Huế 1988
Thưa bà, bà tỏ ý muốn tôi viết tựa cho tập thơ mà bà đã làm
trong dịp về thăm quê hương mùa hè năm ngoái. Tôi thì chỉ có tấm lòng đọc thơ,
lòng tôi đọc thơ của bà. Tôi nghĩ: thơ không đòi bài tựa, thơ chỉ đòi thơ. Thơ
chỉ đòi tình. Cho nên tôi viết thư tình.
Mà thật vậy, mới đặt bút, tình đã nghẹn ngào nơi cổ khi tôi vấp ngay hai chữ "về thăm" của bà. Về thăm quê hương…, quê hương là nơi chỉ để về thăm? Là nơi mà trong đơn xin nhập cảnh phải ghi rõ "về thăm"? Thăm là không ở? Là về để mà đi? Tôi về hay tôi đi? Mênh mông chỉ có mây trắng trả lời. Mênh mông, chỉ có tôi trả lời cho mây trắng.
Và khi tình đó lắng xuống thật sâu, như trăng nằm sâu trong
đáy nước thật im, thì tất cả vũ trụ dường như tan biến trong hư không, cảnh
nhòa trong sương khói, chỉ còn văng vẳng tiếng của ta ngày xưa réo gọi ta ngày
nay, ta lại gặp ta, và đó là quê hương:
Quê hương, ôi quê hương, tôi ở đây, hay tôi ở đó, tôi còn ở,
hay tôi đi rồi, tôi còn thức hay tôi đã ngủ, tôi đang tỉnh hay tôi chiêm bao,
đâu là cõi đi, đâu là cõi ở, đâu là nỗi mất, đâu là nỗi còn, đây là nắng chiều
xứ bạn, hay đây là nắng sớm quê tôi? Ta và tình của ta: tất cả quê hương thu gọn
vào trong một chữ tình, như tất cả mây trời phản chiếu trong giọt nước. Nước là
thực, mây là bóng dáng. Ta là thực, cho nên chỉ một quê hương có thực trong tập
thơ là quê hương soi bóng trong ta.
Là thế thôi, là kỷ niệm! Và trong muôn vàn kỷ niệm về quê
hương, xa xôi nhất, bâng quơ nhất, nhưng có lẽ cũng sâu thẳm nhất, vang âm hơi
thở của ai trong cõi mộng, hơi thở dịu dàng của những quyến luyến đầu tiên, hơi
thở bồi hồi của trái tim non chưa biết trao gửi nỗi niềm thế nào ngoài thơ với
mộng vu vơ. Và ví thử có ai đành đoạn ra đi không muốn mang theo một vết tích
thân thuộc gì trong ký ức, không muốn giữ cả một chút khói chiều trong hoàng
hôn, không muốn nhớ cả một nụ cười thấp thoáng bên kia hàng dậu, chắc cũng khó
quên được chút quyến luyến cuối cùng này: nấm mồ của "người ngủ bình
yên giấc cỏ hoa".
Chút đó thôi, quê hương nhiều khi chỉ còn là chút đó thôi,
nhưng đi đâu cũng không đành, ở đâu cũng không yên, nằm đâu cũng trở giấc, dù
cho đã vẫy tay từ giã với cả chút xương thịt cuối cùng: "thôi nhé, người
nằm với cố hương…".
Thế thì việc gì tôi phải trăn trở với lịch sử phế hưng! Tôi
đã chẳng từng biết quê hương là gì hay sao khi bất chợt đi giữa đường làng Âu
châu, đánh hơi thoáng thấy mùi phân lẩn trong rơm ướt? Hoa bầu hoa bí, rơm ẩm
đường làng… tôi là gì ngày hôm nay nếu không phải là chút hương hoa cỏn con đó?
Bất hạnh thay cho ai tưởng mình có thể không có quê hương. Chẳng biết họ còn biết
mình là ai nữa không.
°°°
Thưa bà, tôi gấp tập thơ, không đọc nữa, khi vừa giã từ đất
nước, bởi vì quê hương êm đềm, sương khói đó không phải là quê hương của tôi;
quê hương của tôi đang nằm dưới cánh máy bay, nức nở cái trở dạ của hạt lúa muốn
nãy mầm. Nhưng bây giờ, nghĩ lại, ai có lý hơn ai?
Nói gì về quê hương khi ở xa, khi về cũng không hẳn là về,
khi đi cũng chẳng thật là đi? Nên khổ sở, giày vò, ray rứt như tôi, hay nên điềm
đạm, vu vơ, thanh thản như người? Tôi biết có người xa nước mang một nắm đất đi
theo. Quê hương là nắm đất: giản dị như vậy đó sao? Tôi biết rồi tôi cũng có
ngày sẽ giản dị như vậy, sẽ mang nắm đất nơi hai thân tôi sẽ nằm xuống để làm
bát hương thờ phụng. Có lẽ khi đó tôi sẽ có một quan niệm dễ dãi hơn về quê
hương chăng? Và tôi sẽ mỉm cười chăng khi nghe có người thắc mắc hỏi tôi: nắm đất
của anh khát mùi bom B52 hay mùi khói súng Mậu Thân?
Ôi, có đất nào không mang một mùi thơm lịch sử, có vết bùn
nào ở Hậu Giang không ngọt lịm vọng cổ sáu câu, có con đường nào trên Ô Lý
không nghẹn ngào nước mắt Huyền Trân, có hạt sỏi nào bên này sông Gianh không
âm vang vó ngựa chúa Hiền, chúa Sãi? Nhưng có thật nắm đất của tôi, có thật cả
mảnh đất vươn dài bên bờ Thái Bình Dương kia, gợi lên trong tôi một mùi thơm
vua Trần, một mùi thơm chúa Nguyễn, một mùi thơm Chân Lạp, một mùi thơm duy vật,
duy tâm, khi tôi quỳ xuống hôn lên đất? Hay là tôi chỉ ngửi thấy mùi mạ non,
mùi lúa chín, mùi nắng cháy, mùi da thịt của mẹ tôi? Muôn thuở là quê hương,
thoảng qua là triều đại. Dính liền quê hương với chế độ là không biết phân biệt
xương thịt với mảnh áo khoác bên ngoài.
Vậy thì việc gì tôi để thịnh suy ngự trị trên hình ảnh của
tôi về quê hương? Tại sao không giản dị, rất giản dị, bình thường, rất bình thường,
bắt chước bà, nhìn quê hương như nhìn vườn mẹ ngày xưa, với hoa bí vàng, hoa bầu
trắng, cái bướm, con ong, bát canh rau má, hàng cau thắp nắng, hoa sầu đâu rụng
đầy sân? Dù tôi ba đời bảy kiếp xuất thân làm chú tiểu quét lá đa, hay xênh
xang áo mão trong cung vua phủ chúa, quê hương là gì bây giờ khi ở nơi xa, nếu
không giản dị có chừng ấy thôi, nếu không giản dị là vài hình ảnh, vài kỷ niệm,
và lạ thật, đã là kỷ niệm thì thành hoa, thành bướm, đã là kỷ niệm thì rực rỡ nắng
vàng. Giữa bà và tôi, thưa bà, giữa tôi với tập thơ, cũng có tao ngộ đấy chứ,
tôi đâu không có ân tình với mây quyện, khói trôi?
Nhưng chao ôi, trong tôi quá nặng những bàn tay vẫy đưa của
Huế, trong tôi nghẹn ngào bao nhiêu ước hẹn với Huế không nói nên lời. Thôi
thôi, tôi lại sắp xa bà rồi, tôi lại sắp trở về với những trăn trở của tôi. Biết
làm sao được, quê hương của tôi không phải chỉ là hoài niệm, lịch sử còn là
ngày mai, và trung thành với dòng sông không phải cứ hướng ngược về phía núi,
mà hãy cùng sông trôi xuôi ra biển.