Tôi sinh ra ở Sài Gòn, nơi vẫn được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn
Ðông. Chỉ tiếc có điều là ngay tại chỗ tôi mở mắt chào đời (Xóm Chiếu,
Khánh Hội) thì lại không được danh giá hay ngọc ngà gì cho lắm. Đây thường là
nơi ngụ cư của những tay anh chị, những cô gái ăn sương, những đứa trẻ bụi đời,
những phu phen bốc vác ở kho Năm, hay đám “đào kép cải lương say tứ chiếng” –
theo như lời của nhà thơ Cao
Đông Khánh:
Dù “xàng xê” và “cải lương” tới bến nhưng khi “cách
mạng về” là dân Khánh Hội đều “hết say tứ chiến” cấp kỳ. Tui, tất
nhiên, cũng tỉnh táo liền. Tỉnh rồi mới bắt đầu hớt
hải “hỏi thăm cho biết đường ra biển,” và cuống quýt đâm xầm vào giữa
đại dương, bỏ lại S.G – như cắn răng cắt bỏ một phần thân thể của
chính mình.
Tuy thoát thân nhưng không ít đêm, những đêm khó ngủ,
tôi vẫn lò dò trở về chốn cũ. Có khi, tôi đứng ngẩn ngơ nhìn chiếc
bong bóng vừa mua đã (lỡ) tuột khỏi tay – lơ lửng bay giữa những hàng
cây, vào một buổi chiều Sài Gòn vừa tắt nắng – mà muốn ứa nước
mắt vì tiếc và buồn.
Cũng có khi tôi ngồi trước một xe bán bò viên, chăm
chăm nhìn thùng nước lèo vừa mở nắp, và tưởng chừng như không gian (của
cả Sài Gòn hoa lệ) bỗng ngạt ngào hương vị. Chút nước thánh này
– sau khi đã nhai thiệt chậm miếng thịt pha gân vừa ròn, vừa ngậy – hoà nhẹ với
chút xíu tương đỏ, tương đen, cùng ớt xa tế ngọt ngọt cay cay làm cho thằng
bé xuýt xoa … cho đến lúc cuối đời.
Nhiều khi, tôi ngồi chò hỏ trước nhà (mặt buồn thiu)
vì không được bố mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay năm cắc hay tờ giấy bạc
một đồng – như thường lệ. Chỉ cần năm cắc thôi là đủ khiến chú Chệt vội
vã ngừng xe, mở ngay nắp bình móp, lấy miếng kem đầy đặn – xắn một phần
vuông vắn, cắm phập vào que tre – trịnh trọng trao hàng với nụ cười hiền lành
và tươi tắn. Cắn một miếng ngập răng, đậu xanh ngọt bùi, thấm lạnh dần qua
miệng lưỡi, rồi tan từ từ… suốt cả thời thơ ấu.
Năm cắc là giá của nửa ổ bánh mì tai heo, nửa má xoài tượng,
một xâu tầm ruột ướp nước đường, một cuốn bò bía, một trái bắp vườn, một ly đậu
xanh đậu đỏ bánh lọt, một dĩa gỏi đu đủ bò khô, một khúc mía hấp, năm cái bánh
bò nước dừa xanh đỏ, hay mười viên cái bi ròn ròn cái bi ngon ngon nho nhỏ…
Một một đồng thì (ôi thôi) là cả bầu một trời, và một thời,
hạnh phúc! Một đồng mới mua được quả bóng bay. Chiều Sài Gòn mà không có bong
bóng (cầm tay) để tung tăng e sẽ là một buổi chiều… tẻ nhạt. Những chùm bóng đủ
mầu sẽ rực rỡ hơn khi phố đã lên đèn, và sẽ rực rỡ mãi trong trong ký ức của một
kẻ tha hương – cho mãi đến khi tóc đã điểm sương.
Dù một trời, và một thời, hạnh phúc xa xưa đã vuột khỏi
tay – như quả bóng bay, không may, chiều nào, vào thưở ấu thời – tôi
vẫn “sẵn sàng” nổi nóng nếu ai vô ý đặt chân đến cái phần thiên
đường đã mất của mình.
Có bữa, bên bàn nhậu, Lê Diễn Đức bỗng nói khơi
khơi:
– Tôi là dân Sài Gòn mà.
Tôi trợn trừng mắt:
– Đừng có nói giỡn cha!
– Thiệt mà, tôi sống ở Sài Gòn gần hai chục năm chớ
đâu phải ít.
Tới lúc đó tôi mới chợt nhớ ra là mình đã bỏ đi
từ quá lâu rồi, còn tư cách gì để mà giữ S.G (mãi mãi) nữa nên
đành xuôi xị:
– Bộ lâu dữ vậy sao?
Sau Lê Diễn Đức, tôi còn biết thêm nhiều nhân vật
khác, cũng đã chọn S.G làm quê hương chỉ vì nó quá… dễ thương – theo
mắt nhìn của họ:
– Ba Sàm Nguyễn Hữu
Vinh: “Một đêm, chạy xe máy về nhà (ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ, ngó hai
bên đường vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng thắng
xe cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với chiếc xích lô trống không.
Quê quá, phải dừng theo! Nhiều năm sau, ở Hà Nội, những ngã
tư đông đúc như Tràng Tiền-Hàng Bài, ngoài một chú cảnh sát đứng bục, thường phải
thêm có 4 chú cầm gậy chặn bốn phía, lùa, đuổi mà cũng không xuể.
Lên xe bus, xe đò trong Nam luôn cho hắn những cảm giác
thích thú để quan sát. Đủ các hạng người, mà sao không chen lấn, cãi vã. Khách
nhường ghế cho nhau, thăm hỏi, chỉ đường tận tình (những thứ mà cho đến hôm
nay, trên xe bus Hà Nội, người ta phải ghi lên tấm biển to đùng, thành “Nội
quy”). Lơ xe lăng xăng xách, buộc chằng đồ cẩn thận cho khách, nhảy lên mui,
đeo bên thành xe la nhắc người dưới đường cẩn thận.”
– Nguyễn
Quang Lập: “Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài
Gòn… Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành
phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng
tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà
chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy.
Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo
nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời.
Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh
khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu
ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch
viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo
cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí…
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà
phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè
chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc
cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân
kính.
Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp
bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé
phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ
như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một
lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.”
Tôi cũng “sửng sốt” không kém khi nhìn thấy bức hình
của một người S.G (nữa) giữa phố Nguyễn Huệ – vào chiều chủ nhật,
15 tháng 5 năm 2016 vừa qua – trên trang RFA:
Bức ảnh người đàn ông toạ kháng một mình trên phố đi bộ
Nguyễn Huệ chiều 15 tháng 5 được chụp bởi một người chơi ảnh tên Bùi Dzũ nhanh
chóng được lan truyền rộng rãi trên các trang mạng xã hội. Không lâu sau đó, cư
dân mạng biết tìm ra đó chính là nhà báo/blogger Huỳnh Ngọc Chênh, người đã
phát động phong trào toạ kháng để đòi sự minh bạch về thảm hoạ môi trường. Tấm ảnh
được chính người chụp gọi tên là “Người đàn ông cô đơn”.
Tôi không biết rõ Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Quang Lập,
Huỳnh Ngọc Chênh… nguyên quán nơi đâu nhưng biết chắc là họ đã sống
hết lòng (qua từng hơi thở, từng dòng chữ, từng bước chân) để cố
giữ lại được cho S.G – phần nào – nhân phẩm và đạo lý.
Bao giờ mà ở những góc đường vẫn có những bình
trà đá, những thùng bánh mì, những quán cơm, những nơi vá xe (miễn
phí) và bao giờ mà vẫn còn qúi vị thức giả sẵn sàng đối diện với
cường quyền thì S.G vẫn chưa thể mất. Tôi không mất S.G đâu nhưng thành
phố này đã mất tôi, và mất tự lâu rồi. Cái thứ đồ bỏ chạy (mất
dép) trong cơn quốc biến, và cúi mặt đi luôn như tôi thì dù có mất
luôn (phỏng) có gì đáng để bận tâm.
Tưởng Năng Tiến