặc dầu thiếu đậu phụng rang, bánh tráng
nướng, chanh, nước mắm ngon, và mặc dầu rổ rau sống không phải là thứ chính thống
-- nghĩa là một bữa mì-Quảng-Short-Form -- nhưng đã được hết thảy thực khách ca
ngợi là ngon hết cỡ, “hiệu Tân Mỹ giỏi lắm cũng chỉ nấu ngon chừng nớ thôi,” đó
là phát biểu của chủ nhà, 37 tuổi, sinh ra và lớn lên làm du kích ở xã Tiên
Lãnh, đã từng du lịch nơi xa nhất là Thị xã Tam Kỳ của tỉnh Quảng Tín, biết ở
đó có một nhà hàng Tàu có tiếng là Tân Mỹ.
Tôi truyền cái đạo mỳ Quảng cho bà xã, và phải khiêm tốn mà
nhận rằng bà nấu mì Quảng cũng ngon như bún bò giò heo, không thua chi tiệm,
chuyên trị gà và tôm, gia vị ngũ vị hương. Nhưng khi nghe tôi kể lại chuyện bữa
mì-Quảng-Short-Form năm xưa và yêu cầu bả làm nước nhưn theo kiểu đó, chắc ngon
lắm, thì bà cười, “lúc đó thì mấy anh ăn chi lại không ngon. Chừ mà nấu kiểu
đó, anh phải ráng ăn cho hết, vì không ma nào ăn mô.” Thiệt không?
Võ Hương An
------------------------
* không phải gốc nông dân