Thời gian gần đây có khá nhiều nhà văn quay về với đề tài lịch
sử. Sự đi sâu vào nghiên cứu cùng những trang viết ấy, họ đã tái hiện lại một
triều đại, hay một giai đoạn lịch sử với góc độ, cái nhìn của riêng mình. Tuy
nhiên, không phải nhà văn nào cũng thành công với đề tài này. Gần đây ta có thể
thấy, Hoàng Quốc Hải với hai bộ tiểu thuyết: Tám triều nhà Lý, và Bão táp triều
Trần, hay Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh…Và cách nay mấy năm, nhân kỷ niệm lần
thứ 40, ngày thành lập Báo Viên Giác (Đức quốc) Hòa thượng Thích Như Điển đã
trình làng cuốn tiểu thuyết lịch sử: Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa.
Thật ra, đây là cuốn (tiểu thuyết) phân tích, lời bàn về lịch sử thì chính xác hơn. Thật vậy, trên sáu trăm trang sách được bắt đầu từ sự suy tàn của nhà Lý vắt qua ba cuộc chiến chống ngoại xâm của nhà Trần, đến cuộc đời, duyên định của Huyền Trân Công Chúa với Chế Mân. Một cuộc hôn nhân nặng màu sắc chính trị, khởi đầu cho việc mở mang bờ cõi về phía Nam, được miêu tả, phân tích dưới góc độ, cái nhìn của một vị chân tu, mang mang hồn vía sử thi. Có thể nói, Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa là tác phẩm có tính đặc trưng nhất về thủ pháp nghệ thuật lồng ghép truyện trong truyện, đan xen tình tiết, cài cắm tư tưởng khi trần thuật của nhà văn Thích Như Điển. Còn một điều đặc biệt nữa, cũng như tiểu thuyết Vụ Án Một Người Tu, mười ba chương trong tác phẩm Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa, có thể hoán vị cho nhau khi đọc. Bởi, mỗi chương đều có bố cục chặt chẽ, độc lập cài xen tư tưởng với những lời giải bình cho từng sự kiện, nhân vật. Dù có thể hoán đổi vị trí cho nhau như vậy, nhưng kỳ lạ, khi ghép lại, nó vẫn (nằm trong tổng thể) cùng một mạch văn, mạch truyện xuyên suốt tác phẩm. Và cũng từ đó cho ta thấy: Khi viết Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa ngoài phương diện dân tộc, nhà văn Thích Như Điển chịu ảnh hưởng rõ nét cái tư tưởng, giáo lý của nhà Phật. Do vậy, tính chân thực cùng lòng nhân đạo, nỗi cảm thông đậm nét trong tác phẩm này.
* Trần Thủ Độ- dưới ngòi bút và cái nhìn khách quan.
Dù là người xuất gia, song có thể nói, nhà văn Thích Như Điển
có cái nhìn cởi mở. Ngòi bút của ông đã thoát ra khỏi cái tư tưởng: Quân xử thần
tử, thần bất tử bất trung. Do vậy, tính triết lý, qui luật của thiên nhiên, với
sự công bình của cuộc sống và con người hiện rõ trên những trang viết của ông.
Thật vậy, khi triều đình đến tận cùng của sự mục nát, và Lý Huệ Tông buông xuôi
đến nhu nhược: “Nhìn xa rồi lại nhìn gần, cơ nghiệp của Nhà Lý đâu còn
gì nữa mà trông, vì chung quanh ông toàn là những nịnh thần hay những người
luôn muốn tạo phản để chỉ mong mang mối lợi về cho bản thân hay dòng tộc… mọi
an nguy của xã tắc Huệ Tông đều hững hờ, cứ để cho thế sự xoay vần đến đâu thì
hay đến đó. Bởi chính bản thân ông không đủ tài cán và chung quanh cũng không
tìm ra người tâm huyết để giúp lèo lái con thuyền quốc gia đại sự đến được nơi
chốn an bình, cho dân chúng an cư lạc nghiệp.“ (chương1) thì dưới lăng
kính của nhà văn Thích Như Điển, không có gì gọi là vĩnh cửu. Những nguyên nhân
ấy sớm muộn dẫn đến sự soán ngôi, hay sụp đổ của một vương triều là điều tất yếu: "ông
vua nào lên ngôi cũng mong mình trị vì thiên hạ lâu năm, nên bắt thần dân phải
tung hô “Vạn tuế”. Thế nhưng đâu có ông vua nào làm vua được trăm năm, đừng nói
gì đến ngàn năm, vạn năm thì chắc sẽ không bao giờ có“ (chương 2).
Trong bối cảnh như vậy, sự xuất hiện của Trần Thủ Độ dưới
ngòi bút của nhà văn Thích Như Điển là một tội đồ đầy mưu mô, tàn nhẫn, và cũng
là một đại công thần. Dường như, nhà văn đã bóc trần bức tranh hai mặt, bởi cho
đến nay đã đủ độ lùi về thời gian để người đọc tự đánh giá chính xác, công bình
nhất về nhân vật đầy mẫu thuẫn, và đặc biệt này. Khi đi sâu vào phân tích tâm
lý, với những hành động được gọi là quỷ khóc thần sầu của Trần Thủ Độ, nhà văn
Thích Như Điển phê phán một cách gay gắt: “Thật là một kẻ ác tâm, so với
ngày xưa ở Ấn Độ A Xà Thế hại Vua cha, Đề Bà Đạt Đa hại Phật thì cũng không kém
chỗ nào“. Nhưng cùng đó nhà văn cũng phải đề cao tài năng của Trần Thủ Độ: “Vào
năm 1226, nghĩa là sau 2 năm Chiêu Hoàng làm vua và chính thức nhường ngôi cho
chồng, Trần Cảnh lên ngôi xưng là Trần Thái Tông. Tất cả đều do một tay của
Thái sư Trần Thủ Độ đạo diễn, thật là tuyệt vời, không một giọt máu nào rơi giữa
kinh thành Thăng Long“ (chương 2)
Thật vậy, nếu không xuất hiện một Trần Thủ Độ và lập nên triều
Trần thì con dân Đại Việt đã bị thôn tính, đô hộ là cái chắc, làm gì có ba lần
đại thắng giặc Nguyên Mông mang lại vẻ vang cho lịch sử nước nhà. Và việc thay
triều Lý bằng nhà Trần là nhu cầu tất yếu của lịch sử ở thời khắc đó. Có thể
nói, cuộc thay triều đổi đại này, mang tính nhân đạo cao cả. Bởi, nhìn lại lịch
sử chưa có cuộc thay đổi triều đại nào là không dẫn đến một cuộc nội chiến đầu
rơi máu chảy.
Đi sâu vào đọc, và nghiên cứu, ta có thể thấy, không chỉ
riêng tùy bút, tạp văn hay khảo cứu, mà ngay cả tiểu thuyết sự liên tưởng, mở rộng
để từ đó bật ra những bài học, luận bàn là một nghệ thuật đã được nâng lên,
mang tính đặc trưng trong thơ văn của Hòa thượng Thích Như Điển. Vâng! Đúng vậy.
Nếu tùy bút, hồi ký Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác, Hương Lúa Chùa Quê, được mở rộng
bằng những chuyến đi hoằng pháp, thì đến với tiểu thuyết Mối Tơ Vương Của Huyền
Trân Công Chúa, nhà văn Thích Như Điển liên tưởng đến những Lý Long Tường hoàng
tử, hay hậu duệ Lý Thừa Vãn Tổng thống của Nam Hàn, Lý Kính Huy Tổng thống Đài
Loan, hoặc chính tác giả cùng mấy triệu con dân đất Việt phải rời bỏ quê hương
sau 1975. Đây không chỉ là hậu quả, mà còn là một bài học, nỗi đau cho người đọc
và cho chính tác giả vậy.
* Nhà Trần cùng Phật giáo với những dấu ấn trong lòng dân
tộc.
Đọc Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa, ta có thể thấy,
ngoài kinh kệ, thơ văn, hay trong cuộc sống cũng vậy, trải dài suốt gần hai
trăm năm, dường như Vương triều Trần trộn Đạo vào đời. Và cửa Phật không chỉ là
cái nơi thần dân hướng tới, mà là nơi các Quân Vương phải đi đến. Vì vậy, thời
Trần, Phật giáo phát triển rực rỡ nhất kể từ khi lập quốc đến nay. Và việc thu
phục nhân tâm, lấy đức để trị quốc tạo ra sức mạnh đoàn kết chống giặc ngoại
xâm, cũng như xây dựng đất nước, như một sợi chỉ xuyên suốt thời kỳ đầu nhà Trần
vậy. Có thể nói, Tuệ Trung Thượng Sĩ, và Trần Nhân Tông là hai nhân vật điển
hình nhất về đặc điểm đó trong tiểu thuyết này của nhà văn Thích Như Điển. Là một
người chân tu, do vậy với nhà văn Thích Như Điển: Nếu không có nền tảng, tư tưởng
giáo lý của nhà Phật, thì chưa chắc quân dân nhà Trần đã có những chiến công hiển
hách đến như vậy. Cho nên, khi trần thuật và phân tích về nhân vật Trần Nhân
Tông, ngoài chính sách trị quốc, an dân, theo tinh thần khoan dung, bình đẳng của
Phật giáo, thì việc mở mang bờ cõi mang đậm nét trong tư tưởng của ông. Sự định
hôn Huyền Trân Công Chúa với Chế Mân để đổi lấy châu Ô và châu Lý, đã chứng
minh cho cái tư tưởng ấy, và cái nhìn chiến lược rất sâu sắc của Trần Nhân
Tông. Thật vậy, lời cảm nhận dưới đây, không chỉ cho ta thấy tài năng, tư tưởng,
mà còn thấy được đức hy sinh của Phật Hoàng Trần Nhân Tông qua ngòi bút của nhà
văn Thích Như Điển:
“Đây là cái phúc của dân tộc Việt Nam đã có được một ông
Vua biết hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình để đi tìm cái chung cho dân tộc là
vậy. Dĩ nhiên ông không thể so sánh với Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni của Ấn Độ được
vì ông chỉ là một học trò của hàng cháu chắt của Ngài từ Thiên Trúc đến Trung
Hoa rồi Việt Nam qua cả mấy chục đời như vậy, nhưng ông là một ông Vua tuyệt vời
trên tất cả những sự tuyệt vời khác.“ (chương 4)
Không đi sâu vào trần thuật, phân tích, nhưng người đọc cảm
được cái khí thế hừng hực cùng những chiến công oanh liệt của quân dân nhà Trần
qua ba cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. Câu nói khẳng khái của Trần Quốc
Tuấn: “Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước rồi hãy
hàng” là hồn khí, biểu tượng tinh thần bất khuất của quân dân nhà Trần
vậy. Có thể nói, nhà văn Thích Như Điển đã dành khá nhiều trang viết trân trọng,
với những lời bình, phân tích rất hay và sâu sắc về tài năng, nhân cách của Trần
Quốc Tuấn. Về những nhân vật lịch sử, có quá nhiều người trước đây, và cùng thời
đã viết, có lẽ không dễ dàng gì với nhà văn Thích Như Điển, khi chọn đề tài
này. Nhưng ông đã thuyết phục được người đọc, bởi lối dẫn chuyện truyền thống
đơn giản, câu văn mộc mạc, cùng sự liên tưởng đan xen lời phân tích, diễn giải.
Đoạn kết chương 6 rất xác đáng của nhà văn về Trần Quốc Tuấn sau đây, cho chúng
ta thấy rõ điều đó. Tuy nhiên, đoạn văn này có những từ ngữ (suốt) lặp lại một
cách không cần thiết, và câu văn quá dài có đến bốn đại từ sở hữu, cùng hai đại
từ nhân xưng. Vì vậy, nó làm cho đoạn văn trở nên rối rắm:
“Nhìn xuyên suốt cuộc đời hành hoạt (của Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc) Tuấn qua (suốt) 4 đời Vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và
Anh Tông, (ông) đã một lòng vì quốc gia đại sự và với tâm nguyện quên thù nhà để
trả nợ nước, nên qua 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông vào năm 1258,
1285 và 1288 (chúng ta) đều thấy rõ nét sự hy sinh (của ông) lúc xông trận đánh
giặc, lúc phò vua cứu giá, lúc thưởng phạt cho binh sĩ, lúc ra hịch thúc quân
v.v…, lúc nào cũng như lúc nào bốn chữ: Trung Quân Ái Quốc vẫn nằm trong tâm khảm
(của ông) và chưa một lần thất bại, dầu ở trận đánh nào. Cho nên Thượng Hoàng
Thánh Tông và Hoàng Đế đương triều Nhân Tông phong cho ông là “Thượng Phụ” cũng
quá xứng đáng cho một đời chinh y đầy bụi, và sĩ khí can cường kia đã làm cho
người đời sau phải tự nghiêng mình trước những nghĩa cử cao cả của Hưng Đạo Đại
Vương.“
Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ là anh ruột Trần Hưng Đạo, và
là người thầy đưa Trần Nhân Tông đến với nơi cửa Phật. Song văn sử, sách báo dường
như, ông ít được nhắc đến với những trận chiến chống giặc Nguyên Mông. Tuy
nhiên, dưới ngòi bút của nhà văn Thích Như Điển, ông hiện lên rất đậm nét, gây
cho tôi nhiều ấn tượng thật đặc biệt, mới và ngạc nhiên. Dù đã ở nơi cửa Phật,
nhưng khi đất nước bị giặc giã lâm nguy ông vẫn cởi áo cà sa để bước ra chiến
trường. Với văn võ song toàn, can đảm và đầy mưu lược, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã
sát cánh cùng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lập nên những chiến thắng hiển
hách. Do vậy, đọc Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa, ta có thể thấy, cùng với
Trần Hưng Đạo, Tuệ Trung Thượng Sĩ là linh hồn chống giặc ngoại xâm và xây dựng
đất nước của quân dân Đại Việt ở giai đoạn đó. Và đất nước bình yên, ông lại rũ
bỏ vinh hoa trở về nơi cửa Phật để vá lại hồn người, hồn dân tộc sau chiến
tranh. Cho nên, đọc những trang viết về Tuệ Trung Thượng Sĩ của nhà văn Thích
Như Điển, có lẽ ai cũng phải bùi ngùi, và cảm động:
“Ngoài ra, những ai nhận phái Trúc Lâm Yên Tử làm tông
phái của mình để tu hành thì không thể không biết đến Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ,
vốn là Thầy của Vua Trần Nhân Tông, người sáng lập ra Thiền phái nầy. Sự truyền
thừa củaTrúc Lâm Tam Tổ rất rõ ràng. Đó là Điều Ngự Giác Hoàng, Pháp Loa và Huyền
Quang, nhưng nếu không nhờ hình bóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ ở chốn triều đình,
thì làm sao ai có thể ảnh hưởng đến Vua Trần Nhân Tông được? Do vậy chúng ta
cũng có thể kết luận rằng: Tuệ Trung Thượng Sĩ chính là người mở đường dẫn lối
cho Vua Trần Nhân Tông đi vào cửa Đạo và sau nầy trở thành Sơ Tổ của Phái Trúc
Lâm Yên Tử vậy“ (chương 6)
Đọc Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa đã cho tôi một cảm
nhận: Dường như, sở trường của Hòa Thượng Thích Như Điển là tâm bút, tùy bút, hồi
ký chứ không phải là tiểu thuyết, hay truyện ngắn. Tùy bút, hồi tưởng của ông
truyền cảm được đan xen vào những trang tiểu thuyết làm cho lời văn trở nên
sinh động hơn. Thật vậy, đoạn tâm bút dưới đây có lời văn rất đẹp, mang mang
hoài cổ của ông, được cảm tác từ bài thơ Đường của Bà Huyện Thanh Quan, khi nhà
Trần sụp đổ, Thăng Long trở thành hoang phế, sẽ chứng minh cho điều đó. Vâng, nỗi
u hoài ấy của Bà Huyện Thanh Quan, hay chính là nỗi buồn của nhà văn Thích Như
Điển vậy:
“Thăng Long cũng đã trải qua nhiều nắng sớm sương chiều
như vậy. Nơi ấy, hằng ghi lại bao nhiêu dấu tích của vết xe ngựa đã lăn qua.
Chúng làm mòn cả lối đi cho bao nhiêu mùa Thu của cây cỏ, và lầu vàng gác ngọc
ngày xưa ấy quanh năm suốt tháng được che chở bởi những tàng cây xanh mát, để mặt
trời khỏi rọi chiếu vào. Thế nhưng những cụm đá được xây thành lâu đài ấy giờ
đây nằm im lìm bất động ở đó, chỉ có non sông gấm vóc nầy vẫn còn lạnh nhạt với
bao nhiêu sự đổi thay của các triều đại, không khác nào bãi biển ngày xưa đó,
nhưng bây giờ đã trở thành những ruộng dâu rồi. Nếu lấy một ngàn năm để làm tấm
gương chiếu hậu, soi lại cho chính mình và cho nước nhà Đại Việt, thì kẻ bên nầy
hay người bên kia, kẻ đang được một triều đại tôn phong bao bọc bởi vinh hoa
phú quý, rồi nhìn lại người ở đây bị thất sủng chầu rìa, bị bỏ rơi ra ngoài xã
hội, thì nỗi đau nào còn sầu thảm hơn được như thế nữa chăng?“ (chương
3)
Tuy không gay gắt, nhưng nhà văn Thích Như Điển đã phê phán
thẳng thắn sự hợp hôn cận huyết thống của nhà Trần. Nhà văn miêu tả khá sâu sắc
sự dày vò, day dứt nội tâm của Trần Thái Tông cũng như Trần Nhân Tông... Nhận
ra, sự sai trái và tác hại của hợp hôn cận huyết, song họ không thể thoát ra khỏi
cái vòng kim cô của Trần Thủ Độ để lại. Và có lẽ, đây cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự sụp độ của một vương triều chăng?
*Huyền Trân Công Chúa- Sự giải oan cho một cuộc tình.
Mở rộng cương thổ về phương Nam là sách lược nhà Trần. Có thể
nói, đây là cái nhìn sáng suốt của Thượng hoàng Trần Nhân Tông và Vua Trần Anh
Tông. Tuy nhiên, bằng hình thức, thủ thuật lớp lang che chắn có tính sân khấu,
kịch trường của nhà văn Thích Như Điển: “Có nghĩa là nếu cả hai nước Đại
Việt và Chiêm Thành đang có biên giới liền nhau và phong tục, tập quán, ngôn ngữ
v.v… tuy khác nhau rất nhiều, nhưng tinh thần đề phòng sự xâm lăng phía Bắc từ
Trung Quốc thì không khác. Nếu cả 2 nước đều có mối giao hảo tốt hơn là mối
giao hảo bình thường thì đó là một điềm lành, có lợi cho cả hai dân tộc, nên ý
định gả Huyền Trân cho Chế Mân chỉ xuất phát từ ý định đó…“ (chương 8)
nhưng khi nhận hai châu Ô, Lý, thì sự gả bán này mang tính chính trị rõ ràng. Vậy
là, phông màn đã được mở, khởi đầu cho việc sáp nhập Chiêm Thành vào đất Việt
cho thế hệ sau, dưới ngòi bút của nhà văn Thích Như Điển.
Và có thể nói, ông rất công phu khi đi sâu vào miêu tả tính
cách, tâm trạng từ thuở thiếu thời cho đến nhập Chiêm và quay về chốn tu hành của
Huyền Trân Công Chúa. Mượn cảnh vật thiên nhiên để miêu tả, phân tích nội tâm
nhân vật là thủ pháp nghệ thuật không mới, tuy nhiên không phải ai cũng viết được
sâu sắc và nhẹ nhàng như nhà văn Thích Như Điển. Thật vậy, tác giả đã mượn Hoa
Trà My để nói về tâm trạng, nỗi buồn của Huyền Trân Công Chúa trước khi phải
vào làm dâu đất Chiêm. Sự hy sinh cao cả, cùng tâm hồn trong trắng đó làm người
đọc không khỏi rưng rưng, thương cảm cho thân phận của bà. Đoạn văn so sánh, giầu
hình ảnh dưới đây, cho ta thấy rõ điều đó:
“Hoa Trà My vốn là một trong những loài hoa khi nở có màu
trắng, mang hương sắc của một loài hoa vương giả, thế nhưng những loài ong bướm
tầm thường khi tìm hoa hút nhụy, chúng đâu có tiếc thương, dẫu cho đó là loại
hoa nào.Quả thật một đời của hoa sánh với cuộc đời của người con gái chẳng khác
xa là bao nhiêu. Nếu có chăng, người con gái là một loài hoa biết nói, còn những
loài hoa khác tượng trưng cho một trong những loại thực vật bình thường trong
các loài kỳ hoa dị thảo vốn được sinh sống tự nhiên nơi những núi đồi cô quạnh,
hay chúng được trồng trọt chăm sóc nơi vườn ngự uyển của cung vua“ (chương
11)
Không đi sâu vào phân tích, nhưng dưới ngòi bút của nhà văn
Thích Như Điển, Thượng tướng Trần Khắc Chung hiện lên một nhân cách lớn, văn võ
song toàn, uyên bác về Phật học. Với những chứng cứ lịch sử chân thực đưa vào
những trang văn của mình, dường như nhà văn Thích Như Điển muốn bác bỏ những ý
kiến, quan điểm phiến diện, thiếu chứng cứ khoa học về việc Trần Khắc Chung tư
thông với Huyền Trân Công Chúa. Thật vậy, viết cuốn tiểu thuyết này, nhà văn
Thích Như Điển như muốn giải oan cho một cuộc tình vậy. Đoạn trích lời tự sự của
Huyền Trân Công Chúa với một tỳ nữ, chứng minh cho ta thấy rõ điều đó:
“Thượng tướng Trần Khắc Chung cũng là một người tu Thiền
với Thân Phụ ta. Ông đã có lần đề bạt cho tập “Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục” vốn
là Ông cậu của ta, do Pháp Loa biên tập và Phụ thân của ta phụ đính….Ta nghĩ rằng
ông là thế hệ của cha mình, làm quan cả mấy triều và danh vọng thật cao ngất trời
xanh, tuổi đã lớn, còn ta chỉ xứng hàng con cháu thì quan tâm đến những việc nhỏ
nhặt ấy làm gì. Vả lại theo tục lệ của Đại Việt cũng như của Chiêm Quốc, người
con gái đã lấy chồng rồi thì phải thực hiện câu “Tam tòng, tứ đức” chứ ta đâu
có phải là kẻ lang bạt giang hồ mà ông ta lại chẳng hiểu. Chồng ta bây giờ đã
không còn thì ta vui chi với những lời hoa nguyệt …” (chương 12)
Đi sâu vào đọc và nghiên cứu Mối Tơ Vương Của Huyền Trân
Công Chúa, ta có thể thấy, nhà văn Thích Như Điển đã dựng lại cả một giai đoạn
lịch sử một cách sinh động. Thông qua các nhân vật từ Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần
Nhân Tông rồi đến Huyền Trân Công Chúa…cái tư tưởng giáo lý của nhà Phật đã
xuyên suốt tác phẩm của ông. Tuy nhiên, Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa
có khá nhiều từ ngữ, câu văn lặp lại. Hoặc có những đoạn mang tính liệt
kê: “Nếu nhìn vào “Tộc Phả” các thế hệ vua và quan đời Nhà Trần của những
thế hệ đầu thì ta thấy như thế nầy: Trần Thừa sinh ra Trần Cảnh và Trần Liễu.
Như vậy Trần Liễu ở vai anh và Trần Cảnh tức Vua Trần Thái Tông thuộc vai em…
Hoặc: Thật ra việc nầy cũng không khó hiểu mấy. Sau đây là những lý do chính. Đầu
tiên là việc đại thắng quân Nguyên Mông…“. Nó làm cho mạch văn bị cắt
rời, người đọc hơi bị hụt hẫng. Và dường như, ta ít tìm thấy những đoạn văn đẹp
như ở Bóng Đa Chùa Viên giác, hay Hương lúa chùa quê.
Leipzig ngày 28-1-2021
Đỗ Trường